Nasuada tóm tấm vẳi đen từ tay côn gái phù thuỷ. Chất lượng thật tuyệt vời.
Không bàn tay con người nào có thể dệt được dải đai đẹp như thế này. Vẻ hài
lòng, nhìn dãy hộp đựng nhiều đai mẫukhác do Con-đường Lãng-du sản xuất, Nasuada nói với Trianna:
- Tuyệt lăm. Hoàn hảo hơn cả mong ước của ta. Chuyển lời tới các pháp sư của cô
là ta rất vui lòng. Việc làm này của Con-đường Lãng-du rất có ý nghĩa với Varden.
- Tôi sẽ chuyển lời khen tới họ, thưa công nương.
- Họ đã…
Tiếng động ngoài cửa làm Nasuada im bặt. Cô nghe tiếng rủa của mấy người lính
gác, rồi tiếng kêu la đau đớn, tiếng sắtthép choang choảng chạm nhau ngoài hành
lang. Nasuada vội tránh xa cửa, rút lưỡi dao găm ra khỏi vỏ.
- Chạy mau, công nương. Thoát ra theo lối cửa của người hầu.
Cô gái phù thuỷ la lên, vừa đứng che chắn cho Nasuada vừa xắn cao tay áo, để
lộ cánh tay trắng nõn, sẵn sàng sử dụngphép thuật.
Nasuada chưa kịp cất bước, cánh cửa bật mở, một người nhỏ bé nhào vào ôm hai
chân và xô cô ngã xuống sàn. Ngay khi Nasuada ngã xuống, một vật sáng như bạc
bay vèo qua chỗ cô vừa đứng, cắm phập và bức tường cuối phòng.
Lúc đó bốn tên lính gác chạy vào, hốt hoảng cảm thấy như chính chúng vừa tấn
công, làm cô bị ngã. Khi đứng dậy được, Nasuada thấy Elva đang vùng vẫy khỏi
tay mấy tên lính gác. Cô cau mày hỏi:
- Chuyện này là thế nào?
Con nhỏ tóc đen cúi gập mình, nôn khan lên tấm thảm, rồi ngước cặp mắt màu tím
nhìn Nasuada, cất giọng nói khủng khiếp, lọc lõi hỏi:
- Ôi, ái nữ của thủ lãnh Ajihad đã ra lệnh cho pháp sư kiểm tra bức tường kia
chứ? Thử xem tôi có chu toàn lời hứa với công nương không?
Nasuada gật đầu với Trianna. Cô phù thuỷ tiến lại cái lỗ mới thủng trên
tường, lẩm bẩm thần chú. Khi quay lại, cô ta trao cho Nasuada một vật nhọn
bằng kim loại:
- Thanh sắt này đã cắm sâu vào tường.
Nasuada hoang mang hỏi:
- Nhưng nó từ đâu tới chứ?
Trianna chỉ tay lên cửa sổ mở xuống phố đường Aberon:
- Chắc từ ngoài kia, tôi đoán vậy.
Nasuada quay lại Elva:
- Em biết những chuyện này?
Miệng cười khiếp đảm của con bé càng rộng hơn:
- Đó là một tên thích khác
- Kẻ nào phái nó tới đây?
- Một tên thích khách do chín Galbatorix huấn luyện bằng tà thuật…
Mi mắt sụp xuống, lơ mơ như bị hôn mê, Elva thì thầm:
- Gã đó căm ghét công nương. Nếu tôi không ngăn cản kip thời, công nương đã bị
nó giết chết rồi…
Nó lại vươn cổ ói mửa, phun ra cả đống đồ ăn chua lè lên sàn, rồi nói tiếp:
- Nhưng…nó sắp phải chịu đau đớn cùng cực đến nơi rồi…
- Vì sao?
- Vì tôi sắp cho công nương biết nó đang ở trong nhà trọ trên đường Fane, lầu
thượng, phòng cuối cùng. Phải mau mau đi bắt nó ngay, nếu không nó sẽ trốn đi
xa, rất xa…
Elva ôm bụng rên rỉ như con thú bị thương:
- Đi gấp đi. Đi trước khi thần chú của Eragon lại bắt tôi ngăn cản các gnười
làm gã đó đau đớn. Lúc đó công nương sẽ hối không kịp đâu.
Trước khi Trianna đi, Nasuada dặn thêm:
- Báo cho ông Jormundur biết chuyện gì đã xảy ra, rồi đem theo những pháp sư
cao tay nhất của cô, truy lùng bằng được tên thích khách đó. Giết chết, nếu
không bắt sống được.
Cô gái phù thuỷ đi khỏi, Nasuada qua lại nhìn mấy người lính của cô và những
đôi chân đầy vết cắt nhỏ, máu chảy ròng ròng
- Đi tìm thầy thuốc trị vêt thương đi.
Mấy người lính đều lắc đầu. Viên đại uý bảo:
- Không, thưa công nương. Chúng tôi ở lại cho đến khi thấy thật sự an toàn.
- Tùy đại úy.
Đám lính đóng chốt, ngăn chặn các cửa sổ - làm không khí càng thêm nóng bức ngột
ngạt - rồi họ chia nhau vào các phòng để bảo vệ chặt chẽ hơn.
Nasuada bước quanh phòng, tim đập thình thình, ngẫm nghĩ đến việc cô vừa
thoát chết trong đường tơ kẽ tóc: “Tổ chức Varden sẽ ra sao nếu mình bị giết?
Ai sẽ là người kế vị mình?”. Cô chưa dự trù gì cho Varden trong trường hợp cô
chết. Đó là một thiếu sót quá to lớn. “ta không thể để Varden tan rã vì đã
không tính toán trước những sự kiện như thế này có thể xảy ra”.
Đừng bước, cô nói với Elva:
- Ta mắc nợ em rồi đó, elava
- Bây giờ và mãi mãi.
Nasuada ngỡ ngàng. Cô luôn bị bất ngờ vì những câu trả lời của con bé này.
- Ta xin lỗi vì đã không ra lệnh cho lính gác, để em có thể vào đây bất cứ lúc
nào. Đáng lẽ ta đã phải dự kiến những chuyện như thế này.
- Đúng vậy.
Giọng con bé đầy giễu cợt.
Vuốt tà áo trước cho thẳng thớm, Nasuada lại bước quanh, chủ yếu là để tránh
bối rối khi phải nhìn khuôn mặt trắng bệch như đá, với dấu ấn rồng trên trán
của Elva.
- Bằng cách nào em trốn ra khỏi phòng vậy?
- Em kể đủ thứ chuyện cho bà vú Greta nghe.
- Chỉ có vậy thôi sao?
- Bà ấy khoái nghe kể chuyện lắm
- Còn Angela?
- Sáng nay bà ta ra ngoài có việc.
- Đáp lại ơn cứu mạng, em cần gì cứ nói. Ta sẵn sàng làm trong quyền hạn của
mình.
Elva nhìn quanh căn phòng lộng lẫy, rồi bảo:
- Công nương có gì ăn không? Em đói.
Linh cảm chiến tranh
Hai tiếng sau Trianna trở lại cùng
hai người lính vác một thân hình mềm oặt. Cô ta ra lệnh cho họ ném cái xác lên
sàn, rồi nói với Nasuada:
- Chúng tôi tìm ra kẻ thích khách đúng nơi Elva nói. Tên hắn là Drail.
Nasuada chăm chú nhìn kẻ mưu giết mình. Tên thích khách thấp người, rậm râu,
vẻ chất phác; chẳng khác gì vô vàn những người đàn ông khác trong thành phố. Cô
cảm thấy một mối dây liên lạc với hắn - dường như việc hắn định giết cô và việc
cô tạo ra cái chết của hắn đã làm hai người thật gắn bó với nhau. Nasuada
hỏi:
- Hắn bị giết cách nào? Ta không thấy dấu vết nào trên thi thể.
- Hắn tự tử bằng phép thuật khi bị chúng tôi xâm nhập vào tâm tưởng. Chúng tôi
không kịp kiểm soát hành động của hắn.
- Có thu thập thông tin gì hữu ích trước khi hắn chết không?
- Có. Drail là một phần tử trong mạng lưới gián điệp đặt căn cứ tại đây. Chúng
là những kẻ trung thành với Galbatorix, có tên gọi là Bàn Tay Đen. Nhiệm vụ
của chúng là do thám và ngấm ngầm phá hoại những nỗ lực quân sự của chúng ta -
điều quan trọng nhất chúng tôi có thể xác định trong thoáng chốc soi rọi vào
quá khứ của Drail là – chúng có liên quan đến hàng chục vụ sát hại người của
Varden. Rõ ràng chúng chỉ chờ cơ hội để giết công nương kể từ khi chúng ta từ
Farthen Dur tới dây.
- Vì sao bọn Bàn Tay Đen này lại chưa ám sát vua Orrin?
- Tôi không rõ. Có thể vì Galbatorix cho rằng công nương là mối đe doạ nguy
hiểm hơn vua Orrin. Nếu đúng vậy, thì ngay sau khi Bàn Tay Đen phát hiện công
nương đã được bảo vệ khỏi sự tấn công của chúng…
Trianna liếc nhìn Elva, tiếp:
- Tôi e rằng nhà vua sẽ không sống được một tháng nữa đâu, trừ khi ông ta được
bảo vệ phép thuật suốt đêm ngày, hay Galbatorix tránh có hành động trực tiếp
như thế, để Bàn Tay Đen vẫn có thể âm thầm hoạt động và Surda vẫn tồn tại trong
sự bao dung của bạo chúa…
Nasuada hỏi Elva:
- Em có thể bảo vệ cho cả nhà vua được không?
Đôi mắt màu tím của nó long lanh sáng:
- Có thể. Nếu ông ta yêu cầu đàng hoàng.
Nasuada thoáng tính toán cách ngăn chặn mối hiểm hoạ mới này. Cô hỏi Trianna:
- Tất cả gián điệp của Galbatorix đều có thể sử dụng phép thuật sao?
- Tâm trí của Drail bị rối loạn, khó đoán được chuyện này. Nhưng tôi nghĩ phần
lớn chúng đều có thể.
“Hừ! lại là phép thuật!” Nasuada thầm rủa. Mối hiểm nguy lớn nhất các pháp sư
- hoặc bất cứ kẻ nào sử dụng phép thuật – gây ra cho Varden, không phải là
những vụ ám sát, mà chính là những điệp vụ. Các pháp sư có thể do thám tư tưởng
người khác để thu thập tin tức, hầu phá hoại Varden. Đó là lý do vì sao Nasuada
và toàn thể bộ máy lãnh đạo được dạy cách phát hiện và bao phủ tư tưởng, khi có
kẻ chạm tới tâm trí mình. Nasuada ngờ rằng Orrin, vua Surda và vua lùn
Hrothgar cũng trông cậy vào biện pháp đề phòng này. Cô hỏi Trianna:
- Vì sao cô đã không phát giác ra chuyện này sớm hơn? Một sát thủ lẻ loi tôi
còn thông cảm được, nhưng đây là cả một hệ thống của những kẻ âm mưu phá hoại
chúng ta. Cắt nghĩa đi, Trianna.
Trước những lời cáo buộc, mắt cô phù thuỷ sáng lên tức giận:
- Vì tại đây, không như ở Farthen Dur, chúng tôi không thể kiểm tra từng cá
nhân để tìm ra những kẻ hai lòng. Có quá nhiều người mà nhóm pháp sư chúng tôi
không thể theo dõi. Đó là nguyên nhân vì sao chúng tôi đã không biết gì về Bàn
Tay Đen cho đến lúc này, thưa công nương.
Cúi đầu suy nghĩ một lúc, Nasuada nói:
- Ta hiểu rồi. Cô có phát hiện thêm được thành viên nào khác của Bàn Tay Đen
không?
- Có mấy tên.
- Tốt lắm. Hãy dùng chúng để lần ra tất cả những tên còn lại. Ta mong cô giúp
xoá sạch tổ chức này, Trianna. Hãy nhổ tận rễ như nhổ hoa màu bị sâu bệnh
vậy. Cô cần thêm bao nhiêu quân, ta sẽ cấp cho ngay.
- Tuân lệnh.
Có tiếng gõ cửa. Mấy người lính rút gươm đứng dạt sang hai bên lối vào, rồi
viên đại úy thình lình mở tung cửa. Bên ngoài là một tiểu đồng đang giơ tay
định gõ tiếp. Chú tiểu đồng khiếp đảm nhìn xác chết lù lù trên sàn, giật thót
mình khi nghe viên đại úy hỏi:
- Chuyện gì?
- Đức vua truyền tôi tới gặp công nương Nasuada.
Nasuada giục giã.
- Nói mau đi.
- Đức vua Orrin truyền công nương tới ngay Hội-Nghị-Đường.
- Còn gì nữa không?
- Thưa không.
- Ta phải đến đó ngay. Trianna hãy đi thi hành lệnh ta. Đại úy, ông để lại
một người giải quyết cái xác của Drail. Và nhờ ông tìm giúp cô nữ tì Farica,
để lau dọn phòng này.
Elva lắc lư đầu:
- Còn em?
- Em đi cùng ta, nếu em không mệt.
Con bé bật ngửa đầu, từ cái miệng nhỏ bé của nó phát ra tràng cười lạnh lẽo:
- Tôi rất khỏe, còn công nương thì sao?
Nasuada không trả lời, tiến thẳng ra hành lang cùng những người lính gác vây
quanh. Những bức tường đá của tòa lâu đài tỏa ra hơi nóng hăng mùi đất. Phía
sau, cô nghe tiếng chân hấp tấp của Elva ráng theo bước chân sải dài của những
người lớn.
Nhóm lính gác ở lại tiền sảnh khi Nasuada và Elva vào phòng hội nghị. Gian
phòng đơn giản phản ảnh tính cách tranh đấu của đất nước Surda. Các vì vua đã
cống hiến tài sản để bảo vệ thần dân và lật đổ Galbatorix, không trang trí
lâu đài Borromeo một cách xa hoa phù phiếm như người lùn đã làm tại Tronjheim.
Giữa đại sảnh là một cái bàn gỗ mộc dài chừng bốn mét. Một tấm bản đồ Alagaesia
trải trên mặt bàn, bốn con dao găm chặn bốn góc. Vua Orrin ngồi đầu bàn. Lui
xuống dưới là những cận thần của ông – Nasuada biết nhiều người trong số này
đã chống đối cô quyết liệt. Hội-đồng Tiền-bối cũng hiện diện. Dù đã được Trianna
thông báo về vụ gã thích khách Drail, nhưng Nasuada vẫn nhận thấy vẻ lo lắng
trong ánh mắt Jormundur khi ông nhìn cô. Nasuada hỏi nhà vua:
- Bệ hạ cho gọi tôi?
Orrin đứng dậy:
- Đúng vậy. Bây giờ chúng ta…
Nhà vua ngừng lời khi thấy Elva, ông quay qua nói với nó:
- A, Trán Sáng đây mà. Trẫm chưa có dịp nào gặp người, nhưng những việc kỳ lạ
người làm đã đến tai trẫm. Phải thú thật là trẫm rất tò mò muốn gặp người.
Người có vừa lòng với nơi nghỉ trẫm ban cho không?
- Xin đa tạ. Nơi ở đó rất tuyệt, muôn tâu bệ hạ.
Giọng nói như người lớn, kỳ quái của con bé làm tất cả những người quanh bàn
rùng mình. Bộ trưởng Irwin chỉ ngón tay vào Elva, hỏi Nasuada:
- Sao… sao công nương dám đem cái… cái thứ gớm ghiếc này vào đây?
Dù thông cảm mối hãi hùng của ông, Nasuada vẫn nói:
- Thượng quan hơi quá lời rồi đó.
Nhà vua chau mày:
- Bình tĩnh nào, Irwin. Tuy nhiên ông ấy cũng có lý, công nương Nasuada à.
Không thể để một đứa trẻ có mặt trong hội nghị như thế này được.
- Galbatorix vừa định ám sát tôi…
Cả phòng vang lên những tiếng kêu kinh ngạc. Cô tiếp:
- Nếu không có hành động chớp nhoáng của Elva thì tôi đã chết rồi. Vì vậy, tôi
chỉ còn tin tưởng vào nó, tôi đi đâu nó sẽ theo đến đó.
“Mặc họ hoang mang không biết chính xác Elva làm được những trò gì.” Nasuada
thầm nghĩ.
Nhà vua than thở:
- Thật ghê gớm! Công nương đã bắt được tên ti tiện đó chưa?
Nasuada ngập ngừng:
- Tốt nhất là tôi sẽ tâu trình riêng cùng bệ hạ sau.
- Được, nhưng ngồi, ngồi xuống chứ. Chúng ta mới nhận được một báo cáo rất đáng
lo ngại.
Sau khi Nasuada ngồi đối diện ông và Elva lấp ló sau cô, nhà vua tiếp tục:
- Dường như gián điệp của ta tại Gil’ead đã bị lừa về tình hình quân đội của
Galbatorix.
- Là sao, thưa bệ hạ?
- Họ cho rằng quân của Galbatorix đóng tại Gil’ead, trong khi văn thư của một
người của ta tại Uru’baen lại cho biết chính hắn chứng kiến một lượng lớn binh
sẽ chuyển về hướng nam từ hơn một tuần trước. Vì là ban đêm, nên người của ta
không biết chính xác, nhưng hắn chắc chắn là phải hơn mười sáu ngàn quân chủ
lực của Galbatorix. Cũng có thể lên tới cả trăm ngàn hoặc hơn vậy nữa.
Một trăm ngàn! Nasuada hãi hùng đến quặn thắt bụng. Cô hỏi:
- Nguồn tin đó có đáng tin không, thưa bệ hạ?
- Tin tức của người đó luôn đáng tin cậy.
- Tôi vẫn không hiểu bằng cách nào Galbatorix di chuyển được một lượng quân
lớn như thế mà người chúng ta không biết? Chỉ riêng xe vận chuyển đồ tiếp tế
cũng kéo dài cả dặm rồi…
- Chúng ta đã bị mắc mưu. Rất có thể, gián điệp của chúng ta đã bị dụ hoặc bằng
phép thuật, để đi đến lầm tưởng quân triều đình vẫn còn trong doanh trại tại
Gil’ead.
Mặt Nasuada không còn sắc máu:
- Chỉ một người có khả năng tạo ra nổi một ảo ảnh to lớn và lâu dài đến thế…
Vua Orrin nói nốt ý cô:
- Chính là Galbatorix. Và đó là kết luận của chúng tôi. Điều đó có nghĩa là,
sau cùng thì, bạo chúa đã rời hang ổ để sẵn sàng mở một cuộc chiến công khai.
Thậm chí, có thể khi chúng ta đang ngồi đây bàn luận, thì kẻ thù đang tiến tới.
Bộ trưởng Irwin nghiêng mình tới trước:
- Câu hỏi lúc này là chúng ta phải làm gì đây? Chống trả? Tất nhiên, nhưng bằng
cách nào? Bao giờ? Và tại đâu? Lực lượng của chúng tôi chưa sẵn sàng cho một
chiến dịch tầm cỡ như thế này. Công nương Nasuada, trong khi đó, lực lượng
Varden đã quen với chiến trận tàn khốc rồi…
- Ông nói vậy là ngụ ý gì?
Nasuada hỏi và thầm nghĩ: “Là chúng tôi chết thay cho các ông chứ gì?”
- Tôi chỉ nhận xét như vậy thôi. Công nương hiểu sao tùy ý.
Nhà vua lên tiếng:
- Một mình chúng tôi sẽ bị nghiền nát giữa một đạo quân quá lớn. Chúng tôi cần
phải có nhiều đồng minh. Đặc biệt là nếu chúng ta phải đương đầu với Galbatorix,
điều cần thiết nhất là phải có được Eragon. Nasuada, công nương có thể nhắn
tin cho Eragon được không?
- Tôi sẽ làm khi có thể. Nhưng cho đến khi Arya trở lại, tôi không có cách nào
liên lạc được với thần tiên hay gọi Eragon về đây.
- Vậy thì chỉ còn hy vọng Arya trở lại trước khi quá muộn. Tôi không tin tưởng
lắm vào thần tiên trong vụ này. Một con rồng có thể vượt nhiều dặm giữa Aberon
và Ellesméra với tốc độ của chim ưng, thần tiên không thể chạy bộ cùng khoảng
cách như thế, để kịp tới đây trước Galbatorix. Chỉ còn cách trông chờ vào
người lùn. Trẫm biết, từ nhiều năm qua, công nương vẫn giữ mối giao hảo với
vua Hrothgar; liệu công nương có thể đại diện trẫm gửi lời xin họ giúp đỡ
chúng ta? Người lùn vẫn hứa là họ sẽ tham gia khi thời cơ tới…
- Con-đường Lãng-du đã thu xếp với vài pháp sư của người lùn, để chúng tôi có
thể chuyển tin đi một cách cấp kỳ. Tôi sẽ chuyển yêu cầu của bệ hạ… của… chúng
ta tới đức vua Hrothgar và sẽ xin nhà vua cử một sứ thần tới trạm Caris để
thông báo cho thần tiên nắm rõ tình hình.
- Tốt. Tuy chúng ta ở hơi xa Farthen Dur, nhưng nếu có thể cầm chân quân triều
đình của Galbatorix chừng một tuần, người lùn chắc tới kịp.
Những vấn đề nghiêm trọng khác được tiếp tục thảo luận: nhiều chiến thuật có
thể được áp dụng để đương đầu với một lực lượng hùng mạnh, nhưng không ai tìm
ra được một giải pháp để chống lại Galbatorix, nhất là khi Eragon vẫn không
thể só sánh với lão bạo chúa già khú khụ. Duy nhất một xảo thuật may ra có thể
đem lại thành công: các pháp sư, người lùn, quân Varden – càng nhiều càng tốt
– bao quanh Eragon, ép buộc Galbatorix phải một mình đối đầu với họ.
Nhưng Nasuada lại nghĩ: “Vấn đề của kế hoạch này là, trong thời kỳ triệt phá
Kỵ sĩ rồng, Galbatorix đã từng chiến thắng những kẻ thù khủng khiếp hơn
nhiều, và từ ngày đó nội công của lão chỉ càng thâm hậu hơn lên. Nếu trong hàng
ngũ của ta có những pháp sư của thần tiên, may ra mới đạt được chiến thắng.
Không có họ thì… nếu không hạ được Galbatorix chỉ còn con đường vượt biển tìm
mảnh đất mới mà sống, chờ cho đến khi bạo chúa lìa đời…”
Tất cả sôi nổi bàn cãi hết chiến thuật này tới chiến lược khác. Hội-đồng
Tiền-bối càng tỏ ra gay gắt hơn khi thảo luận với các quân sư của vua Orrin về
việc phân chia trách nhiệm: ai chi tiền cho khoản này khoản kia, ai phân phối
khẩu phần cho những lao động làm việc cho cả Varden và nhà vua? Giải quyết
những vấn đề liên quan cả hai bên ra sao?
Giữa cuộc đấu võ miệng rầm rầm, vua Orrin rút ra một cuộn giấy, nói với Nasuada:
- Nhân bàn về vấn đề tài chính, công nương có vui lòng cắt nghĩa cho trẫm hiểu
về vài vụ việc đã được tâu trình lên trẫm không?
- Tôi sẽ hết sức cố gắng, thưa bệ hạ.
- Trẫm đang có trong tay đơn khiếu nại của Hiệp Hội Nghề Dệt. Họ khẳng định thợ
dệt trên toàn lãnh thổ Surda đã bị thua lỗ, vì trên thị trường tràn ngập hàng
đai áo rẻ đến không ngờ. Theo như trong đơn quả quyết, thì đó là mặt hàng có
xuất xứ từ Varden.
Mặt nhà vua thoáng vẻ đau khổ:
- Nếu đó là sự thật, trẫm muốn biết, vì sao Varden lại hành động như thế?
Nasuada không giấu nụ cười:
- Muôn tâu, chắc bệ hạ còn nhớ, khi từ chối cho Varden vay thêm tiền, bệ hạ đã
truyền dạy tôi hãy tự tìm cách mà xoay sở.
- Đúng là trẫm đã khuyên công nương như vậy. Nhưng chuyện đó có gì liên quan
đến vụ này?
- Vì phải tự xoay sở, tôi chợt nghĩ ra những đai áo quá đắt tiền là vì làm theo
lối thủ công rất tốn công sức và thời gian. Nhưng nếu được sản xuất hàng loạt
bằng phép thuật lại quá dễ dàng khắc phục được những nhược điểm trên. Thần dân
của bệ hạ đều là những nhà tâm lý bẩm sinh, chắc phải cám ơn chúng tôi vì đã
giảm được gánh nặng cho Surda, vì đã tự lo được cái ăn chỗ ở cho chính mình.
Nasuada tỏ ra quá hoan hỉ đến nỗi mặt nhà vua hằn vẻ nghi ngờ. Cuộn giấy nắm
trong tay, để lơ lửng giữa cằm ông và mặt bàn, miệng hé mở, trán cau lại, dường
như ông mới thấy một điều gì nhưng không hiểu nổi. Ông lắp bắp:
- Đai áo à?
- Đúng vậy, thưa bệ hạ.
- Không thể chiến đấu với Galbatorix bằng đai áo được.
- Muôn tâu, vì sao lại không thể?
Ráng sức tìm câu trả lời, một lúc sau nhà vua mới làu bàu:
- Vì… vì… không đàng hoàng, không làm người ta kính nể. Các thi nhân sẽ viết gì
trong bản anh hùng ca về chiến công của chúng ta với… cái… cái đai áo?
- Chúng tôi không chiến đấu để được thi nhân tán tụng trong những bản anh hùng
ca, thưa bệ hạ.
- Vậy thì dẹp chuyện anh hùng ca sang một bên. Nhưng trẫm sẽ phải trả lời sao
với hiệp hội thợ dệt về chuyện này đây? Những chiếc đai giá rẻ đó đã làm hại
tới đời sống thần dân trẫm, làm giảm uy tín nền kinh tế của đất nước trẫm.
Không được, hoàn toàn không chấp nhận được.
Nasuada nở nụ cười rất thân thiện, dịu dàng:
- Ôi, muôn tâu, nếu đó là sự thiệt thòi nặng nề cho ngân khố triều đình, để đáp
lại lòng ưu ái bệ hạ đã dành cho chúng tôi, Varden chúng tôi rất vui lòng cho
bệ hạ vay một khoản tiền, tất nhiên là với… lãi suất phải chăng thôi.
Hội-đồng Tiền-bối ngồi im giữ vẻ lịch sự đúng mức, nhưng đằng sau Nasuada, Elva
bật lên cười hô hố.
Hồng kiếm - Bạch kiếm tranh hùng
Mặt trời vừa xuất hiện trên hàng cây
cuối chân trời, Eragon hít sâu, mở mắt, tỉnh táo lại. Thật ra nó chưa hề ngủ,
không ngủ từ khi thể chất và tinh thần biến đổi. Những khi cảm thấy mệt mỏi,
vừa nằm xuống nghỉ ngơi, nó lại trôi vào những giấc mơ tỉnh. Nó lại thấy những
hình ảnh lạ lùng, lại đi giữa những bóng đen trong ký ức; tuy nhiên, suốt thời
gian đó nó vẫn nhận biết những gì chung quanh.
Eragon nhìn mặt trời lên và nhớ lại tất cả những giờ phút gần bên Arya trong
Lễ-hội Huyết-thệ hai hôm trước. Buổi sáng sau ngày hội, nó tới cung Tialdarí
tìm cô, mới biết Arya đã lên đường tới Surda. “Bao giờ ta mới gặp lại nàng?”
Eragon thầm nhủ. Trong ánh sáng trong vắt buổi sớm mai, nó mới nhận ra phép
thuật của rồng và thần tiên đã làm đầu óc nó mê muội đến thế nào trong suốt mấy
ngày lễ đó. “Chắc mình đã có những hành động ngu ngốc lắm, nhưng hoàn toàn đây
phải lỗi tại mình. Cứ như say rượu tới không còn tự chủ được nữa vậy.”
Tuy vậy, từng lời nói với Arya đều là sự thật, kể cả những câu mà lúc bình
thường nó chưa hề thổ lộ. Cô đã mau chóng bác bỏ tâm tình của nó. Lúc này,
thoát khỏi bùa chú bao phủ tâm trí, nó tỉnh táo nhìn nhận: rất có thể nàng có
lý. Tuổi tác quá cách biệt nhau. Chấp nhận nguyên nhân này chỉ làm nó thêm đau
khổ.
Trước kia, Eragon đã từng nghe câu “Con tim tan nát”. Nó luôn nghĩ đó chỉ là
một cách diễn tả đầy tính tưởng tượng, nhưng không thể là một triệu chứng của
thể xác được. Nhưng chính lúc này đây, lồng ngực nó đau nhói theo từng tiếng
đập của con tim.
Niềm an ủi duy nhất của Eragon lúc này là Saphira. Suốt hai ngày qua, Saphira
không hề phê phán những gì nó đã làm, cũng không rời xa nó một phút. Cô em rồng
ríu rít chuyện trò, cố lôi kéo ra khỏi cái vỏ im lìm ủ dột.
Để kéo mình ra khỏi nỗi ám ảnh về Arya, Eragon đem chiếc nhẫn rắc rối của ông
lùn Orik ra, xoay xoay giữa mấy ngón tay, ngỡ ngàng vì không ngờ các giác quan
trở nên sắc bén đến thế. Nó có thể cảm nhận được từng tỳ vết nhỏ trên những
vòng xoắn xít này. Quan sát chiếc nhẫn, Eragon nhận ra ngay mô hình sắp đặt
phức tạp của những sợi vàng mà trước đây nó không thể nào phát hiện. Tự tin vào
bản năng, nó điều khiển những cái vòng hàng loạt kiểu theo ý muốn, cho đến khi
tám mảnh khớp với nhau thành một chiếc nhẫn hoàn hảo. Đeo nhẫn vào ngón tay
phải, Eragon thích thú ngắm nghía màu vàng lấp lánh trong ánh nắng.
Từ chỗ ngủ, Saphira ngửng đầu lên, nhận xét: “Trước đây anh đâu có thể làm
được như vậy.”
“Đúng, bây giờ anh có thể nhìn thấy nhiều điều trước kia cứ như bị che mắt.”
Eragon vào phòng tắm làm vệ sinh sáng và đọc thần chú cạo râu.
Tới bãi luyện kiếm, Saphira và Eragon đã thấy ông lùn Orik đang ngồi đợi. Mắt
ông lùn sáng lên khi Eragon khoe bàn tay đeo nhẫn:
- A, vậy là cậu đã lý giải được rồi hả?
- Lâu hơn tôi tưởng, nhưng cũng xong. Ông tới luyện kiếm?
- Ồ, không. Tôi tới xem cậu đấu.
- Ông đã từng thấy tôi đấu rồi mà.
- Nhưng… lâu rồi.
- Có nghĩa là ông muốn biết tôi thay đổi ra sao, phải không?
Orik nhún vai thay cho câu trả lời.
Tiến ra sân, Vanir hỏi lớn:
- Sẵn sàng chưa, Khắc-Tinh của Tà-Thần?
Thái độ hạ cố của Vanir - từ sau trận đấu trước ngày hội Huyết-thệ - có phần giảm, nhưng chưa hết hẳn.
Eragon trả lời:
- Sẵn sàng.
Cả hai thủ thé. Giữ tâm trí bình thản, Eragon nín thở, tung đòn. Không ngờ
thanh Zar’roc bỗng nhẹ hẫng như một nhành liễu, vuột khỏi tay Eragon, vừa xoáy
tít vừa phóng mình xa chừng hai mươi mét, rồi cắm phập vào thân một cây thông.
Vanir nhếch mép hỏi:
- Cầm kiếm cũng không nổi sao, kỵ sĩ?
- Xin lỗi, Vanir công tử. Tôi xuất chiêu hơi quá tay.
- Thận trọng, đừng tái diễn trò đó nữa.
Tiến tới cây thông, Vanir nắm chuôi Zar’roc cố nhổ ra. Thanh kiếm không hề lay
chuyển. Hai lông mày nhíu sát vào nhau, Vanir nhăn mặt, người người ráng sức
bình sinh nhổ bật thanh kiếm khỏi thân cây.
Đón thanh Zar’roc từ tay Vanir, Eragon lại thắc mắc không hiểu sao thanh kiếm
nhẹ đến như vậy. Nó thầm hỏi: “Chuyện gì xảy ra thế này?”
- Thủ thế đi.
Lần này Vanir xuất chiêu trước. Chỉ một bước nhảy, Vanir tới gần sát Eragon,
phóng mũi kiếm ngay vai phải nó. Với Eragon, hình như anh chàng tiên trẻ này
di chuyển chậm chạp hơn trước kia, cứ như anh ta cố giám sức cho ngang bằng một
con người. Điều đó làm Eragon dễ dàng gạt phăng thanh kiếm của đối thủ. Những
tia lửa xanh lè tóe ra khi hai vũ khí chạm nhau.
Vanir bàng hoàng kinh ngạc, tấn công tiếp. Như một cành cây rạp mình trong gió,
Eragon ngả mình ra sau, tránh đường kiếm. Vanir liên tiếp xuất chiêu ào ạt.
Hóa giải những chiêu kiếm chợp nhoáng như tia chớp, Eragon sử dụng cả bao
thanh Zar’roc làm vũ khí.
Chợt Eragon nhận ra, trong Lễ-hội Huyết-thệ,
hồn ma bóng quế của rồng không chỉ làm biến đổi ngoại hình nó, mà hơn thế nữa,
đã ban cho nó năng lực thể chất của thần tiên. Bây giờ, sức mạnh và sự nhanh
nhẹn của nó có thể so sánh cùng như thần tiên cao thủ nhất.
Khát khao thử khả năng của mình, Eragon nhảy hết sức bình sinh lên cao. Thanh
Zar’roc sáng rực màu đỏ khi Eragon vọt lên cao hơn ba mét, rồi thình lình xoay
người, hạ xuống sau lưng Vanir như một nghệ sĩ nhào lộn đại tài.
Eragon bật lên một tràng cười dữ dội. Nó không còn bất lực trước thần tiên, tà
thần và những sinh vật ma thuật nào nữa. Không còn phải chịu đựng sự khinh bỉ
của thần tiên. Không phải lệ thuộc vào Saphira hay Arya để giải thoát nó khỏi
tay những kẻ thù như Durza.
Eragon tấn công. Bãi tập vang lên những tiếng la hét hăng say, giận dữ khi hai
tiếm sĩ tung ra những chiêu kiếm tới tấp tấn công, thủ trên bãi cỏ nhàu nát. Những
đường gươm đầy dũng mãnh tạo nên những luồng gió mạnh làm đầu tóc họ bay tung,
lá thông đổ ào ào. Trận đấu kéo dài suốt buổi sáng, vì mặc dù với năng lực mới
của Eragon, Vanir vẫn tỏ ra là một đối thủ đáng gờm. Sau cùng, Eragon quay
tít thanh Zar’roc, phá thế thủ của Vanir, đập mạnh lên cánh tay anh ta. Xương
Vanir bị gãy.
Buông rơi thanh kiếm, mặt trắng nhợt, Vanir thì thào:
- Xuất chiêu như chớp nhoáng!
Eragon nhận ra đó là câu nói nổi tiếng trong cuốn Cái Chết của Umhodan.
Ông lùn Orik la toáng lên:
- Trời ơi là trời! Đại cao thủ. Tôi đã từng thấy cậu đấu cùng Arya khi còn ở
Farthen Dur, nhưng bây giờ thì… bái phục bái phục.
Rồi Vanir làm một hành động mà Eragon không bao giờ ngờ tới: chàng thần tiên
trẻ xoắn vặn bàn tay bị thương - với cung cách tỏ lòng trong thành tôn kính -
đặt lên xương ức, cúi đầu nói:
- Eragon-elda, xin thứ lỗi cho thái độ trước đây của tôi. Vì quá lo
sợ kỵ sĩ đưa đẩy nòi giống chúng tôi vào vực thẳm, nên đã hồ đồ thất lễ. Bây
giờ công tử quả xứng danh là một kỵ sĩ rồng.
Eragon cúi đầu đáp lễ:
- Xin đừng quá khen. Tôi xin lỗi vì đã gây thương tích nặng. Cho phép tôi được
điều trị…
- Không. Tôi sẽ để thiên nhiên săn sóc vết thương này và lưu giữ như kỷ niệm
một lần so kiếm cùng Khắc-Tinh của Tà-Thần. Tôi thuận tay trái như tay phải, nên kỵ sĩ đừng lo
buổi tập sáng mai bị hoãn lại.
Cả hai cúi chào chia tay. Sau khi Vanir đi khỏi, ông lùn Orik lên tiếng:
- Bây giờ thì ta có cơ may chiến thắng rồi. Tôi cảm thấy điều đó từ xương tủy,
từ trong lớp xương rắn như đá này đây. A, chuyện này sẽ làm đức vua Hrothgar
và công nương Nasuada vui mừng khôn xiết.
Eragon lẳng lặng tập trung giải tỏa lớp phép thuật bao bọc trên mặt thanh
Zar’roc, nhưng trong trí nói với Saphira: “Hừ, chiến thắng đâu dễ thế? Nếu chỉ
cần có sức mạnh là có thể triệt hạ Galbatorix thì thần tiên đã chiến thắng từ
lâu rồi.” Tuy nhiên nó không thể ngăn được niềm vui vì năng lực là sự dũng cảm
của nó đang tăng lên, cũng như sự đau đớn hành hạ cái lưng của nó suốt thời gian
qua không còn nữa. Không còn cái đau như xé thịt, dường như tâm trí nó thoát ra
khỏi một đám mây mù, lại có thể suy nghĩ một cách sáng suốt như trước kia.
Còn mấy phút nữa mới phải gặp sư phụ và rồng vàng Glaedr, Eragon lấy cung tên
từ lưng Saphira, tiến lại xạ trường của thần tiên. Vì cung tên của thần tiên
mạnh hơn của Eragon nhiều, bia tập bắn của họ vừa quá nhỏ vừa quá xa đối với
nó. Eragon phải tiến lên phân nửa tầm bắn của họ.
Gắn tên xong, Eragon từ từ kéo dây cung, vui mừng vì sao lần này nhẹ nhàng
thoải mái quá. Nhắm đích, Eragon buông dây. Mũi tên, như một con ong hóa rồ,
vù vù bay thẳng tới tấm bia, cắm phập ngay chính giữa hồng tâm. Toác miệng
cười, Eragon liên tục buông dây cung ba mươi lần.
Tới mũi tên ba mươi mốt, nó thử kéo dây hơi mạnh hơn bình thường. Một tiếng
“rắc” vang lên. Cây cung bằng gỗ thủy tùng gãy làm hai.
Eragon bàng hoàng nhìn hai mảnh cung gãy. Cậu Garrow làm cây cung này để làm
quà sinh nhật cho nó ba năm trước. Từ ngày đó, không tuần nào Eragon không sử
dụng. Cây cung đã giúp nó cung cấp thực phẩm cho cả nhà, nhiều khi thiếu ăn đến
đói lả. Với cây cung này Eragon đã hạ con nai đầu tiên, quái thú Urgal đầu
tiên, và cũng với cây cung này, nó đã sử dụng phép thuật lần đầu. Mất cây cung,
chẳng khác nào mất người bạn thân thiết đã từng giúp nó trong những lúc gian
nan, nguy khốn nhất.
Saphira ngửi hai mảnh gỗ đong đưa trong tay Eragon, bảo: “Chắc anh cần phải
thay thế bằng một cây lao để phóng.”
Eragon ậm ừ, không còn tinh thần trò chuyện cùng cô em rồng nữa. Nó uể oải
tiến lại nhặt mấy mũi tên, rồi lên lưng Saphira, cùng bay tới bờ đá trắng trên
vực Tel’naéir trình diện sự phụ.
Oromis đang ngồi trước lều, đôi mắt nhìn xa xôi, hỏi:
- Eragon, con đã hoàn toàn bình phục hỏi tác dụng của phép thuật trong ngày lễ
chưa?
- Thưa sư phụ, con đã bình phục rồi.
Im lặng kéo dài trong khi vị lão tiên nhấm nhácp tách trà dâu đen, lẳng lặng
ngắm nhìn cánh rừng già. Sau cùng ông lên tiếng:
- Glaedr cắt nghĩa cho ta biết, việc đã làm cho con trong lễ hội. Một chuyện
như thế chưa từng xảy ra trong lịch sử các kỵ sĩ… Một lần nữa rồng lại chứng tỏ
có khả năng vượt quá cả sự tưởng tượng của chúng ta…
Nhấp ngụm trà, ông chậm rãi tiếp:
- Nhưng Glaedr không biết chính xác sự thay đỏi làm con thêm được những khả
năng gì, vì vậy ta muốn tự con cho ta biết rõ ràng những biến đổi từ nội lực
tới ngoại hình của con ra sao.
Eragon mau mắn tóm tắt những đổi thay từ thính, thị, khứu, vị, xúc giác trở
nên vô cùng nhạy bén, tới chuyện đã thắng Vanir trong buổi luyện kiếm ra sao.
Oromis hỏi:
- Con cảm thấy thế nào về chuyện này? Có buồn giận vì cơ thể bị đổi thay mà
chưa được con cho phép không?
- Không, không chút nào, thưa sư phụ. Nếu chuyện này xảy ra trước trận đánh tại
Farthen Dur, chắc con đã vô cùng phẫn nộ, nhưng lúc này con chỉ cảm thấy biết
ơn vì lưng con không còn đau đớn. Con còn mong đổi thay nhiều hơn nữa để thoát
khỏi lời nguyền của Tà Thần Durza.
- Ta mừng vì con đã sáng suốt chấp nhận tình trạng này, vì đó là một tặng phẩm
còn quý hơn vàng trên khắp thế gian. Thôi, bây giờ thầy trò ta bắt đầu. Saphira,
Glaedr đang đợi con tại Trụ Đá Trứng Vỡ. Còn con, Eragon, hôm nay con bắt đầu
luyện lên cấp ba của Xà Hạc quyền, thầy muốn biết khả năng con hiện nay tới
đâu.
Eragon vừa định bước ra khoảng đát nện dùng để luyện võ, nhưng thấy sư phụ vẫn
ngồi yên, nên ngập ngừng hỏi:
- Sư phụ, người không ra cùng con sao?
Oromis thoáng cười buồn:
- Hôm nay thì không, Eragon. Những câu thần chú cần thiết trong hội Huyết-thệ đã rút cạn sức ta rồi. Thầy không còn đủ sức ra ngoài đó
với con đâu.
- Con xin lỗi…
- Đừng rầu rĩ vậy. Thầy bị tàn tật đâu phải vì lỗi của con.
Khi Eragon cố gắng hoàn tất bài quyền, nó cảm thấy rõ ràng vẫn còn thiếu sự ổn
định tinh thần và mềm dẻo cơ thể của thần tiên; hai đặc tính mà kể cả thần tiên
vẫn phải khổ luyện mới đạt tới.
Những tuần tiếp theo là thời gian đầy khó khăn của Eragon. Một mặt nó tiến bộ
nhiều trong luyện tập, lần lượt vượt qua những thử thách cam go mà trước đây
từng làm nó bối rối. Dù vẫn thấy những bài học của sư phụ đầy thách thức, nhưng
nó không còn cảm thấy như bị nhấn chìm trong đại dương tăm tối nữa. Đọc và viết
dễ dàng hơn và với sinh lực dồi dào, Eragon có thể niệm những lừoi chú của
thần tiên - những câu chú đòi hỏi nội công thâm hậu, có thể gây tử vong cho bất
cứ một người bình thường nào. Với nguồn nội công dồi dào đó, sư phụ nó suy yếu
đến nhường nào.
Nhưng tuy đạt được những thành quả tiến bộ như vậy, trong lòng Eragon vẫn
không vui. Dù cố gắng hết sức để quên Arya, nhưng mỗi ngày nỗi nhớ nhưng buồn
khổ chỉ tăng hơn, vì biết rằng cô không muốn gặp gỡ hay chuyện trò với nó. Hơn
nữa, Eragon cảm thấy, dường như bão tố hung hãn đang quần tụ cuối trời, một
trận cuồng phong hăm dọa nổi lên bất cứ lúc nào, phá hủy tất cả trên đường
giông tố quét qua.
Saphira chia sẻ nỗi bất an của nó: “Eragon, thế giới này mong manh lắm. Những
gì anh cảm thấy, cũng là những gì thần tiên và loài rồng chúng em cảm thấy.
Bước chân của định mệnh khắt khe không thể nào ngăn cản được. Hãy khóc cho
những người sẽ chết trong cơn hỗn loạn tàn phá Alagaesia. Và hãy hy vọng
chúng ta sẽ đạt được một tương lai rực rỡ bằng lưỡi kiếm và cây khiên của anh,
bằng nanh nhọn và móng vuốt của em.”
Những hình ảnh xa gần
Rạng sáng, Eragon tới khoảng trống
giữa lùm cây, bên ngoài lều sư phụ. Nó ngồi lên thân cây trên mặt đất phủ đầy
rêu, không chỉ nhập tâm trí vào chim chóc, muông thú, côn trùng, mà cả cây cỏ
trong rừng. Tri thức của cây cối khác với loài vật: chậm rãi, thận trọng, nhưng
bằng một cách riêng chúng cũng ý thức với những gì chung quanh như Eragon.
Nhịp đập ý thức của cây tỏa sáng như những vì sao xoay tròn trong trí Eragon.
Mỗi đốm sáng là một sự sống. Kể cả đá vô tri cũng tràn ngập những cơ thể sinh
vật; đất đai cũng sống động và có khả năng cảm thụ.
Eragon thầm kết luận: “Đời sống thông minh tồn tại khắp nơi.”
Khi Eragon chìm đắm trong tư tưởng và cảm xúc của những cá thể chung quanh, nó
đạt tới trạng thái sâu thẳm của sự an nhiên tự tại. Suốt thời gian đó, nó
không còn là một thực thể, chỉ là một khoảng không lưu giữ những âm thanh của
thế giới. Không điều gì lọt khỏi sự quan tâm của nó, vì nó không tập trung quan
tâm đến một điều gì. Nó là rừng và là những cư dân của rừng.
Khi trở lại là chính mình, Eragon phân vân: “Cảm giác này có phải của thần
linh không?”
Ra khỏi khoảng trống, Eragon vào lều quỳ gối trước Oromis:
- Thưa sư phụ, con đã làm theo lời thầy dạy. Con lắng nghe tới khi không còn
nghe gì nữa.
Oromis ngừng viết, trầm ngâm nhìn Eragon:
- Hãy kể thầy nghe.
Suốt hơn một giờ, giọng Eragon sôi nổi dần, thuật lại từng chi tiết về cỏ cây,
loài vật sống trong khoảng đất trống cho đến khi sư phụ nó giơ cao tay, nói:
- Ta biết là con đã nghe tất cả những gì nghe được tại đó. Nhưng con có hiểu
tất cả những điều đó không?
- Thưa… không.
- Không sao. Sự hiểu biết sẽ đến cùng năm tháng… Khá lắm, Eragon. Nếu con là
đệ tử của ta từ thời ta còn ở Ilirea, trước khi Galbatorix có quyền lực, hẳn
con đã vượt trội hơn các bạn đồng môn, đứng chung hàng ngũ với các kỵ sĩ đại
tiền bối rồi.
- Cho ta mượn vai con nào, Eragon. Giúp ta ra ngoài, tứ chi ta rã rời cả rồi.
Eragon vội dìu thân hình mảnh khảnh của vị lão tiên ra bờ con suối nghỉ.
Oromis nói:
- Bây giờ con đã đạt tới trình độ để thầy có thể truyền cho con một trong những
bí kíp kỳ bí nhất của phép thuật. Một bí kíp thậm chí đến cả Galbatorix cũng
chưa chắc đã biết. Đây là hy vọng lớn nhất để con so tài với lão.
- Ý thầy là còn có… công lực đến từ một nguồn khác nữa?
- Điều đó chính xác với những gì đã xảy ra mỗi khi Saphira trợ lực cho con.
- Đúng là nó từng truyền công lực cho con, nhưng nó và con có mối liên quan đặc
biệt. Sự ràng buộc giữa con và Saphira là lý do con có thể thu nhận nội lực
của nó. Còn đối với kẻ khác thì…
- Con có thể xâm nhập vào ý thức một cá thể - hoặc nhiều cá thể. Như hôm nay
con đã chứng tỏ có thể làm được điều đó, kể cả với những sự sống nhỏ nhoi nhất.
Bây giờ…
Đặt một tay chặn ngực, ông ho sù sụ rồi nói tiếp:
- Bây giờ ta muốn con rút từ suối lên một quả cầu nước, chỉ sử dụng năng lực
con có thể thu thập từ khu rừng quanh chúng ta.
Khi Eragon xâm nhập vào cây cối, loài vật chung quanh, nó cảm thấy tâm tưởng
sư phụ lướt nhẹ trong tâm tưởng nó. Vị lão tiên đang kiểm soát và ước lượng sự
tiến bộ của Eragon. Eragon nhíu mày tập trung, cố tăng cường năng lực cần
thiết rút từ chung quanh, cho đến khi sẵn sàng phóng phép thuật… Nhưng:
- Eragon, đừng thu hút nội lực của thầy. Thầy quá yếu, không chịu nổi đâu.
Giật mình, Eragon nhận ra nó đang thu hút cả nội lực của sư phụ.
- Con xin lỗi.
Thận trọng tránh làm sư phụ cạn kiệt sinh khí, Eragon bật kêu:
- Bay lên!
Êm như ru, một quả cầu nước đường kính chừng ba tấc cất mình khỏi mặt suối,
bồng bềnh ngang tầm mắt Eragon, trong khi nó nhận thấy sự nỗ lực căng thẳng
tạo ra thành quả đó dường như không làm nó mệt mỏi vì mất sức.
Nhưng quả cầu nước chỉ mới tụ được mấy giây trên không, một làn sóng chết chóc
tràn lan qua những sinh vật nhỏ bé mà Eragon đang xâm nhập vào chúng. Một bầy
kiến bật ngửa mình bất động, một con chuột con há hốc mồm giãy chết, vô số cây
cối rũ rượi, vỡ tan từng mảnh.
Eragon giật mình khiếp đảm vì những gì mình đã gây ra. Mới được biết thế nào
là tôn trọng sự sống thiêng liêng bất khả xâm phạm, nó cảm thấy hành động của
mình quả là một tội lỗi xấu xa ghê tởm. Tệ hại hơn, trong lúc đang kết nối thân
tình với những cá thể đó, bỗng chúng mất sự sống, Eragon cảm thấy như chính nó
đang tự trải qua cái chết nhiều lần.
Thu hồi phép thuật - mặc quả cầu vỡ tung trên mặt đất – Eragon quay phắt lại
gào lên:
- Sư phụ đã biết trước cơ sự này mà, phải không?
Mặt vị lão tiên tràn đầy thương xót:
- Nhưng đó là một sự cần thiết.
- Sự cần thiết là gây ra bao nhiêu chết chóc như vậy sao?
- Cần thiết để con hiểu cái giá khủng khiếpkhi sử dụng loại bùa chú này. Chỉ
nói suông không thể chuyển tải cảm xúc của những kẻ bị con gây ra cái chết cho
họ. Chính con phải tự trải qua kinh nghiệm đó.
- Con thề không bao giờ tái phạm.
- Không phải thề. Nếu được rèn luyện, con có thể chỉ thu hút năng lực của cây
cối, loài vật có khả năng chịu đựng được sự mất mát như thế. Đó là điều khó
thực hiện khi lâm trận, nhưng trong thời gian học tập, con có thể áp dụng
được.
Ra dấu cho Eragon dìu ông trở vào lều, Oromis nói tiếp:
- Bây giờ chắc con đã hiểu vì sao phương pháp này không được dạy cho những đệ
tử mới nhập môn. Nếu để một kẻ tính khí độc ác biết được, kẻ đó sẽ gây ra vô
vàn tang thương đổ nát.
Vào lều, Oromis thở dài ngồi xuống ghế. Eragon ngồi bên sư phụ, hỏi:
- Nếu có thể thu hút năng lực từ… sự sống, thì cũng có thể thu hút năng lực
trực tiếp từ ánh sáng, lửa hay bất cứ sự vật nào khác có chứa năng lực được
không ạ?
- Ôi, Eragon, nếu được thì chúng ta đã diệt được Galbatorix dễ dàng rồi.
Chúng ta có thể trao đổi năng lực với những sinh vật khác, có thể sử dụng năng
lực để di chuyển, và có thể tồn trữ năng lực trong một vài vật thể để sử dụng
khi cần, nhưng không thể hấp thụ những sức mạnh cơ bản của thiên nhiên. Suy
luận thì có vẻ được, nhưng chưa có ai tìm ra được một câu thần chú có thể làm
nổi chuyện đó.
Chín ngày sau, Eragon tới gặp sư phụ và nói:
- Thưa thầy, đêm qua con chợt thắc mắc một điều: cả thầy và hàng mấy trăm trang
giấy của thần tiên con đã đọc, đều không nhắc gì tới tôn giáo của thần tiên?
Đức tin của thần tiên là gì?
Oromis thở dài trước khi trả lời:
- Chúng ta tin thế giới vận hành theo một quy luật bất khả xâm phạm. Bằng nỗ
lực không ngừng, chúng ta có thể khám phá ra những quy luật đó và sử dụng chúng
mà dự đoán những sự cố khi có những trường hợp lặp lại.
Eragon chớp mắt. Những lời nói đó chẳng làm sáng tỏ thêm điều nó muốn biết
chút nào:
- Nhưng thần tiên thờ kính ai hoặc cái gì chứ?
- Không có gì hết.
- Thần tiên tôn thờ khái niệm hư không?
- Không đâu, Eragon. Chúng ta không tôn thờ gì hết.
Tư tưởng đó thật xa lạ với Eragon. Dân làng Carvahall dù thiếu niềm tin vào
một giáo điều độc nhất, nhưng họ cũng có niềm tin riêng, có những mê tín dị
đoan, chủ yếu là tránh sự xui xẻo. Trong thời gian học tập tại đây, Eragon đã
bắt đầu nhận thức những hiện tượng mà dân làng tin là do sức mạnh siêu nhiên,
thật ra chỉ là những quy trình tất yếu của thiên nhiên. Như những con dòi nở ra
từ trứng ruồi, chứ không sinh ra từ đất như nó vẫn tưởng. Nó cũng không còn từ
chối món ăn do ma quỷ quậy thành sữa chua, khi biết sữa chua thật sự là do
những sinh vật li ti trong sữa tạo thành. Tuy vậy, nó vẫn tin có những sức mạnh
từ thế giới khác chi phối cõi trần này. Eragon hỏi sư phụ:
- Vậy thì sư phụ tin thế giới này từ đâu mà có, nếu không phải do thần linh đã
tạo dựng lên?
- Thần linh nào, Eragon?
- Thần linh của loài người chúng con, của người lùn và của… thần tiên.
- Ta không đồng ý với con. Nhưng cứ coi như con có lý, vì ta không thể chứng
minh thần linh không có thật. Ta cũng không thể chứng minh thế giới này được
tạo ra bởi một thực thể, hay nhiều thực thể, từ thuở xa xưa. Tuy nhiên ta có
thể cho con biết, trong nhiều thiên niên kỷ, thần tiên đã nghiên cứu thiên
nhiên, chúng ta chưa bao giờ chứng kiến những qui luật vận hành thế giới có sự
gián đoạn. Điều đó có nghĩa là chúng ta chưa hề thấy một phép lạ nào. Nhiều sự
kiện thách thức khả năng chứng minh của chúng ta, nhưng chúng ta tin rằng,
chúng ta thất bại chỉ vì vẫn còn quá ngu dốt, chưa hiểu hết về vũ trụ này, chứ
không vì một thần nào làm thay đổi vận hành thiên nhiên.
- Thượng đế vận hành thiên nhiên theo ý ngài. Ngài làm điều đó trong hệ thống
những gì đã tồn tại rồi… Thượng đế có thể sử dụng phép màu để tạo ra những sự
kiện…
Oromis mỉm cười:
- Rất đúng. Nhưng con hãy tự hỏi: nếu thượng đế, thần linh có thật, họ có phải
là những vị thần hộ mệnh tốt đối với đất nước Alagaesia của con không? Chết
chóc, bệnh tật, đói nghèo, bạo ngược, chuyên chế và vô vàn đau khổ khắp nơi.
Nếu đó là những tác phẩm của thần linh, thì họ đáng bị lật đổ, chứ không phải
để phục tùng, sùng bái, thờ phụng.
- Người lùn tin…
- Chính xác. Người lùn có đức tin. Khi phải xác định một vấn đề gì, người lùn
dựa vào đức tin hơn vào lý luận, chứng minh cụ thể, nếu sự thật đó đi ngược với
giáo điều của họ.
- Chẳng hạn như chuyện gì, thưa thầy?
- Các nhà tu hành của người lùn dùng san hô để chứng minh đá có sự sống và có
thể tăng trưởng. Điều đó khẳng định cho truyền thuyết Helzvog tạo ra dòng giống
người lùn từ đó. Nhưng thần tiên chúng ta đã phát hiện ra san hô thật sự là lớp
vỏ ngoài, tạo ra bởi một làoi sinh vật nhỏ li ti sống trong san hô. Bất cứ một
pháp sư nào, nếu khai tâm mở trí, đều có thể thấy những sinh vật đó. Chúng ta
đã cắt nghĩa điều này cho người lùn, nhưng họ không thèm nghe. Họ lý luận,
trong tất cả các loại đá đều có những sinh vật mà chúng ta đã phát hiện, mặc dù
chỉ những nhà tu hành của họ mới có khả năng nhận ra sự sống trong đá mà thôi.
Nhìn qua cửa sổ, Eragon lặng lẽ ngẫm nghĩ những lời của sư phụ, một lúc lâu
sau nó mới lại lên tiếng:
- Như vậy là thầy không tin vào một kiếp sau?
- Từ những gì Glaedr đã nói, hẳn con đã biết rồi chứ.
- Thầy không tin tưởng vào thần linh?
- Ta chỉ tin tưởng vào những gì chúng ta có thể chứng minh là có thật. Vì không
tìm ra một bằng chứng nào là thượng đế, thần linh, và những điều huyền hoặc là
có thật, nên chúng ta không còn bận tâm đến chuyện này nữa. Nếu Helzvog hiển
hiện cho chúng ta thấy, lúc đó chúng ta sẽ tin và thay đổi quan niệm của mình.
- Hình như… nếu không có gì khác nữa thì thế giới này lạnh lẽo quá.
- Trái lại, thế giới sẽ tốt lành hơn. Một nơi mà chúng ta phải có trách nhiệm
với hành động của chính mình, nơi chúng ta đối xử nhân ái với nhau thật lòng,
vì đó là những điều đúng mà chúng ta tự nguyện làm, chứ không làm vì sợ hãi sự
trừng phạt của quỷ thần. Thầy không bảo con phải tin theo điều nào. Eragon,
tốt hơn hết là hãy học suy luận, rồi tự quyết định, đừng để bị lung lạc, áp đặt
bởi những quan niệm của người khác. Vì con hỏi thầy về vấn đề tín ngưỡng, thầy
đã nói thật lòng với con. Tự con phải quyết định.
Mấy ngày sau, buổi chuyện trò đó vẫn còn làm Eragon bối rối đến nỗi không thể
tập trung vào việc học tập được nữa. Kể cả khi sư phụ bắt đầu giảng giải về một
đề tài nó say mê nhất: ca hát cho cây cối phát triển theo ý mình.
Eragon nhận thấy càng hiểu biết thêm càng nhiều nghi hoặc. Về căn bản, rất
nhiều điều nó đồng ý với sư phụ. Nhưng vấn đề là, nếu thần tiên đúng, thì có
nghĩa là hầu hết loài người và người lùn đề đã lầm đường? Eragon khó lòng chấp
nhận chuyện này. Nó lý luận: “Chẳng lẽ quá nhiều người sai lầm đến thế sao?”
Khi đem vấn đề ra hỏi ý Saphira. Cô ả tỉnh bơ nói: “Em chẳng quan tâm đến
chuyện này. Rồng không hề tin vào một quyền lực cao hơn. Vì sao chúng em phải
tin vào chyện đó, khi muông thú coi chúng em như quyền lực tối thượng rồi? (Eragon
cười sằng sặc vì mấy câu này) Chỉ một điều anh cần nhớ, đừng làm ngơ trước thực
tế để tự an ủi mình. Vì nếu làm thế, anh chỉ tổ bị kẻ khác phỉnh phờ, lừa gạt
mà thôi.”
Đêm đó, Eragon trằn trọc, vùng vẫy trong những giấc mơ tỉnh. Những giấc mơ dữ
dội như một con gấu bị thương vùng vẫy, xé rời những hình ảnh khác nhau khỏi
tâm trí nó, rồi trộn vào nhau thành một mớ hỗn độn ồn ào. Nó cảm thấy như bị
đưa về lại trận chiến dưới lòng thành Farthen Dur. Nó nhìn thấy cậu Garrow
nằm chết trong nhà chú Horst, đến xác ông Brom lạnh lẽo trong nấm mồ đó cô
quạnh, rồi khuôn mặt bà lang phù thủy Angela đang thì thầm: “Thận trọng, Bàn-tay-bạc. Sự phản bội hiển hiện rõ ràng đây. Sự phản bội từ ngay
trong ruột thịt. Hãy thận trong, Bàn-tay-bạc.”
Rồi bầu trời đỏ rực tan tác thành từng mảnh và một lần nữa Eragon lại đang
đứng quan sát hai đoàn quân trong rặng nói Beor. Hai cánh quân quần thảo nhau
trên cánh đồng nhuộm sắc vàng trong tiếng kêu the thảm của những con quạ đẫm
máu và tiếng rít trong gió của những mũi tên đen. Mặt đất như bùng cháy: từ
những hố rải rác, phun lên những ngọn lửa xanh lè, đốt thành than những thân
thể không còn nguyên vẹn. Nó nghe tiếng gầm của một quái vật khổng lồ từ trên
không…
Eragon vùng ngồi dậy, sờ lên sợi dây chuyền đang nóng bỏng trên cổ. Bọc tay
bằng một cái áo, nó kéo dây chuyền cách xa làn da, rồi ngồi nghe ngóng trong
bóng tối. Trống ngực đập liên hồi vì kinh ngạc, Eragon cảm thấy sức lực đang
cạn dần, vì sợi dây yểm bùa của người lùn đang dùng sức của chính Eragon, để
bảo vệ khỏi một kẻ nào đó đang cố gắng thu hình nó và Saphira. Một lần nữa, Eragon
tự hỏi, phải chăng chính Galbatorix đang sử dụng phép thuật hay một trong
những pháp sư trung thành của lão?
Thấy mặt dây hình cái búa đã mát lại, Eragon buông tay. Biết không thể nào ngủ
được, Eragon rón rén bước qua Saphira, lên cầu thang cuốn, vào phòng học. Nó
mở chụp một ngọn đèn, đọc bộ anh hùng ca của Analissia cho tới sáng.
Eragon vừa buông bộ sách, Blagden bay vù qua một lỗ hổng trên tường, đậu lên
góc bàn. Con quạ trắng lom lom nhìn Eragon bằng hai mắt tròn xoe sáng rực, rít
lên: “Wyrda!”
Mon men tiến lại gần hơn, con quạ ho sù sụ như dọn giọng, rồi ồ ề ngâm nga:
Với mỏ và xương
Với hòn đá đen
Nhìn kẻ phản phúc
Nhìn đứa bội thề
Và dòng suối máu
Eragon hỏi:
- Mấy câu đó có nghĩa là gì?
Con quạ ngúng ngoẩy lập đi lập lại cho đến khi Eragon năn nỉ, nó mới vừa rỉa
lông vừa càu nhàu:
- Cha con giống nhau, đều mù tịt như dơi.
Eragon ngồi thẳng dậy, kêu lên:
- Khoan. Mi có biết cha ta không? Ông ấy là ai?
Lần này con quạ khùng khục trong họng như cười:
Hai có thể chia hai
Một phần hai là một
Nhưng,
Một rất có thể là hai.
- Một cái tên, Blagden. Nói đi, cho ta biết một cái tên.
Con quạ im thin thít. Eragon phóng tâm tưởng, định lấy thông tin từ trí nhớ
con chim. Nhưng quạ trắng rất mưu mẹo, đánh lạc hướng ngay. Kêu lên một tiếng
“Wyrda!”, Blagden quắp vội nắp bình mực thủy tinh, rồi bay vụt đi cùng chiến
lợi phẩm vừa thu được.
Ruột Eragon quặn thắt khi cố giải mã mấy câu đố của con quạ trắng. Điều cuối
cùng nó ước mong được nghe nhắc tợi tại Hoàng Cung Ellesméra: Tên của người cha
nó chưa hề biết là ai. Sau cùng Eragon chỉ còn biết tự nhủ: “Mình sẽ tìm Blagden,
truy bằng được sự thật. Nhưng lúc này mình phải đủ sáng suốt để quên đi những
điềm gở đêm qua.”
Chạy xuống thang, nó đánh thức Saphira dậy và kể lại những gì đã thấy trong
đêm. Lấy cái gương từ phòng tắm, Eragon ngồi giữa hai chân trước Saphira để
con rồng cũng có thể thấy những gì sẽ hiện trong gương. Saphira cảnh cáo:
“Arya không thích chúng ta xâm nhập vào cõi riêng tư của cô ta đâu.”
“Nhưng anh cần biết Arya có được an toàn không.”
“Anh tìm cô ta bằng cách nào? Anh chẳng bảo Arya đã tự phong tỏa là gì? Cô ta
ngăn chặn tất cả những kẻ nào có ý định thu hình ảnh của mình, cũng giống như
sợi dây chuyền yểm bùa của anh vậy.”
“Nếu thu được hình những người Arya giao dịch, anh có thể đoán ra tình trạng
của cô ấy.”
Tập trung tư tưởng vào hình ảnh Nasuada, Eragon đặt bàn tay lên gương, lẩm
bẩm: “Hiện lên đi.”
Mặt gương tỏa sáng rồi chuyển sang màu trắng. Trên nền trắng đó, chín người
đang quây quần bên một cái bàn vô hình. Trong số họ, Eragon chỉ nhận ra Nasuada
và Hội-Đồng Tiền-Bối, còn một đứa con gái lạ mặt lẩn lút sau lưng Nasuada, nó
không biết là ai. Điều này làm Eragon bối rối, vì phép thu hình này chỉ cho
phép nhìn thấy những gì đã từng thấy một lần. Nhưng con nhỏ này, chắc chắn Eragon
chưa từng nhìn thấy bao giờ. Nó tạm quên thắc mắc về con bé xa lạ, vì thấy
những người trong gương, kể cả Nasuada, đều trang bị vũ khí.
Saphira đề nghị: “Thử nghe họ đang nói gì.”
Eragon vừa niệm chú để nghe âm thanh, tiếng Nasuada phát ra ngay từ tấm
gương:
- … và do dự sẽ hủy hoại chúng ta. Chiến binh của chúng tôi có khả năng, nhưng
phải tìm ra một cấp chỉ huy xứng đáng. Xin đức vua quyết định ngay đi.
Eragon nghe một tiếng thở dài thườn thượt trước khi nói:
- Tùy công nương quyết định. Đó là nhiệm vụ của cô.
- Nhưng, thưa bệ hạ, cô ta chưa có kinh nghiệm!
- Đủ rồi, Irwin. Cô ta có nhiều kinh nghiệm chiến tranh hơn bất cứ ai ở Surda
này. Và đừng quên, Varden là lực lượng duy nhất đã đánh tan tác một cánh quân
của Galbatorix. Nasuada là một vị tướng của Surda, kể ra cũng là chuyện
lạ, nhưng trẫm thành thật khuyên khanh, đừng ngần ngại bầu cho cô ta vào địa vị
đó. Nếu các quan trong điều có ai phản đối, trẫm rất vui lòng trả lời thắc mắc
của họ. Nào, bản báo cáo lương thực đâu rồi… A, cảm ơn Arya. Hơn ba ngày không
có…
Cuộc thảo luận quay sang vấn đề thiếu hụt cung tên, Eragon thấy không cần
thiết, vì vậy nó thu hồi phép thuật. Mặt gương trong trở lại, chỉ còn hình ảnh
chính nó trong gương.
Eragon lẩm bẩm: “Nàng còn sống.”
“Họ đang cần chúng ta.”
“Hừ, chắc chắn sư phụ đã biết chuyện này, sao không hề nói gì với chúng ta?”
“Có lẽ vì sư phụ không muốn làm gián đoạn việc học tập của chúng ta.”
Eragon băn khoăn không biết còn những gì đang xảy ra tại Alagaesia mà nó
không được biết. Roran! Nó chợt cảm thấy như có tội, vì suốt mấy tuần qua nó
đã không nghĩ gì tới người anh họ.
Eragon lại niệm chú, và trên nền trong vắt của mặt gương hiện lên hai người.
Phải mất một lúc lâu, Eragon mới nhận ra người bên phải là Roran. Anh mặc bộ
quần áo đi đường rách nát, cây búa đeo bên hông, mặt hốc hác phủ bộ râu rậm rì,
lộ vẻ đầy tuyệt vọng. Bên trái là Jeod. Hai người đi tới đi lui, trong khi
những đợt sóng ầm ầm át hết tiếng nói của họ. Một lát sau, Roran quay lại,
bước dọc theo một mặt phẳng là Eragon đoán là sàn của một con tàu. Anh ta tiến
gần lại chỗ mấy chục dân làng.
Eragon bàng hoàng hỏi: "Họ đang ở đâu thế này? Tại sao lại có cả ông Jeod
ở đây với họ?"
Chuyển hướng phép thuật, Eragon lần lượt lướt qua thành Teirm - giật mình
trước cảnh đổ nát của bến cảng -, Therinsford, trang trại cũ của cậu Garrow,
rồi tới làng Carvahall. Eragon rú lên đau đớn.
Làng xưa đã không còn nữa.
Tất cả những ngôi nhà, cả ngôi nhà tuyệt đẹp trên đồi của chú Horst, đều bị
thiêu đốt hết. Carvahall không còn lại gì ngoài những đám tro tàn bên dòng
sông Anora. Cư dân duy nhất còn sống sót là mấy con sói xám lang thang qua
đống đổ nát.
Chiếc gương trong tay Eragon rơi xuống mặt sàn, vỡ tan tành. Nó dựa vào Saphira,
nước mắt đầm đìa, đau đớn vì lại một lần nữa mất quê hương. Saphira rên từ
lồng ngực, dụi mõm vào cánh tay Eragon an ủi: "Can đảm lên anh. Ít ra vẫn
còn người thân bạn bè của anh sống sót."
Eragon rùng mình, cảm thấy như có một tảng đá đè trên bụng: "Chúng ta
sống cách biệt với thế giới bên ngoài quá lâu rồi. Đã tới lúc phải rời khỏiEllesmérađể
đương đầu cùng định mệnh, dù chuyện gì có xảy ra. Lúc này anh Roran có thể tự
lo… nhưng còn Varden… chúng ta phải giúp họ."
"Đã tới thời điểm chứ?"
Giọng Saphira nghiêm túc lạ lùng.
Eragon biết cô em rồng định nói gì: đã tới thời điểm thách thức trực tiếp với
triều đình chưa? Tới thời điểm tung hoành chém giết bằng hết khả năng chưa? Tới
thời điểm bùng nổ hết căm hờn, phẫn nộ cho đến khi bạo chúa Galbatorix gục
chết dưới chân chưa? Đã tới thời điểm tự ràng buộc vào một cuộc chiến có thể
kéo dài mấy chục năm chưa?"
Thời điểm đó đã tới rồi.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT