Những người lùn canh gác bên ngoài khu phòng của Orik mở toang cánh cửa đôi
dẫn vào trong khi Eragon bước về phía họ.
Lối vào trước mặt dài và trang trí
lộng lẫy, có ba ghế ngồi hình tròn bọc vải đỏ xếp thành một hàng kéo xuống giữa
phòng. Những tấm rèm thêu trang trí các bức tường, cùng những ngọn đèn không lửa
ở khắp nơi, trong khi trần nhà được khắc chạm để mô tả một trận chiến lừng danh
trong lịch sử người lùn.
Orik đang đứng hội ý với một nhóm
lính của mình và vài người lùn râu xám của tộc Ingeitum. Eragon vừa đến gần,
Orik quay sang nó, nét mặt dữ tợn. “Tốt, cậu đã không chậm trễ! Hûndfast, anh
lui về doanh trại của mình được rồi. Chúng tôi cần nói chuyện riêng.”
Phiên dịch viên của Eragon cúi đầu và
biến mất qua cái cổng tò vò phía bên trái, bước chân ông ta vang dội trên sàn đá
mã não láng bóng. Khi ông ta đã ở ngoài tầm nghe, Eragon nói, “Ông không tin ông
ta?”
Orik nhún vai. “Giờ tôi chẳng biết tin ai hết; càng ít người biết chúng
ta đã khám phá ra những gì, càng tốt. Chúng ta không thể liều để cho tin tức rò
rỉ sang tộc khác trước ngày mai. Nếu bị thế, điều đó chắc chắn đồng nghĩa với
một cuộc chiến thị tộc.” Những người lùn đằng sau ông thì thầm với nhau, có vẻ
bối rối.
“Thế tin tức của ông là gì?” Eragon lo lắng hỏi.
Orik ra hiệu, những người lính đứng
sau lưng ông liền bước sang một bên, để lộ ra trong góc ba người lùn bết máu me
bị trói chồng chất lên nhau. Người lùn nằm dưới cùng rên rỉ và đá chân trong
không trung nhưng không thể tự thoát ra khỏi bên dưới mấy tên bạn tù.
“Bọn nào đây?” Eragon hỏi.
Orik đáp, “Tôi đã nhờ vài thợ rèn
kiểm tra mấy con dao găm của bọn tấn công. Họ xác nhận tay nghề đó là của một gã
Kiefna Mũi-dài, một thợ rèn kiếm của tộc ta, có khá nhiều tiếng tăm.”
“Tức là ông ta có thể cho ta biết ai đã mua những con dao đó và do đó kẻ thù
của chúng ta là ai?”
Một tiếng cười cộc cằn làm rung bộ
ngực của Orik. “Gần như không, nhưng chúng tôi đã truy dấu được những con dao từ
Kiefna đến một tay sản xuất vũ khí ở Dalgon, cách đây rất nhiều dặm, hắn ta đã
bán chúng cho một knurlaf với –”
“Một knurlaf?” Eragon hỏi.
Orik cáu kỉnh. “Một phụ nữ. Một phụ nữ với bảy
ngón mỗi bàn tay đã mua những con dao cách đây hai tháng.”
“Thế ông tìm thấy
bà ta chứ? Không thế có quá nhiều phụ nữ có số ngón tay như vậy được.”
“Thực ra, tình trạng đó là khá phổ
biến trong chúng tôi,” Orik nói. “Nhưng mặc xác vụ đó đi, sau khá nhiều vất vả,
chúng tôi đã xoay sở định vị được bà ta ở Dalgon. Lính của tôi ở đó đã thẩm vấn
bà ta một cách tỉ mỉ nhất. Bà ta thuộc bộ tộc Nagra, nhưng theo như chúng tôi
xác định được, bà ta đã hành động theo ý muốn cá nhân, và không theo lệnh nào từ
những người đứng đầu tộc của bà ta cả. Từ bà ta, chúng tôi biết được là một
người lùn đã thuê bà ta mua những con dao găm rồi giao cho một tay buôn rượu rồi
tay đó sẽ mang chúng đi từ Dalgon. Kẻ thuê người phụ nữ không cho bà ta biết
những con dao sẽ được đưa đến đâu, nhưng nhờ hỏi những thương gia của thành phố,
chúng tôi đã phát hiện ra rằng hắn đi thẳng từ Dalgon đến một trong những thành
phố được quản lý bởi Dûrgrimst Az Sweldn rak Anhûin.”
“Như thế chính là bọn chúng!” Eragon kêu lên.
“Hoặc thế hoặc có thể là kẻ nào đó
muốn ta nghĩ đó chính là chúng. Ta cần nhiều chứng cứ hơn trước khi có thể xác
minh được chắc chắn tội ác của Az Sweldn rak Anhûin.” Một tia sáng lóe lên trong
mắt Orik, và ông giơ một ngón tay.
“Vậy là, bằng cách dùng một thần chú rất,
rất thông minh, chúng tôi đã vạch lại đường đi của bọn sát thủ ngược lại qua các
đường hầm và hang động rồi lên đến một khu vực bỏ hoang ở tầng thứ mười hai của
Tronjheim, tách khỏi đại sảnh phụ thêm vào ở nhánh phía nam của góc phía tây,
dọc theo…thôi, được rồi, cái đó không vấn đề. Nhưng một hôm nào đấy tôi sẽ phải
dạy cậu cách các phòng được bố trí trong Tronjheim, để nếu có lúc nào cậu cần
tìm một nơi bên trong thành phố một mình, thì cậu còn tìm được. Dù thế nào thì,
con đường dẫn chúng tôi đến một nhà kho bỏ hoang nơi mà ba tên kia –” ông ra dấu
về phía những gã lùn bị trói –“đang ở. Chúng không ngờ đến chúng tôi, và do đó
chúng tôi có thể bắt sống chúng, dù chúng đã cố tự sát. Chẳng dễ dàng gì, nhưng
chúng tôi đã công phá ký ức của hai tên – để lại tên thứ ba cho những
grimstborithn khác thẩm vấn tùy ý – và chúng tôi đã khai thác mọi thứ chúng biết
về vụ này.” Orik lại chỉ vào mấy tù nhân. “Chính là bọn này đã hỗ trợ cho bọn
sát thủ tấn công, cung cấp dao với mớ quần áo đen, và cho chúng ăn và trú ẩn tối
hôm qua.”
“Chúng là ai?” Eragon hỏi.
“Ha!” Orik kêu lên, và nhổ xuống sàn.
“Chúng là Vargrimstn, những chiến binh đã tự làm nhục mặt mình và giờ không
thuộc tộc nào cả. Chả ai giao du với những tên rác rưởi như thế trừ khi phải
dính líu vào những hành vi côn đồ mà không muốn có người biết. Về ba tên đó thì
là thế. Chúng nhận lệnh trực tiếp từ Grimstborith Vermûnd của Az Sweldn rak
Anhûin.”
“Không còn nghi ngờ gì sao?”
Orik lắc đầu. “Không nghi ngờ gì cả;
chính Az Sweldn rak Anhûin đã cố giết cậu, Eragon ạ. Chúng ta chắc sẽ không bao
giờ biết được có tộc nào khác tham gia với chúng trong pha tấn công này hay
không, nhưng nếu ta vạch trần sự phản trắc của Az Sweldn rak Anhûin, điều đó sẽ
buộc bất cứ kẻ nào khác có liên quan đến âm mưu này phải làm ô danh chính những
đồng mưu trước đây của chúng; phải từ bỏ, hoặc ít nhất là trì hoãn, những công
kích xa hơn vào Dûrgrimst Ingeitum; và, nếu việc này được xử lý thích đáng, phải
đưa tôi lá phiếu của chúng cho ngôi vua.”
Một hình ảnh nhá lên trong tâm trí
Eragon về lưỡi kiếm màu sắc lấp loáng lòi ra từ sau cổ của Kvîstor và biểu hiện
đau đớn của ông ta khi ngã xuống sàn chết. “Chúng ta sẽ trừng trị Az Sweldn rak
Anhûin như thế nào vì tội này? Có nên giết Vermûnd không?"
“A, cứ để việc đó cho tôi,” Orik nói,
gõ nhẹ lên mũi. “Tôi có một kế hoạch. Nhưng chúng ta phải bước đi thật cẩn thận,
vì đây là một tình huống thuộc loại vô cùng tinh vi. Một sự bội phản như thế
chưa hề xảy ra trong rất nhiều năm rồi. Là người ngoài, cậu không thể biết chúng
tôi thấy ghê tởm thế nào khi phát hiện ra một kẻ trong chính chúng tôi lại tấn
công một vị khách. Việc cậu là Kỵ sĩ tự do duy nhất chống lại Galbatorix càng
làm cho tội lỗi trở nên tồi tệ hơn. Có thể cuộc đổ máu tiếp theo là cần thiết,
nhưng vào lúc này, nó sẽ chỉ dẫn đến một cuộc chiến thị tộc khác.”
“Một cuộc
chiến thị tộc có thể là cách duy nhất để giải quyết Az Sweldn rak Anhûin,”
Eragon chỉ ra.
“Tôi nghĩ là không, nhưng nếu tôi lầm
và chiến tranh là không thể tránh khỏi, chúng ta phải đảm bảo rằng đó là một
cuộc chiến giữa các tộc còn lại với Az Sweldn rak Anhûin. Điều đó sẽ không quá
tệ. Hợp sức lại, chúng ta có thể nghiền bẹp chúng trong vòng một tuần. Nhưng một
cuộc chiến thị tộc mà chia ra hai hoặc ba phe sẽ hủy diệt đất nước chúng ta. Cho
nên, điều then chốt là trước khi ta rút kiếm của mình ra, ta phải làm cho các
tộc khác thấy được những gì Az Sweldn rak Anhûinn đã làm. Để được như thế, liệu
cậu có cho phép các pháp sư từ các tộc khác kiểm tra ký ức của cậu về cuộc tấn
công để họ có thể thấy chuyện đã xảy ra đúng như lời ta nói, và rằng chúng ta
không dàn dựng chuyện đó vì lợi ích của chính mình?”
Eragon lưỡng lự, không thật lòng muốn
mở trí óc mình cho người lạ, rồi hất đầu về phía ba gã lùn nằm chất đống lên
nhau. “Thế chúng thì sao? Ký ức của chúng không đủ thuyết phục các tộc khác về
tội lỗi của Az Sweldn rak Anhûin sao?”
Orik nhăn nhó. “Có thể, nhưng để cho
thấu đáo, các tộc trưởng sẽ nhất quyết thẩm tra ký ức của chúng ngược lại cậu,
và nếu cậu từ chối, Az Sweldn rak Anhûin sẽ quả quyết rằng chúng ta đang che
giấu điều gì đó khỏi hội đồng thị tộc và rằng lời cáo buộc của chúng ta không
hơn gì những lời bịa đặt vu khống.”
“Được rồi,” Eragon nói. “Nếu phải
làm, thì tôi sẽ làm. Nhưng nếu những pháp sư đó xớ rớ ở những nơi họ không được
phép, dù là vô tình, tôi sẽ không có lựa chọn nào khác hơn là đốt cho những gì
họ thấy ra khỏi tâm trí họ. Có vài điều tôi không thể cho phép mọi người biết
đến.”
Gật đầu, Orik nói, “Đồng ý, tôi có
thể nghĩ ra ít nhất một thông tin ba-chân sẽ khiến chúng tôi khiếp vía nếu nó
được loan báo khắp vùng, nhỉ? Tôi chắc chắn các tộc trưởng sẽ chấp nhận điều
kiện của cậu – vì tất cả bọn họ đều có những bí mật của riêng mình mà họ sẽ
không muốn bị bàn tán đó đây – nhưng tôi cũng tin chắc là họ sẽ ra lệnh cho các
pháp sư của họ phải tiến tới, bất chấp nguy hiểm. Cuộc tấn công này có khả năng
kích phát một sự náo động trong chủng tộc chúng tôi, nên các grimstborithn sẽ
cảm thấy bắt buộc phải xác minh sự thật, mặc dù điều đó có thể khiến họ trả giá
bằng những pháp sư cao tay nhất.”
Vươn thẳng người, Orik ra lệnh chuyển
đám tù nhân ra khỏi lối vào được trang hoàng và cho giải tán tất cả cấp dưới,
trừ Eragon và một lực lượng gồm hai mươi sáu chiến binh giỏi nhất của ông. Vung
tay một cách thanh nhã, Orik nắm lấy khuỷu tay trái của Eragon và dẫn lối cho nó
vào khu phòng bên trong. “Tối nay cậu phải ở yên đây, với tôi, tại đây Az Sweldn
rak Anhûin sẽ không dám tấn công đâu.”
“Nếu ông định ngủ,” Eragon nói, “tôi
phải cảnh báo ông, tôi không thể nghỉ ngơi, không phải đêm nay. Máu trong người
tôi vẫn còn sôi hết lên vì cuộc chiến hỗn loạn đó, còn ý nghĩ của tôi thì cũng
không ổn tương tự thế.”
Orik đáp, “Nghỉ hay không tùy cậu; cậu không được
quấy giấc của tôi, vì tôi sẽ kéo một cái mũ len dày trùm qua mắt. Tuy thế tôi
khẩn thiết mong cậu hãy cố mà bình tâm lại – có thể với vài kỹ thuật mà thần
tiên đã bày cho cậu – và hồi phục sức mạnh của cậu. Ngày mới đã ở trước mặt
chúng ta rồi, và chỉ còn lại vài giờ trước khi hội đồng thị tộc được triệu tập.
Chúng ta phải tươi tỉnh hết mức có thể cho những gì sắp đến. Những điều chúng ta
làm và nói hôm nay sẽ quyết định vận mệnh sau cùng của người của tôi, đất nước
của tôi, và toàn phần còn lại của Alagaësia…. A, đừng làm cái miệng khó chịu
thế! Thay vì vậy hãy nghĩ đến điều này: cho dù thành công hay thất bại đang chờ
chúng ta, mà tôi tất nhiên hy vọng chúng ta thắng, tên tuổi của chúng ta sẽ được
nhớ đến cho tới ngày tận thế vì cách chúng ta đã xử sự trong hội nghị này. Ít
nhất đó cũng là một thành tích để làm cậu no bụng bằng lòng kiêu hãnh! Chúa hay
thay đổi, và cái bất diệt duy nhất mà chúng ta trông chờ được chính là những gì
mà chúng ta đạt được qua những việc làm của mình. Danh vọng hay ô nhục, cả hai
cái đó đều đáng quên đi khi cậu đã ra đi từ vương quốc này.”
Khuya đêm đó, trong những giờ yên ắng
trước buổi sáng, tâm tưởng của Eragon đi lang thang khi nó ngồi chìm trong vòng
tay lót đệm của một cái tràng kỷ của người lùn, và trạng thái ý thức của nó tan
vào mớ hình ảnh tưởng tượng lộn xộn của những giấc mơ tỉnh. Tuy nhiên nó vẫn
nhận thức được những hình khảm ở những tảng đá màu gắn trên bức tường đối diện,
và nó cũng trông thấy, y như một miếng vải lót rực rỡ phủ lên những hình khảm,
những khung cảnh về cuộc sống của nó trong Thung lũng Palancar, trước khi định
mệnh trọng đại và đẫm máu xen vào sự tồn tại của nó. Tuy nhiên, những khung cảnh
đó xa rời khỏi sự thực đã được thiết lập, và nhấn chìm nó vào những trạng thái
tưởng tượng được dựng lên dần từ những mảnh vụn của những gì đã thực sự xảy ra.
Trong những khoảnh khắc cuối cùng trước khi nó tỉnh lại từ trạng thái ngẩn ngơ,
những hình ảnh đó lung linh và trở nên hiện thực một cách mạnh mẽ.
Nó đang đứng trong xưởng của chú Horst, những cánh cửa ở đó để mở,
lỏng lẻo trên bản lề, giống như những tên ngốc ngoác miệng cười nhăn nhở. Ở
ngoài là một đêm không sao, và bóng tối bao trùm tất cả dường như áp lên viền
ánh sáng đỏ mờ đục tỏa ra từ những viên than đá, cứ như háo hức muốn ngốn hết
mọi thứ bên trong phạm vi của khối cầu đỏ hoe đó. Bên cạnh cái lò rèn, chú Horst
hiện ra to lớn như một người khổng lồ, những cái bóng nhảy múa trên khuôn mặt và
bộ râu của ông trông thật đáng sợ. Cánh tay lực lưỡng của ông giơ lên và hạ
xuống, và một tiếng lanh lảnh như tiếng chuông làm rung động không trung khi cái
búa của ông giáng xuống đầu một thanh thép sáng rực màu vàng. Một chùm tia lửa
tung ra rồi tiêu tan trên mặt đất. Người thợ rèn đập thanh kim loại thêm bốn
nhát nữa; rồi ông nhấc thanh thép ra khỏi cái đe và nhúng nó vào một thùng dầu.
Những lưỡi lửa như những bóng ma, xanh và mỏng như tơ, bập bùng dọc trên bề mặt
lớp dầu rồi biến mất với những tiếng rít khẽ giận dữ. Lấy thanh thép ra khỏi cái
thùng, Horst quay về phía Eragon và cau mày với nó. Ông nói, “Sao mày lại đến
đây, Eragon?”
“Cháu cần một thanh gươm của Kỵ sĩ Rồng.”
“Biến đi. Tao không có thời gian
để rèn cho mày một thanh gươm Kỵ sĩ đâu. Mày không thấy là tao đang làm việc với
cái treo nồi của Elain à? Bà ấy phải có nó trong trận chiến. Mày đi một mình
à?”
“Cháu không biết.”
“Cha mày đâu? Mẹ mày đâu?”
“Cháu không
biết.”
Rồi một giọng nói mới vang lên, một giọng nói được đánh bóng bởi sức
mạnh và quyền lực, và giọng đó nói, “Vị thợ rèn tốt này, nó không đi một mình.
Nó đi với ta.”
“Thế ông là ai?” Horst gặng hỏi.
“Ta là cha nó.”
Giữa hai cánh cửa rộng mở, một dáng
vẻ to lớn vây bọc bởi ánh sáng nhợt nhạt hiện ra từ bóng tối ngưng đọng và đứng
trên ngưỡng cửa của xưởng rèn. Một chiếc áo choàng đỏ tung phần phật trên đôi
vai rộng hơn cả của một tên Kull. Trong tay trái người đàn ông lập lòe thanh
Zar’roc, sắc bén như sự đau đớn. Qua khe hở của cái mũ sắt sáng loáng, đôi mắt
xanh dương của ông ta xoáy vào Eragon, ghim nó xuống đất, như một mũi tên xuyên
qua một con thỏ. Ông ta nâng tay kia của mình lên và đưa về phía Eragon. “Con
trai ta, đi với ta. Cùng với nhau chúng ta có thể hủy diệt Varden, giết
Galbatorix, và chinh phục toàn thể Alagaësia. Nhưng hãy đưa ta trái tim con, và
chúng ta sẽ là bất khả chiến bại.”
“Đưa cho ta trái tim con, con trai.”
Kêu lên tắc nghẹn, Eragon bật ra khỏi
cái tràng kỷ và đứng nhìn chằm chằm sàn nhà, nắm tay nó siết chặt, ngực phập
phồng. Mấy người lính gác của Orik liếc nó dò hỏi, nhưng nó phớt lờ họ, quá rối
loạn để có thể giải thích cơn bộc phát của nó.
Vẫn còn sớm, vì thế sau một lát,
Eragon ngồi lại xuống cái tràng kỷ, nhưng sau đó, nó giữ mình tỉnh táo và không
cho phép mình chìm vào vùng đất của những giấc mơ, vì sợ những sự hiện hình có
thể giày vò nó.
Eragon đứng tựa lưng vào tường, tay
đặt trên đốc thanh kiếm của người lùn, nhìn các tộc trưởng đi thành hàng vào
phòng hội nghị hình tròn nằm bên dưới Tronjheim. Nó đặc biệt để mắt đến Vermûnd,
grimstborith của Az Sweldn rak Anhûin, nhưng nếu người lùn che mạng đỏ tía đó có
ngạc nhiên vì thấy Eragon còn sống và khỏe mạnh thì ông ta cũng không thể hiện
ra.
Eragon cảm thấy giày của Orik thúc
vào giày nó. Không rời mắt khỏi Vermûnd, Eragon cúi về phía Orik nghe ông thì
thào, “Nhớ, bên trái và xuống dưới ba ô cửa,” ám chỉ nơi Orik đã chốt một trăm
lính của mình mà không cho các tộc trưởng khác biết.
Cũng thì thào, Eragon nói, “Nếu máu phải đổ, tôi có nên chớp cơ hội mà khử
con rắn Vermûnd đó không?”
“Trừ khi hắn cố làm thế với tôi hay
cậu, không thì làm ơn đừng.” Orik bật cười thầm. “Làm vậy sẽ khó mà khiến cho
các grimstborithn khác quý mến cậu…. À, tôi phải đi đây. Cầu nguyện Sindri
ban cho may mắn chứ? Chúng ta chuẩn bị mạo hiểm vào một biển dung nham mà chưa
ai dám vượt qua trước đây đâu.”
Và Eragon cầu nguyện.
Khi tất cả các tộc trưởng đã yên vị
xung quanh cái bàn ở giữa phòng, những người quan sát từ vòng ngoài, gồm cả
Eragon, nhận chỗ ngồi của mình trong số những cái ghế xếp vòng tròn đặt tựa vào
bức tường uốn cong. Nhưng Eragon không ngồi thoải mái vào ghế như những người
lùn khác, mà chỉ ngồi ở mép, sẵn sàng đánh nhau ngay khi thấy dấu hiệu nguy hiểm
nhỏ nhất.
Khi Gannel, chiến binh-linh mục
mắt-đen của Dûrgrimst Quan, đứng dậy và bắt đầu nói bằng tiếng Người lùn,
Hûndfast khép nép lại gần cánh phải của Eragon và lẩm nhẩm dịch không ngừng. Ông
lùn nói, “Chào mừng một lần nữa, các tộc trưởng huynh đệ của tôi. Nhưng dù có
thích đáng hay không, tôi vẫn phân vân, vì một số tin đồn gây nhiễu loạn – tin
đồn của tin đồn, nếu đó là sự thật – đã tới tai tôi. Tôi không có thông tin gì
ngoài những lời mơ hồ và gây lo lắng này, cũng như bằng chứng để theo đó tìm ra
lời kết tội cho những hành động xấu. Tuy vậy, vì hôm nay là ngày của tôi để chủ
trì việc này – buổi hội họp của chúng ta – tôi đề nghị chúng ta hãy tạm hoãn
cuộc thảo luận hệ trọng nhất của chúng ta lại, và nếu các vị tán thành, cho phép
tôi đưa ra một vài câu hỏi cho hội đồng.”
Các tộc trưởng thì thầm với nhau, và
rồi Íorûnn, Íorûnn rạng rỡ má lúm đồng tiền, nói, “Tôi không có phản đối,
Grimstborith Gannel. Ông đã khơi dậy trí tò mò của tôi bằng những lời bóng gió
khó hiểu này. Hãy để chúng tôi nghe những câu hỏi mà ông có.”
“Đúng vậy, cho chúng tôi nghe đi,” Nado nói.
“Cho chúng tôi nghe đi,”
Manndrâth và tất cả các tộc trưởng còn lại, kể cả Vermûnd, nhất trí.
Đã nhận được sự tán thành mà mình yêu
cầu, Gannel tỳ các khớp ngón tay của ông lên bàn, im lặng một lát để tập trung
sự chú ý của mọi người trong phòng. Rồi ông nói. “Ngày hôm qua, trong khi chúng
ta đang dùng bữa trưa ở những địa điểm nhất định, các knurlan ở khắp trong các
đường hầm bên dưới góc tây của Tronjheim đã nghe thấy tiếng huyên náo. Báo cáo
về độ ồn là khác nhau, nhưng có nhiều người như vậy nhận thấy nó trên một phạm
vi rộng, chứng tỏ nó không phải là một náo động nhỏ. Giống như các vị, tôi đã
nhận được một cảnh báo thường lệ về một vụ sập hầm có thể đã xảy ra. Tuy nhiên,
điều mà các vị có thể không ý thức được, là chỉ hai giờ sau –”
Hûndfast ngập ngừng, và nhanh chóng
thì thầm, “Từ này rất khó diễn tả bằng ngôn ngữ này. Những-người-chạy-trong-hầm,
tôi nghĩ vậy.” Rồi ông ta tiếp tục dịch: “– những-người-chạy-trong-hầm đã phát
hiện ra vết tích của một trận chiến phi thường bên trong một trong số những
đường hầm cổ mà ông tổ danh tiếng của chúng ta, Korgan Râu-dài, đã khai phá. Sàn
phủ đầy máu, tường đen thui vì bồ hóng từ một cái lồng đèn mà một chiến binh với
lưỡi gươm bất cẩn đã đánh thủng, các vết nứt chia cắt đá xung quanh, và ngổn
ngang khắp nơi là bảy thân thể nát nhừ và cháy thành than, cùng những dấu hiệu
chứng tỏ có những thân thể khác đã bị mang đi. Đây cũng không phải tàn tích của
những cuộc xung đột vụn vặt mơ hồ từ Trận chiến Farthen Dûr. Không! Vì máu còn
chưa khô, bồ hóng vẫn còn mềm, những vết nứt mới bị vỡ ra là rõ ràng nhất, và,
tôi được cho biết, những tàn dư của phép thuật hùng mạnh vẫn có thể được phát
hiện ra bên trong khu vực đó. Ngay lúc này, vài pháp sư giỏi nhất của chúng tôi
đang nỗ lực tái dựng một hình ảnh bản sao của những gì đã xảy ra, nhưng họ ít có
hy vọng thành công, vì những thứ có liên quan được bao bọc bởi bùa phép rất ranh
ma. Như vậy câu hỏi đầu tiên của tôi cho hội đồng là: có ai trong các vị có hiểu
biết sâu xa hơn về sự việc bí ẩn này không?”
Khi Gannel kết thúc phần nói của mình, Eragon gồng cứng chân sẵn sàng bật dậy
nếu những tên lùn che mạng tía của Az Sweldn rak Anhûin với tay đến kiếm của
chúng.
Orik hắng giọng nói, “Tôi tin rằng
tôi có thể thỏa mãn một chút sự tò mò của ông về điểm đó, Gannel à. Tuy nhiên,
vì câu trả lời của tôi nhất thiết phải là một câu trả lời dài, tôi đề nghị ông
hỏi luôn những câu hỏi khác của mình trước khi tôi bắt đầu.”
Trán Gannel sa sầm vì một nét cau
mày. Gõ gõ các đốt ngón tay lên bàn, ông nói, “Được thôi…. Về những điều có liên
quan rõ ràng tới tiếng binh khí trong các đường hầm của ngài Korgan, tôi đã được
báo lại rằng rất nhiều knurlan đang đi lại trong Tronjheim và, với ý định ngấm
ngầm, đã tập hợp ở nhiều nơi thành những nhóm lớn có vũ trang. Các điệp viên của
tôi không thể xác định các chiến binh thuộc tộc nào, nhưng nếu bất cứ ai trong
hội đồng này cố lén lút sắp đặt lực lượng của mình trong khi chúng ta đang tham
gia vào cuộc họp quyết định ai sẽ kế vị Vua Hrothgar, thì điều đó sẽ ám chỉ
những động cơ thuộc loại đen tối nhất. Như vậy câu hỏi thứ hai của tôi cho hội
đồng là: ai là người đứng sau cuộc vận động thiếu suy nghĩ này? Và nếu không ai
sẵn lòng thừa nhận hành vi sai trái của mình, tôi đề nghị một cách kiên quyết
nhất rằng chúng ta hãy ra lệnh trục xuất tất cả binh lính, không phân biệt thị
tộc, ra khỏi Tronjheim trong thời hạn cuộc họp và rằng chúng ta hãy lập tức cử
ra một ngôn-luật-viên để điều tra những việc này và xác định ai là người chúng
ta phải khiển trách.”
Tiết lộ, câu hỏi, và kiến nghị sau đó
của Gannel đã gợi lên một cuộc đàm luận sôi nổi xôn xao giữa các tộc trưởng,
trong đó những người lùn tung ra những lời buộc tội, rồi phủ nhận, rồi buộc tội
ngược lại nhau với độ cay độc ngày càng tăng, cho đến cuối cùng, khi một
Thordris điên tíêt quát lác với một Gáldhiem mặt đỏ bừng, Orik lại hắng giọng,
khiến mọi người ngừng lại và nhìn ông chăm chăm.
Bằng một giọng ôn hòa, Orik nói,
“Điều này tôi cũng tin là có thể giải thích cho ông, Gannel, ít nhất là phần
nào. Tôi không thể nói gì về hoạt động của các tộc khác, nhưng vài trăm lính
đang hối hả trong các đại sảnh của người hầu trong Tronjheim chính là của
Dûrgrimst Ingeitum. Điều này tôi thoải mái thừa nhận.”
Tất cả yên lặng cho
đến khi Íorûnn nói, “Và ông có lời giải thích nào cho hành động mang tính tham
chiến này, Orik, con trai của Thrifk?”
“Như tôi vừa nói, thưa Íorûnn xinh đẹp, câu trả lời của tôi phải là một câu
trả lời dài, nên nếu ông, Gannel, có bất cứ câu hỏi nào khác, tôi đề nghị ông
hãy đưa ra luôn.”
Gannel cau mày sâu hơn cho đến khi
đôi lông mày lồi ra của ông ta gần như chạm nhau. Ông nói, “Tôi sẽ giữ lại những
câu hỏi khác của tôi vào lúc này, vì tất cả chúng đều liên quan đến những câu
tôi vừa đưa ra, và hình như chúng tôi đang phải đợi trên sự thích thú của ông để
được biết thêm bất cứ điều gì về những chủ đề đó. Tuy nhiên, vì ông có liên quan
chặt chẽ đến những hành động đáng ngờ này, một câu hỏi mới đã nảy ra với tôi mà
tôi phải hỏi ông một cách rõ ràng, Grimstborith Orik. Vì lý do nào mà ông đã rời
khỏi cuộc họp ngày hôm qua? Và cho tôi cảnh báo ông, tôi sẽ không chấp nhận sự
thoái thác. Ông đã cho hay là ông có hiểu biết về những vụ việc này. Vậy được,
giờ là lúc cho ông tự mình cung cấp một lời giải thích toàn vẹn, Grimstborith
Orik.”
Orik đứng dậy ngay khi Gannel ngồi xuống và nói, “Tôi rất sẵn lòng.”
Hạ thấp cái cằm râu ria của mình đến
khi nó chạm vào ngực, Orik dừng lại một thoáng và rồi bắt đầu nói bằng một giọng
vang dội, nhưng ông không mở đầu như Eragon đã mong đợi, cũng như Eragon đã
phỏng đoán, hay hội đồng đã mong đợi. Thay vì mô tả nỗ lực lấy mạng Eragon, từ
đó giải thích tại sao ông đã kết thúc buổi họp trước thời hạn, Orik mở đầu bằng
việc thuật lại, vào bình minh của lịch sử, dòng giống người lùn đã di cư như thế
nào từ những cánh đồng đã một thời xanh tươi của Sa mạc Hadarac đến rặng núi
Beor, nơi họ đã khai quật những đường hầm dài vô số dặm, xây cất những thành phố
hoa lệ của mình cả bên trên lẫn bên dưới mặt đất, và tiến hành những cuộc chiến
đầy sức sống giữa những phe phái của mình, cũng như với rồng, những sinh vật mà,
trong hàng ngàn năm, người lùn vẫn nhìn nhận với một con mắt pha trộn giữa ghét,
sợ, và kính nể bất đắc dĩ.
Rồi Orik nói về sự xuất hiện của thần
tiên ở Alagaësia và thần tiên đã tranh đấu với rồng như thế nào cho đến khi hai
phía gần như diệt tuyệt lẫn nhau và, kết quả, hai loài đã nhất trí ra sao để
sáng tạo ra những Kỵ sĩ Rồng để duy trì hòa bình về sau này. “Và sự đáp lời của
chúng ta là sao khi chúng ta biết được ý định của họ?” Orik gặng hỏi, giọng nói
ngân vang trong phòng họp.
“Chúng ta có yêu cầu được dự phần vào hiệp ước của
họ không? Chúng ta có mong muốn được chia sẻ quyền năng của Kỵ sĩ Rồng không?
Không! Chúng ta trung thành với lề lối cũ của chúng ta, lòng căm hờn cũ của
chúng ta, và chúng ta bác bỏ ngay cả cái ý nghĩ ràng buộc với loài rồng hay cho
phép bất cứ ai bên ngoài vương quốc kiểm soát chúng ta. Để bảo tồn uy quyền,
chúng ta đã hy sinh tương lai của mình, vì tôi tin rằng nếu vài người trong số
Kỵ sĩ Rồng là knurlan, Galbatorix có khi đã không bao giờ gây dựng được quyền
lực. Thậm chí nếu tôi lầm – và tôi không hề có ý coi nhẹ Eragon, người đã chứng
tỏ mình là một Kỹ sĩ giỏi – rồng Saphira có thể đã nở ra cho một người trong
chủng tộc chúng ta chứ không phải là một con người. Và khi đó những vinh quang
nào có thể thuộc về chúng ta?”
“Thay vì thế, tầm quan trọng của chúng ta
trong Alagaësia đã bị suy giảm kể từ khi Nữ hoàng Tarmunora và người trùng tên
Eragon hòa giải với loài rồng. Ban đầu địa vị bị hạ thấp của chúng ta cũng không
quá đắng để nuốt trôi, và thường thì phủ nhận vẫn dễ hơn là chấp nhận. Nhưng rồi
lũ Urgals đến, và rồi là con người, và thần tiên sửa đổi những thần chú của họ
để con người cũng có thể làm Kỵ sĩ. Vậy rồi chúng ta có yêu cầu được bao hàm vào
hiệp định của họ, như đó là… quyền của chúng ta không?” Orik lắc đầu. “Lòng kiêu
hãnh của chúng ta sẽ không cho phép điều đó. Tại sao chúng ta, chủng tộc lâu đời
nhất trên vùng đất này, lại phải cầu xin thần tiên ân huệ từ phép thuật của họ?
Chúng ta đâu cần phải trói buộc định mệnh của mình với loài rồng để bảo vệ chủng
tộc ta khỏi diệt vong, như là thần tiên với loài người. Chúng ta lờ đi, dĩ
nhiên, những trận chiến đã nổ ra giữa chính chúng ta. Những cuộc chiến đó, chúng
ta lập luận, là những việc riêng tư và không liên can đến ai khác hết.”
Các tộc trưởng đang lắng nghe cựa
quậy. Nhiều người trong số họ có vẻ không hài lòng với sự chỉ trích của Orik,
trong khi những người còn lại có vẻ tiếp thu hơn những lời bình luận của ông và
có vẻ trầm ngâm.
Orik tiếp tục: “Trong khi những Kỵ sĩ
trông nom Alagaësia, chúng ta đã hưởng thụ thời kỳ thịnh vượng tuyệt vời nhất
chưa từng được ghi chép trong niên sử của vương quốc. Chúng ta phát triển hưng
thịnh hơn bao giờ hết, nhưng chúng ta lại chẳng có góp phần gì vào nguyên nhân
của điều đó: Kỵ sĩ Rồng. Khi những Kỵ sĩ suy tàn, cơ đồ của chúng ta cũng chấn
động, nhưng một lần nữa, chúng ta không có góp phần gì vào nguyên nhân của điều
đó: những Kỵ sĩ. Tôi thấy rằng, cả hai tình trạng trên đều không thích hợp cho
một chủng tộc có tầm cỡ như chúng ta. Chúng ta không phải là một đất nước đầy tớ
lệ thuộc vào những ý tưởng bất chợt của những ông chủ ngoại quốc. Những kẻ không
phải hậu duệ của Odgar và Hlordis cũng không có quyền thao túng vận mệnh của
chúng ta”
Lời lập luận này được các tộc trưởng thích hơn; họ gật đầu và mỉm cười, và
Havard thậm chí vỗ tay vài cái ở lời cuối cùng.
“Giờ cân nhắc kỷ nguyên hiện tại của
chúng ta,”
Orik nói.
“Galbatorix đang nắm thế lực, và mọi giống loài đều
chiến đấu để duy trì sự tự do. Hắn đã trở nên rất hùng mạnh, và lý do duy nhất
chúng ta vẫn chưa phải nô lệ của hắn, cho đến giờ, chính là hắn vẫn chưa quyết
định bay ra trên lưng con rồng đen của hắn và đánh thẳng vào chúng ta. Hắn mà
làm vậy, chúng ta sẽ sụp đổ trước hắn như cây non trước tuyết lở. May mắn là, có
vẻ hắn bằng lòng với việc chờ cho chúng ta chém giết và tự mở đường đến tận cổng
thành trì của hắn ở Urû’baen. Bây giờ, tôi xin nhắc các vị rằng trước khi Eragon
và Saphira xuất hiện ướt nhẹp và lê bước đến ngưỡng cửa trước của chúng ta, với
một trăm tên Kull đang la ó ngay sát gót, hy vọng duy nhất của chúng ta đánh bại
Galbatorix là một ngày nào đó, ở nơi nào đó, Saphira sẽ nở ra cho Kỵ sĩ mà nó
chọn và người bí ẩn này sẽ, có thể, may ra, nếu chúng ta may mắn hơn mọi con bạc
đã từng thắng một cú tung súc sắc, có khả năng lật đổ Galbatorix. Hy vọng? Ha!
Chúng ta thậm chí còn không có hy vọng; chỉ có hy vọng của hy vọng. Khi Eragon
lần đầu trình diện, rất nhiều người trong chúng ta đã mất tinh thần vì bề ngoài
của cậu ta, kể cả chính tôi. ‘Nó chỉ là một cậu bé,’ chúng ta đã nói. ‘Sẽ tốt
hơn nếu cậu ta là một thần tiên,’ chúng ta đã nói. Nhưng nhìn xem, cậu ta đã
chứng tỏ bản thân mình là hiện thân cho mọi hy vọng của chúng ta! Cậu ta kết
liễu Durza, từ đó cho phép chúng ta cứu sống thành phố yêu quý nhất của chúng
ta, Tronjheim. Rồng của cậu ta, Saphira, đã hứa sẽ hồi lại cho Ngôi Sao Hoa Hồng
vẻ huy hoàng trước đây. Trong Trận chiến Cánh Đồng Cháy, cậu ta đã đánh đuổi
Murtagh và Thorn, nhờ vậy giúp chúng ta chiến thắng ngày đó. Và nhìn xem! Cậu ta
giờ đây đã khoác vẻ bề ngoài của một thần tiên, và nhờ những ma thuật kỳ lạ của
họ, cậu ta đã nhận được tốc độ và sức mạnh của họ.”
Orik giơ một ngón tay nhấn
mạnh.
“Hơn thế nữa, Vua Hrothgar, bằng sự thông tuệ của mình, đã làm điều mà
không một vị vua hay grimstborith nào khác từng làm; ngài đề nghị nhận Eragon
vào Dûrgrimst Ingeitum và để cậu ta trở thành một thành viên của chính gia đình
ngài. Eragon không có nghĩa vụ phải chấp nhận đề nghị này. Thực tế, cậu ta nhận
thức được rất nhiều gia tộc của Ingeitum phản đối điều đó, và nói chung rất
nhiều knurlan sẽ không thích thú gì điều đó. Nhưng bất chấp những ngăn trở đó,
và bất chấp thực tế rằng mình đã bị ràng buộc lòng trung thành với Nasuada,
Eragon vẫn đón nhận món quà của Vua Hrothgar, biết hoàn toàn rõ rằng điều đó sẽ
chỉ làm cho cuộc đời mình khó khăn hơn. Như đã tự mình nói với tôi, Eragon đã
tuyên thệ trước Tim của Đá vì ý thức được nghĩa vụ mà mình cảm thấy đối với tất
cả giống loài trong Alagaësia, và đặc biệt là đối với chúng ta, bởi vì chúng ta,
nhờ việc làm của vua Hrothgar, đã cho cậu ta và Saphira thấy một lòng tốt đến
vậy. Nhờ thiên tư của Vua Hrothgar, người Kỵ sĩ tự do cuối cùng của Alagaësia,
là hy vọng duy nhất của chúng ta chống lại Galbatorix, đã thoải mái lựa chọn trở
thành một knurla toàn diện chỉ trừ dòng máu. Kể từ đó, Eragon đã tôn trọng luật
lệ và truyền thống của chúng ta với tất cả sự hiểu biết của mình, và cậu ta mong
muốn học hỏi nhiều hơn về văn hóa của chúng ta để có thể chứng tỏ lòng kính
trọng của mình đối với ý nghĩa đích thực của lời thề. Khi Vua Hrothgar gục ngã,
bị quật ngã bởi tên phản bội Murtagh, Eragon đã thề với tôi trước mọi hòn đá của
Alagaësia, và cũng ở cương vị một tộc viên của Dûrgrimst Ingeitum, rằng cậu ta
sẽ đấu tranh để trả thù cho cái chết của Vua Hrothgar. Cậu ta đã cho tôi lòng
kính trọng và sự phục tùng mà tôi đáng được nhận với danh hiệu grimstborith, và
tôi tự hào coi cậu ta là nghĩa đệ của tôi.”
Eragon liếc nhìn xuống, má và chóp tai nó nóng bừng. Nó ước Orik đừng quá
thoải mái tán dương nó như thế; điều đó chỉ làm địa vị của nó khó giữ vững hơn
trong tương lai.
Khoát tay bao quát các tộc trưởng
khác, Orik kêu lên, “Mọi điều chúng ta có thể ao ước ở một Kỵ sĩ Rồng, chúng ta
đều đã nhận được ở Eragon! Cậu ta tồn tại! Cậu ta hùng mạnh! Và cậu ta đã che
chở người của chúng ta theo cách mà chưa có Kỵ sĩ nào từng làm!” Rồi Orik hạ tay
xuống, hạ cả giọng nói của mình, cho đến khi Eragon phải ráng sức mới nghe được
lời của ông.
“Nhưng chúng ta đã đáp lại tình bằng hữu của cậu ta như thế nào?
Chỉ toàn bằng những cái cười nhạo, sự xem thường và sự gắt gỏng oán giận. Tôi
nói, chúng ta là một chủng tộc vô ơn, và trí nhớ của chúng ta là quá dai cho
chính những tốt đẹp của mình…. Thậm chí có những kẻ đã chất chứa quá nhiều ung
nhọt căm hờn, họ đã dùng đến bạo lực để làm nguôi cái khát từ cơn giận của mình.
Có lẽ họ vẫn tin là họ đang làm những gì tốt nhất cho người của chúng ta, nhưng
nếu vậy, thì tâm trí họ mốc meo như một miếng phó mát lâu năm. Nếu không, tại
sao họ lại cố giết Eragon?”
Các tộc trưởng đang lắng nghe im lặng
hoàn toàn, mắt họ dính chặt vào gương mặt Orik. Sự tập trung của họ quá căng
thẳng, tộc trưởng to béo Freowin, đã dẹp việc chạm khắc hình con quạ và khoanh
tay lại trên cái bụng phì nhiêu của mình, mang một cái vẻ không khác gì một bức
tượng lùn.
Với những đôi mắt nhìn mình không
chớp, Orik thuật lại cho hội đồng về việc bảy tên lùn trang phục đen đã tấn công
Eragon và cận vệ của nó như thế nào trong khi họ đang lang thang trong những
đường hầm bên dưới Tronjheim. Rồi Orik cho họ biết về cái vòng đeo tay tết bằng
lông ngựa gắn những viên thạch anh tím mài tròn mà lính gác của Eragon đã tìm
thấy trong một cái xác.
“Đừng nghĩ đến chuyện buộc tội cuộc
tấn công này lên bộ tộc chúng tôi chỉ với một bằng chứng tầm thường như thế!”
Vermûnd kêu lớn, bật dậy. “Ai cũng có thể mua những thứ trang sức rẻ tiền như
thế ở hầu hết các chợ trong vương quốc này!”
“Đúng thế,” Orik nói, nghiêng đầu về
phía Vermûnd. Bằng một giọng bình thản và bước chân nhanh nhẹn, Orik kể cho các
thính giả của mình, như ông đã kể với Eragon tối trước đó, người của ông ở
Dalgon đã xác nhận với ông rằng những con dao găm lung linh kỳ dị mà bọn sát thủ
sử dụng được rèn bởi thợ rèn Kiefna, và cả việc người của ông đã khám phá ra
rằng gã lùn mua những vũ khí đó đã tính vận chuyển chúng từ Dalgon đến một trong
những thành phố do Az Sweldn rak Anhûin giữ.
Thấp giọng gầm gừ nguyền rủa, Vermûnd
lại bật dậy. “Những con dao đó có thể chưa bao giờ đến được thành phố chúng tôi,
và thậm chí nếu có, ông cũng chẳng thể rút ra kết luận gì từ việc đó! Có nhiều
knurlan thuộc rất nhiều tộc sống bên trong những bức tường của chúng tôi, cũng
như bên trong những bức tường của Hang Bregan chẳng hạn. Điều đó chẳng cho biết
gì cả. Cẩn trọng những gì ông sắp nói, Grimstborith Orik, vì ông không có lý lẽ
nào để chĩa những cáo buộc đó vào tộc của tôi.”
“Tôi cũng có quan điểm như ông vậy,
Grimstborith Vermûnd,”
Orik đáp. “Bởi vậy, tối qua, các pháp sư của tôi và
tôi đã tái lập lộ trình của bọn sát thủ ngược lên nơi xuất phát của chúng, và
trên tầng mười hai của Tronjheim, bọn tôi đã bắt giữ ba knurlan đang ẩn trốn
trong một kho chứa bám bụi. Bọn tôi đã công phá ý thức của hai trong số chúng
và, từ chúng, bọn tôi biết chúng đã cung cấp lương thực cho bọn sát thủ trong vụ
tấn công. Và,” Orik nói, giọng ông trở nên cay nghiệt và ghê gớm, “từ chúng, bọn
tôi đã biết được nhân dạng của kẻ đứng sau. Tôi nói tên ông, Grimstborith
Vermûnd! Tôi nói ông Kẻ sát nhân và Bội-thệ. Tôi nói ông là kẻ thù của Dûrgrimst
Ingeitum, và tôi nói ông là một kẻ phản bội đồng loại của mình, vì chính ông và
tộc của ông đã cố sát hại Eragon!”
Hội đồng thị tộc nổ ra hỗn loạn khi
mọi tộc trưởng, trừ Orik và Vermûnd, bắt đầu la hét và vung tay, đồng thời cố át
cuộc đối thoại. Eragon đứng dậy và nới lỏng thanh kiếm đi mượn khỏi vỏ, rút ra
hơn một phân, như thế nó có thể phản ứng với bất cứ một tốc độ nào nếu Vermûnd
hay một trong những tên lùn của ông ta chọn đúng thời điểm đó để ra tay. Tuy
nhiên Vermûnd không động đậy, cũng như Orik; họ nhìn chằm chằm vào nhau như
những con sói đối địch và không bận tâm đến những chuyển động xung quanh.
Cuối cùng khi Gannel đã tái lập được trật tự, ông nói, “Grimstborith Vermûnd,
ông có thể bác bỏ những công kích này không?”
Bằng một giọng đều đều vô cảm,
Vermûnd đáp, “Tôi phủ nhận chúng với mọi cái xương trong người tôi, và tôi thách
thức bất cứ ai chứng tỏ được chúng là thỏa đáng với một ngôn-luật-viên.”
Gannel quay sang Orik. “Vậy hãy đưa
ra chứng cứ của ông, Grimstborith Orik, để chúng tôi có thể phán xử liệu chúng
có hiệu lực hay không. Có năm ngôn-luật-viên ở đây ngày hôm nay, nếu tôi không
lầm.” Ông ra dấu về phía bức tường, nơi năm người lùn râu trắng đứng và cúi đầu.
“Họ sẽ đảm bảo rằng chúng ta không lạc ra khỏi ranh giới của luật pháp trong quá
trình điều tra. Chúng ta tán thành chứ?”
“Tôi tán thành,” Ûndin nói.
“Tôi tán thành,” Hadfala nói và tất cả các tộc
trưởng còn lại nói theo, trừ Vermûnd.
Đầu tiên, Orik đặt cái vòng thạch anh
tím lên mặt bàn. Mỗi tộc trưởng nhờ một trong những pháp sư của mình kiểm tra
nó, và tất cả đều nhất trí chứng cứ đó chưa đủ thuyết phục.
Rồi Orik nhờ một hầu cận mang vào một
cái gương gắn trên một cái kiềng bằng đồng. Một pháp sư trong đoàn tùy tùng của
ông niệm một thần chú, và trên bề mặt bóng loáng của cái gương xuất hiện hình
ảnh về một căn phòng nhỏ, chất đầy sách. Một thoáng trôi qua, rồi một người lùn
lao vào phòng và cúi đầu về phía hội đồng từ bên trong cái gương. Bằng giọng hổn
hển, ông ta giới thiệu mình là Rimmar, sau đó tuyên thệ bằng cổ ngữ để đảm bảo
sự trung thực của mình, ông ta kể với hội đồng làm thế nào ông ta và trợ thủ của
mình đã tìm ra những điều có liên quan đến những con dao mà những kẻ tấn công
Eragon đã sử dụng.
Khi các tộc trưởng đã thẩm vấn xong
Rimmar, Orik bảo những chiến binh của mình mang vào ba tên lùn mà tộc Ingeitum
đã bắt giữ. Gannel ra lệnh cho chúng tuyên thệ trung thực bằng cổ ngữ, nhưng
chúng nguyền rủa ông ta và nhổ lên sàn và từ chối. Rồi các pháp sư từ tất cả các
tộc nhập vào suy nghĩ của chúng và xâm chiếm ý thức chúng, moi lấy thông tin mà
hội đồng yêu cầu. Không hề có phản đối, các pháp sư chứng thực những gì Orik đã
nói.
Sau cùng, Orik gọi đến Eragon làm
chứng. Eragon thấy hồi hộp khi nó đi đến chỗ cái bàn và mười ba tộc trưởng dữ
tợn đang nhìn nó chằm chằm. Nó nhìn ngang qua căn phòng dán mắt vào một xoắn màu
trên một cái trụ cẩm thạch và cố phớt lờ nỗi lo của mình. Nó lặp lại những lời
thề chân thực khi một pháp sư nói với nó, và rồi, không nói nhiều hơn mức cần
thiết, Eragon thuật lại cho các tộc trưởng nó và các cận vệ của nó đã bị tấn
công như thế nào. Sau đó, nó trả lời những câu hỏi không thể tránh khỏi của
những người lùn và rồi cho phép hai trong số các pháp sư – hai người Gannel đã
chọn ngẫu nhiên trong số những người được tập hợp – để kiểm tra ký ức của nó về
vụ việc. Khi Eragon hạ thấp hàng rào xung quanh tâm trí nó, nó nhận thấy hai
pháp sư có vẻ e sợ, và nó cảm thấy an ủi một chút vì điều đó.
Tốt, nó nghĩ. Họ sẽ ít có khả năng đi lang thang vào những
nơi không nên nếu họ biết sợ mình.
Eragon nhẹ nhõm vì cuộc thanh tra trôi qua không có rắc rối nào, và những
pháp sư chứng thực cho phần tường thuật của nó với các tộc trưởng.
Gannel đứng dậy khỏi ghế và gọi các
ngôn-luật-viên, hỏi họ: “Các vị đã thỏa mãn với chất lượng của những bằng chứng
mà Grimstborith Orik và Eragon Khắc-tinh của Tàthần đã đưa ra chưa?”
Năm người lùn râu trắng cúi đầu, và người lùn ở giữa nói, “Chúng tôi đã thỏa
mãn, thưa Grimstborith Gannel.”
Gannel lẩm bẩm, có vẻ không ngạc
nhiên. “Grimstborith Vermûnd, ông chịu trách nhiệm cho cái chết của Kvîstor, con
trai của Bauden, và ông đã cố giết một vị khách. Với việc đó, ông đã mang đến sự
ô nhục cho toàn thể chủng tộc chúng ta. Ông nói sao về điều này?”
Tộc trưởng của Az Sweldn rak Anhûin
ấn bẹp tay xuống bàn, mạnh máu nổi phồng lên dưới lớp da nâu.
“Nếu tên Kỵ sĩ Rồng này là một knurla toàn diện chỉ trừ dòng
máu, vậy thì hắn không phải là khách và bọn ta có thể đối xử với hắn như với bất
cứ kẻ thù nào ở một tộc khác.”
“Tại sao, điều đó thật vô lý hết sức!” Orik kêu lớn, gần như líu lưỡi vì giận
dữ. “Ông không thể nói cậu ấy –”
“Hãy bớt lời, nếu ông vui lòng, Orik,”
Gannel nói. “La hét sẽ không giải quyết việc này. Orik, Nado, Íorûnn, vui lòng
đi cùng tôi.”
Lo lắng bắt đầu làm Eragon bứt rứt
khi bốn người lùn đi ra và hội ý với các ngôn-luậtviên trong vài phút.
Chắc chắn họ sẽ không để Vermûnd thoát
được sự trừng phạt chỉ bởi một trò bịp bợm miệng lưỡi nào đó! nó nghĩ.
Trở lại bàn, Íorûnn nói, “Các
ngôn-luật-viên đều nhất trí. Tuy Eragon là một thành viên ràng buộc bởi lời thề
của Dûrgrimst Ingeitum, nhưng cậu ấy cũng giữ những vị trí quan trọng bên ngoài
vương quốc chúng ta: cụ thể, là một Kỵ sĩ Rồng, đồng thời là một đại diện chính
thức của Varden, gửi đến bởi Nasuada để chứng kiến lễ đăng quang của người cai
trị kế tiếp của chúng ta, và cũng là một bằng hữu có ảnh hưởng lớn đối với Nữ
hoàng Islanzdí và chủng tộc của bà nói chung. Vì những lý do đó, Eragon xứng
đáng với sự hiếu khách tương tự như chúng ta sẽ dành cho bất cứ một đại sứ viếng
thăm nào, thái tử, quốc vương, hay bất cứ một yếu nhân nào khác.”
Nữ người
lùn liếc sang Eragon, đôi mắt tối, lóe sáng của bà ta rõ nét trên tứ chi nó.
“Tóm lại, cậu ấy là vị khách danh dự của chúng ta, và chúng ta phải đối đãi với
cậu ấy như là… mà mọi knurla không mất trí cần phải biết.”
“Đúng, cậu ta là khách của chúng ta,”
Nado đồng tình. Môi ông ta mím lại trắng bệch và má co rúm lại, như thể ông ta
vừa mới cắn một quả táo chỉ để phát hiện ra nó vẫn chưa chín.
“Giờ ông nói sao, Vermûnd?” Gannel vặn hỏi.
Đứng dậy khỏi chỗ ngồi, người lùn che
mạng tía nhìn quanh bàn, lần lượt nhìn chằm chằm vào các tộc trưởng.
“Tôi nói
điều này, và hãy nghe cho rõ, hỡi các grimstborithn: nếu bất cứ tộc nào vung rìu
chống lại Az Sweldn rak Anhûin bởi những lời buộc tội giả dối này, chúng tôi sẽ
coi đó là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp lại thích đáng. Nếu các
vị bỏ tù tôi, điều đó chúng tôi cũng coi là một hành động chiến tranh, và chúng
tôi sẽ đáp lại thích đáng.” Eragon thấy cái mạng của Vermûnd giật giật, và nó
nghĩ tên lùn có thể đang cười ở bên dưới. “Nếu các vị tấn công chúng tôi theo
bất cứ cách nào, cho dù bằng thép hay bằng lời, không cần biết lời khiển trách
của các vị ôn hòa đến cỡ nào, chúng tôi sẽ coi đó là một hành động chiến tranh,
và chúng tôi sẽ đáp trả thích đáng. Trừ khi các vị nóng lòng muốn xé tan đất
nước này thành ngàn mảnh đẫm máu, tôi khuyên các vị hãy để gió cuốn trôi đi cuộc
thảo luận sáng nay, và hãy lấp đầy đúng chỗ trong tâm trí các vị với suy nghĩ ai
sẽ là người cai trị tiếp theo trên ngôi báu hoa cương.”
Các tộc trưởng ngồi yên lặng một lúc lâu.
Eragon đã phải cắn lưỡi mình để khỏi
nhảy lên bàn mà chửi Vermûnd cho đến khi những người lùn đồng ý treo cổ hắn lên
vì tội ác của hắn. Nó tự nhắc mình rằng nó đã hứa với Orik là sẽ nghe theo chỉ
dẫn của Orik khi đối phó với hội đồng thị tộc.
Orik là tộc trưởng của mình, và mình
phải để ông ta đáp trả theo cách mà ông ta thấy là thích hợp.
Freowin gỡ tay ra và đập một bàn tay
đầy thịt xuống mặt bàn. Bằng giọng trung khàn khàn vang khắp phòng, dù có vẻ
không lớn hơn một lời thì thầm, ông lùn to béo nói, “Ông đã làm ô danh chủng tộc
chúng ta, Vermûnd. Chúng tôi không thể giữ lại danh dự knurlan của mình và phớt
lờ sự xúc phạm của ông.”
Người phụ nữ lùn cao tuổi, Hadfala,
xốc lại bó giấy chi chít chữ rune và nói, “Ông mong đạt được gì, ngoài sự tiêu
vong của chúng ta, bằng việc giết Eragon? Thậm chí nếu Varden có thể lật đổ
Galbatorix mà không cần đến cậu ấy, những bất hạnh nào mà rồng Saphira sẽ giáng
xuống chúng ta nếu chúng ta giết chết Kỵ sĩ của nó? Nó sẽ làm Farthen Dûr ngập
máu của chính chúng ta.”
Không một lời nào từ Vermûnd.
Tiếng cười phá vỡ sự yên lặng. Âm
thanh quá bất ngờ, ban đầu Eragon không nhận ra nó đang phát ra từ Orik. Tiếng
cười dịu xuống, Orik nói, “Nếu chúng ta chống đối lại ông hay Az Sweldn rak
Anhûin, ông sẽ coi đó là hành động chiến tranh ư, Vermûnd? Được thôi, vậy chúng
tôi sẽ không chống đối lại ông, hoàn toàn không.”
Lông mày Vermûnd nhô ra. “Làm sao điều này lại cho ông sự thích thú đó?”
Orik lại cười khẽ. “Bởi tôi đã nghĩ
đến một điều mà ông không nghĩ đến, Vermûnd. Ông muốn chúng tôi để yên cho ông
và tộc của ông? Vậy tôi đề nghị với hội đồng rằng chúng ta sẽ làm theo nguyện
vọng của ngài Vermûnd đây. Nếu Vermûnd đã tự hành động theo ý mình mà không phải
trên danh nghĩa grimstborith, ông ta sẽ bị đày xử tử vì những tội lỗi của mình.
Do đó, hãy để chúng tôi xét xử tộc của ông như đối với người đó; hãy để chúng
tôi trục xuất Az Sweldn rak Anhûin khỏi trái tim và trí óc chúng tôi cho đến khi
họ chọn thay thế Vermûnd bằng một grimstborith khác với khí chất có chừng mực
hơn và cho đến khi họ công nhận hành vi đê hèn của mình và ăn năn về nó trước
hội đồng thị tộc, cho dù chúng ta có phải chờ cả ngàn năm.”
Lớp da nhăn nheo quanh mắt Vermûnd tái đi. “Ông sẽ không dám đâu.”
Orik cười. “A, nhưng chúng tôi sẽ
không đụng một ngón tay đến ông và đồng loại của ông. Chúng tôi chỉ đơn giản là
phớt lờ ông và từ chối giao thương với Az Sweldn rak Anhûin. Ông sẽ tuyên chiến
vì chúng tôi không làm gì cả chăng, Vermûnd? Vì nếu hội đồng nhất trí với tôi,
đó chính xác là những gì chúng tôi sẽ làm: không gì cả. Ông
sẽ dùng mũi kiếm bắt chúng tôi phải mua mật ong và vải và đồ trang sức thạch anh
của ông chăng? Ông chẳng có lính để bắt chúng tôi phải làm thế.” Quay về phía
những người còn lại ở bàn, Orik hỏi, “Các vị còn lại nói sao?”
Hội đồng thị tộc không mất nhiều thời
gian để quyết định. Từng người một, các tộc trưởng đứng dậy và biểu quyết trục
xuất Az Sweldn rak Anhûin. Thậm chí Nado, Gáldhiem, và Havard – cựu đồng minh
của Vermûnd – cũng ủng hộ đề xuất của Orik. Với mỗi biểu quyết xác nhận, da mặt
Vermûnd trước đó còn rõ nét trở nên càng lúc càng trắng bệch, cho đến khi ông ta
trông như một con ma ăn vận trang phục kiếp trước của chính mình.
Khi biểu quyết đã xong, Gannel chỉ về
phía cửa và nói, “Xéo đi, Vargrimstn Vermûnd. Hãy rời khỏi Tronjheim ngay hôm
nay và mong không ai trong Az Sweldn rak Anhûin gây rắc rối cho hội động thị tộc
cho đến khi họ đáp ứng những điều kiện chúng ta đã đặt ra. Cho đến lúc những
điều đó xảy ra, chúng ta sẽ tẩy chay mọi thành viên của Az Sweldn rak Anhûin.
Tuy nhiên, hãy biết điều này: kể cả tộc của ông có thể tự miễn thứ cho chính họ
về sự hổ thẹn của mình, thì ông, Vermûnd, sẽ mãi mãi là Vargrimstn, thậm chí cho
tới ngày chết của ông. Đó chính là ý nguyện của hội đồng thị tộc.” Tuyên bố
xong, Gannel ngồi xuống.
Vermûnd ở nguyên chỗ cũ, vai ông ta
rung lên với một cảm xúc mà Eragon không xác định được. “Chính các người mới là
những kẻ đã làm ô danh và phản bội dòng giống,” hắn gầm gừ. “Bọn Kỵ sĩ giết tất
cả người trong bộ tộc chúng ta, trừ Anhûin và những người lính của bà. Các người
mong chúng ta quên điều này ư? Các người mong chúng ta tha thứ điều này ư? Ha!
Ta nhổ lên nấm mồ tổ tiên các người. Chúng ta ít nhất cũng không để mất râu của
chúng ta. Chúng ta sẽ không nhảy cẫng lên với cái con rối của đám thần tiên này
trong khi những thành viên gia đình đã chết của chúng ta vẫn thét gọi sự báo
thù.”
Phẫn nộ siết chặt Eragon khi không ai
trong số các tộc trưởng đáp lại, và nó sắp sửa trả lời sự đả kích của Vermûnd
với những lời cay nghiệt của chính nó khi Orik liếc nó và lắc đầu thật nhẹ. Một
cách khó nhọc, Eragon cố kìm hãm cơn giận, mặc dù nó tự hỏi sao Orik lại để cho
một sự sỉ nhục khốc liệt như vậy qua đi mà không phản bác.
Đó gần như là… Ồ.
Đẩy người khỏi bàn, Vermûnd đứng dậy,
bàn tay cuộn lại thành nắm đấm và vai ông ta gù lên. Ông ta tiếp tục nói, nhiếc
móc và miệt thị các tộc trưởng với sự căm giận tăng dần cho đến khi ông ta la
lối thật lực.
Tuy vậy, dù những lời chửi rủa của
Vermûnd tệ hại đến mức nào, các tộc trưởng vẫn không đáp lại. Họ nhìn chằm chằm
vào khoảng không, như thể đang trầm tư về những tình huống khó xử phức tạp, và
mắt họ trượt khỏi Vermûnd mà không dừng lại. Trong cơn thịnh nộ, khi Vermûnd túm
vào ngực áo giáp của Hreidamar, ba trong số lính gác của Hreidamar nhảy tới và
kéo Vermûnd ra, nhưng khi họ làm thế, Eragon nhận thấy biểu hiện của họ ôn tồn
và không biến đổi, như thể họ chỉ đơn thuần là giúp Hreidamar làm ngay ngắn áo
giáp của mình. Khi họ thả Vermûnd ra, những người lính không nhìn vào ông ta
nữa.
Một cơn ớn lạnh trườn lên xương sống
Eragon. Những người lùn hành động như thể Vermûnd đã ngừng tồn tại. Như vậy đây chính là ý nghĩa của việc bị
trục xuất khỏi những người lùn. Eragon nghĩ nó thà bị giết còn hơn phải chịu
đựng một số phận như thế, và trong một khoảnh khắc, nó cảm thấy một dao động vì
thương hại Vermûnd, nhưng lòng thương hại của nó biến mất ngay khoảnh khắc tiếp
theo khi nó nhớ lại vẻ mặt lúc chết của Kvîstor.
Chửi thề lần cuối cùng, Vermûnd sải bước ra khỏi phòng, theo sau bởi những
người thuộc tộc của ông ta, đã hộ tống ông ta đến cuộc họp.
Không khí giữa các tộc trưởng khác
lại thoải mái ngay khi hai cánh cửa đóng sập sau lưng Vermûnd. Một lần nữa những
người lùn lại nhìn ngó xung quanh không hạn chế gì, và họ tiếp tục nói chuyện ầm
ĩ, bàn tán xem họ sẽ cần làm gì tiếp với Az Sweldn rak Anhûin.
Rồi Orik gõ gõ
lên mặt bàn bằng đốc con dao găm của mình, và mọi người quay lại để nghe ông.
“Giờ chúng ta đã giải quyết xong Vermûnd, còn một vấn đề nữa tôi muốn hội đồng
xem xét. Mục đích chúng ta tập hợp tại đây là để chọn ra người kế nhiệm Vua
Hrothgar. Tất cả chúng ta đều có nhiều điều để nói về chủ đề này, nhưng tôi tin
giờ là thời điểm chín muồi để dẹp lời nói ra sau và để hành động nói thay cho
chúng ta. Vì vậy tôi kêu gọi hội đồng hãy quyết định liệu chúng ta đã sẵn sàng
hay chưa – và theo ý tôi, chúng ta còn hơn cả sẵn sàng – để tiến hành cuộc biểu
quyết cuối cùng ba ngày sau kể từ lúc này, theo như luật của chúng ta. Biểu
quyết của tôi, như tôi đưa ra, là rồi.”
Freowin nhìn Hadfala, bà này đang
nhìn Gannel, ông này đang nhìn Manndrâth, ông này đang giật giật cái mũi của
mình và đang nhìn Nado, và ông này đang chìm sâu vào cái ghế của mình và nhai
nhai bên trong má.
“Rồi,” Íorûnn nói.
“Rồi,” Ûndin nói.
“…Rồi,” Nado nói, và cả tám tộc
trưởng còn lại cùng nói.
Vài giờ sau, khi hội đồng nghỉ ăn
trưa, Orik và Eragon trở lại khu phòng của Orik để ăn. Không ai nói gì cho đến
khi họ vào khu phòng, đã được phòng bị chống nghe trộm. Tại đó Eragon cho phép
mình cười. “Ông đã lên kế hoạch trục xuất Az Sweldn rak Anhûin ngay từ đầu, đúng
không?”
Vẻ thỏa mãn hiện trên mặt, Orik cũng
cười và vỗ bụng. “Quả là vậy. Đó là hành động duy nhất tôi có thể thực hiện để
không chắc chắn dẫn đến chiến tranh thị tộc. Chúng ta vẫn có thể có chiến tranh,
nhưng sẽ không phải do chúng ta gây ra. Nhưng tôi không cho một tai họa như thế
có thể xảy ra. Chỉ với mức độ ghét cậu, tôi nghĩ hầu hết Az Sweldn rak Anhûin sẽ
hoảng sợ vì những gì Vermûnd đã làm trên danh nghĩa của họ. Tôi nghĩ ông ta sẽ
không giữ chức grimstborith được lâu đâu.”
“Và bây giờ ông đã đảm bảo cuộc biểu quyết cho vị vua mới –”
“Hoặc nữ
hoàng.”
“– hoặc nữ hoàng mới sẽ diễn ra.”
Eragon ngập ngừng, miễn cưỡng làm vơi niềm vui chiến thắng của Orik, nhưng rồi
nó hỏi, “Ông có thực sự có được hậu thuẫn cần thiết để giành ngôi không?”
Orik nhún vai. “Trước sáng nay, không
ai có được sự hậu thuẫn cần thiết. Bây giờ cán cân đã chuyển rồi, và vào lúc
này, sự đồng tình nằm bên chúng ta. Chúng ta cũng có thể tranh thủ thời cơ;
chúng ta sẽ không bao giờ có một cơ hội ngon ăn hơn thế này đâu. Dù sao thì,
chúng ta không thể để hội đồng thị tộc lề mề lâu thêm nữa. Nếu cậu không quay về
Varden sớm, có thể sẽ mất tất cả.”
“Chúng ta sẽ làm gì trong lúc đợi cuộc biểu quyết?”
“Trước hết, chúng ta sẽ tổ chức ăn
mừng thành công của chúng ta bằng một chầu,” Orik tuyên bố. “Sau đó khi ta đã no
nê rồi, ta sẽ tiếp tục như trước: nỗ lực tập hợp thêm phiếu bầu trong khi giữ
vững phần mà chúng ta đã giành được.”
Răng của Orik lóe lên màu trắng bên dưới mép bộ râu khi ông ta lại cười.
“Nhưng trước khi chúng ta được nốc đến một ngụm rượu, cậu phải quan tâm một
điều, mà cậu đã quên mất.” “Cái gì?” Eragon hỏi, khó hiểu vì sự khoái trá rõ
ràng của Orik.
“Tại sao, cậu không triệu hồi Saphira
đến Tronjheim, dĩ nhiên rồi! Dù tôi có trở thành vua hay không, chúng ta vẫn sẽ
tôn lên một tân vương trong thời hạn ba ngày. Nếu Saphira định dự buổi lễ, nó sẽ
phải bay gấp để có thể đến đây trước lúc đó.”
Kêu không thành tiếng, Eragon chạy đi tìm một cái gương.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT