"Kongpo là một tỉnh ở miền Nam
Tây Tạng mà dân vùng đó có tiếng là chỉ có tín tâm, không mấy người có trình độ
hiểu biết.Trong số các tu viện Tây Tạng thì "Jokhang" tại Lhasa là
thiêng thiêng hơn cả. Trong đền có một tượng Phật rất xưa, trình bày Phật
Cồ-đàm hồi còn niên thiếu và được mang tên là Jowo [1]Rinpoche (Đức hạnh cao
quí). Tượng Phật này được mang từ Trung quốc qua Tây Tạng cả ngàn năm trước và
là phẩm vật của một công chúa lấy một nhà vua Tây Tạng thời đó.
[1] - Có nơi ghi là "Jobo". Từ Tây Tạng phiên
âm ra tiếng la-tinh thường thường mỗi nơi mỗi khác
Ben, một thanh niên vùng quê Kongpo,
suốt đời mơ ước được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của đền Jokhang và của tượng Phật
thiêng thiêng nhất Tây Tạng. Một ngày kia, Ben đượÏc lên đường đi Lhasa để tận mắt được
chiêm bái thánh địa này.
Sau một chuyến đi khổ nhọc, cuối
cùng Ben đến kinh đô Lhasa, đi như người bị hớp hồn trong các con đường của
"thành phố chư thiên" này...Nhìn thấy điện Potala, Ben thật xúc động,
đó là nơi mà đức Quán Thế Âm đang hiện tiền dưới dạng của vị Đạt-lai lạt-ma.
Đáng xem thay, dòng người vô tận đang đi vòng xung quanh điện Potala! Thật là
tuyệt vời, vẻ đẹp của điện Norbu Lingka, cung điện mùa hè của vị nguyên thủ
quốc gia, với bao nhiêu chạm trổ và các bảo tháp đầy tính nghệ thuật. Cũng
không được bỏ qua các tu viện đáng quí trọng nhất như Sera và Drepung, nơi đào
tạo tăng sĩ.
Ben nhủ thầm: "May mắn thay cho
ta, đời ta còn có thể thấy được những nơi này". Sau đó Ben vào đền Jokhang
và kìa, tượng Jowo Rinpoche trong thế ngồi liên hoa, to như người thật và toát
ra một cảm giác tôn quí thầm lặng mà vĩ đại. Ben quì lạy trước bức tượng ba
lần, nhưng lần nào cũng hầu như mắc kẹt với đôi ủng cũ kỹ và chiếc mũ đầy bụi
của Ben cứ rơi xuống đất.
Ben cởi ủng, cầm mũ, đặt lên lòng
bức tương đang mỉm cười yên lặng và nói: "Hỡi Jowo Rinpoche, hãy coi chừng
dùm các thứ này để cho con yên tâm tiếp tục chiêm bái". Ben đi chân không
vòng quanh bức tượng vàng, vui thích ngắm hàng chục ánh đèn dầu trên bục tượng
và đủ các loại bánh trái để bên cạnh. Ben cám ơn đức Phật toàn trí và dưới lòng
từ bi tỏa sáng của Jowo Rinpoche, Ben mạnh dạn lấy bánh, nhúng vào dầu thắp đèn
và ăn ngon lành. Đáp lại lòng từ bi của Phật, Ben hứa thành tiếng sẽ đón Phật
bất cứ lúc nào tại Kongpo. Vì làm nghề mổ heo, Ben hứa sẽ mổ con heo mập mạp
nhất, cho đủ thứ gia vị để chiêu đãi Phật. Ben đâu biết rằng đạo Phật chủ
trương không giết hại loài vật và hoàn toàn tin rằng lời mời của mình sẽ được
Phật nhận lời.
Ngay lúc đó thì cửa mở toang, vị sư
già giữ đền bước vào. Vị sư đứng sững người nhìn đôi ủng dơ bẩn và chiếc mũ
rách nát trên lòng đức Phật và nhìn thấy bột bánh đang dính vào râu của Ben.Vị
sư giận giữ chụp đôi ủng và chiếc mũ trên lòng tượng Phật, bỗng một tiếng nói
huyền bí cất lên: "Dừng tay, các thứ này của đứa học trò yêu quí của ta xứ
Kongpo!".Vị sư run bắn người, đi lui mười bước. Ông nằm dài xuống đất và
xin tượng tha thứ sơ suất của mình. Sau đó ông rút lui, để Ben ở lại một mình
trong phòng, để cho chàng thanh niên này tiếp tục nói chuyện theo cách riêng
của anh ta với vị "Đức hạnh cao quí".
Sau đó Ben về lại với gia đình tại
Kongpo, nhưng tin đồn bức tượng nói chuyện với chàng đã về đến trước. Khi có ai
hỏi gì về tin đồn đó, Ben chỉ nói lơ: "Ôi, thời buổi này chẳng biết tin
nào đúng tin nào sai". Người ta kể thêm rằng, bức tượng quả nhiên đã nhận
lời mời của chàng Ben thật thà và hiện ra trước mắt chàng trong một dòng suối
gần nhà. Ben thò tay vào nước vớt tượng lên và mang bức tượng đi được một vài
bước, nhưng cuối cùng vì tượng nặng quá nên Ben để Phật rơi xuống đất. Tượng
chìm xuống đất cả thước và mọi người đều có thể chiêm ngưỡng bức tượng đó.Đến
ngày hôm nay, dân làng Kongpo vẫn còn đi vòng quanh hố đất với dấu tích của
Jowo đang mỉm cười và lạy tượng bằng cách cúi đầu sát đất. Đền Jokhang ở kinh
đô Lhasa có thể rất xa nhưng người biết chuyện tin rằng vị "Đức hạnh cao
quí" thì ở rất gần họ" [2].
[2]
- Trích "The snow lions turquoise mane" của Surya Das, bản dịch
"Sư tử tuyết bờm xanh" của tác giả, Nhà xuất bản Tp Hồ Chí Minh,
1999.
Khi dịch câu chuyện này, lòng tôi
xúc động vì một lẽ: ai cũng có thể đến với đức Phật cả, đạo Phật không có lệ
tuyển sinh. Chàng Ben có thể nhờ Phật coi chừng đôi ủng dơ bẩn và chiếc mũ đầy
bụi của mình, chàng vô tư mời Phật về nhà để chiêu đãi con heo mập mạp nhất.
Phật nhận lời và nghiêm túc giữ đồ cho chàng, vui vẻ nhận lời mời về thăm
chàng, trong lúc Ben không biết tí gì về đạo Phật, cả chủ trương cấm sát sinh
cũng không. Phật ra đời vì "nhân duyên lớn", để đến với thế gian, đến
với những người cần đến mình, không hề phân biệt ai hơn ai kém.
Ngài đến cuộc đời không chỉ vì
Xá-lợi-phất đại trí mà vì tất cả mọi ai còn bị vô minh vây phủ. Không có sự
chọn lọc ai mới được là đệ tử của Ngài, ai cũng có quyền xem Ngài là thầy cả,
ai cũng có quyền mời Ngài về nhà. Còn sự bình đẳng nào lớn hơn? Giáo pháp thâm
sâu của Phật thì không mấy ai hiểu ngộ, chỉ dành cho các vị đại thượng trí, còn
lòng từ bi của Ngài thì lan tỏa vô phân biệt như ánh mặt trời, đó là cảm nhận
của tôi.
Tôi tìm hiểu thêm về nội dung câu
chuyện hóm hỉnh này và khám phá thêm nhiều điều mới mẻ. Nhà vua Tây Tạng lấy
công chúa Trung Quốc được kể trong truyện là một vị vua tên là Tùng-tán
Cương-bố [3], ông trị vì khoảng từ 617 đến 649 sau công nguyên. Ông lên ngôi
năm 13 tuổi và chính là người kiến tạo kinh đô Lhasa. Các đời vua trước ông đóng đô ở lũng
Yarlung, trên bờ sông Tsangpo, cách Lhasa
khoảng 90km về hướng đông nam. Tùng-tán Cương-bố đã thiết lập nên một nước Tây
Tạng hùng mạnh, trải dài từ nam Mông Cổ đến chân Hy-mã lạp-sơn. Nhiều nhà Phật
học [4] so sánh Tùng-tán Cương-bố với A-dục-vương của Ấn Độ sống mười thế kỷ
trước đó.
[3]
- Tùng-tán-cương-bố. Có tài liệu cho rằng ông sinh cuối thế kỷ thứ 6 và mất năm
650, thọ 82 tuổi
[4]
- Xem Lịch sử Phật giáo thế giới của Thánh Nghiêm, Nhà xuất bản Hà Nội 1995
Đầu tiên nhà vua Tùng-tán Cương-bố
cầu hôn công chúa Nepal,
con vua Amsuvarman thời đó và được nhận lời. Nàng Bhrkuti lên đường đi Tây
Tạng, mang theo tượng Bất Động Như lai [5], đến xứ đầy tuyết lạnh vắng người,
trong đó chưa mấy ai biết đến đạo Phật. Bhrkuti được dân Tây Tạng yêu mến, được
gọi là Belsa hay Trisung, có nghĩa "bà hoàng Nepal". Sau Bhrkuti,
Tùng-tán Cương-bố lại cầu hôn một công chúa khác, đó là nàng con gái Văn Thành
của nhà vua Đường Thái Tông của Trung Quốc.
[5]
- Aksobhya
Đường Thái Tông vốn là nhà vua mộ
đạo lý, là kẻ đã tha tội vượt biên của Huyền Trang và hỗ trợ cho ông hoàn thành
công trình dịch kinh. Thái Tông gọi người Tây Tạng là "Thổ Phiên", chê
"man di", không chịu gả con, lấy cớ đã hứa gả công chúa cho nhà vua
nước Thổ Cốc Hồn [6]. Tùng-tán Cương-bố liền đánh đuổi Thổ Cốc Hồn, đem quân
đến tận Tùng Châu đe dọa Thái Tông. Ông cho người gửi đến cho Thái Tông một
phẩm vật đặc biệt, đó là một thứ vũ khí được dát bằng vàng, yêu cầu nhà vua
Trung Quốc "suy nghĩ lại".
[6]
- Tu-yu-hun, bộ lạc ở bắc Trung Quốc.
Cuối cùng Thái Tông đồng ý, cho Văn
Thành lên đường đi Tây Tạng, đó là năm 640. Vì việc này mà Trung Quốc rất ức
Tây Tạng, gọi biến cố đó là "Thổ Phiên nhập khấu" (Thổ Phiên vào
cướp). Văn Thành mang theo về nhà chồng một bức tượng "trình bày Phật
Cồ-đàm hồi còn niên thiếu", đó là một bức tượng của thái tử Tất-đạt-đa.
Văn Thành cũng được dân Tây Tạng yêu mến, được gọi là "bà hoàng Trung
Quốc".
Tùng-tán Cương-bố và hai nàng công
chúa không phải người thường. Nhà vua được xem là hiện thân của Quán Thế Âm,
đến Tây Tạng để tạo cơ duyên cho giáo pháp. Trong thế kỷ thứ bảy, lúc tại Trung
Quốc, Phật giáo ở trong thời đại hoàng kim vào đời nhà Đường thì triều đại của
Tùng-tán Cương-bố là kỷ nguyên mở đường cho giáo pháp vào Tây Tạng. Hai
"Bà hoàng" đều là hiện thân của nữ thần Tara, vị bồ-tát được dân Tây
Tạng tin tưởng. Tara được xem được sinh ra từ "nước mắt" của Quán Thế
Âm, nàng công chúa Nepal là nữ thần Tara sắc lục, Văn Thành của Trung Quốc là
vị Tara sắc trắng. Nhờ các tượng Phật của hai nàng công chúa mang đến mà các
ngôi đền được xây dựng, đó là cơ sở vững chắc đầu tiên của đạo Phật.
Dù Văn Thành là người thường hay
hiện thân của bồ tát, nàng đã mang lại cho Tây Tạng một báu vật còn được gìn
giữ đến ngày nay, đó là bức tượng Tất-đạt-đa. Bức tượng này chính là Jowo
Rinpoche (Đức hạnh cao quí), được thờ trong một ngôi đền tại Lhasa. Đền này mới đầu được gọi là Trülnang,
về sau mang tên Jokhang. Đó là ngôi đền và bức tượng được kể trong đầu chương
này.
Đền Jokhang ngày nay vẫn còn và ai
cũng được chiêm bái vị "Đức hạnh cao quí", người không phân biệt ai
là vị đại trí Xá-lợi-phất, ai là chàng Ben thật thà miền quê Kongpo, là người
nhận lời mời thọ thực của một ông đồ tể. Đức hạnh cao quí đã thể hiện thành tâm
vô phân biệt. Đó là lý do chính thôi thúc tôi tìm đường đến Lhasa Tây Tạng để
đảnh lễ Tất-đạt-đa.
TỔ TIÊN TÂY TẠNG
Nếu ngày trước Govinda hay
David-Néel đi Tây Tạng rất khổ nhọc thì ngày nay người ta đến xứ này tương đối
dễ dàng, nhất là thủ đô Lhasa.
Khách có thể từ Kathmandu, thủ đô Nepal, bay đi Lhasa, mỗi tuần hai
chuyến. Nhưng cách đi hay nhất là đến Thành Đôâ, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, từ đây
khách có thể dễ dàng đi thăm viếng Tây Tạng. Muốn đến Thành Đô ta có thể lấy
máy bay từ Bắc Kinh, Thượng Hải nhưng tiện nhất cho khách nước ngoài là từ
Bangkok. Ngày nay mỗi ngày có một chuyến bay Bangkok-Thành Đô bằng đường bay
South West Airlines của Trung Quốc, thời gian bay khoảng gần ba tiếng đồng hồ.
Thành Đô lại là kinh đô nước Thục ngày xưa, là nơi khách có thể tham quan Nga
Mi sơn, Lạc sơn, nên đến Thành Đô, khách có thể phối hợp nhiều lộ trình tham
quan hết sức thú vị [8].
[8]
- Xem chương "Nhân kiệt không đời nào thiếu" trong phần thứ ba
Từ Trung Quốc khách có thể đi Tây
Tạng nhưng phải có giấy phép đặc biệt. Vì thế hầu như tất cả mọi người đều phải
đi trong các tour do các văn phòng du lịch tổ chức. Thành Đô là nơi tập trung
khách đi Lhasa
vì từ đó mỗi ngày có một chuyến bay với South West Airlines. Từ Bắc Kinh, Trùng
Khánh cũng có chuyến bay đi Lhasa
nhưng mỗi tuần chỉ hai ba chuyến không đáng kể.
Từ Thành Đô đi Lhasa, tôi bay từ đông sang tây. Ra khỏi
Thành Đô không bao lâu một vùng núi non bát ngát đã xuất hiện, đó là lưng dựa
hiểm yếu của nước Thục ngày xưa. Vùng núi non thỉnh thoảng được cắt bởi những
hẻm sâu vực thẳm mà một trong những hẻm núi hiểm trở đó là thượng nguồn sông
Cửu Long. Ôi, đã có một ngày tôi được bay trên đầu nguồn Cửu Long. Từ Thành Đô
ta còn có một con đường bộ đi Lhasa.
Tuyệt diệu thay nếu đời tôi được đi con đường đó, con đường băng núi bạt ngàn
vượt qua vùng Đông Tây Tạng với những trang huyền sử. Con đường đó cũng dẫn đến
suối nguồn của Cửu Long Giang mà tôi mơ ước được một ngày nếm vị ngọt của nó.
Hôm nay tôi sẽ đến Lhasa, "thành phố của chư thiên",
nằm trên độ cao 3685m. Trên độ cao này không khí đã khá loãng, tôi chịu nổi
không? Tôi đã lên Zugspitze, đỉnh cao nhất nước Đức chưa đầy 3000m, đã đến Nga
Mi sơn cao khoảng 3100m. Thế thì Lhasa
phải là chỗ cao nhất xưa nay tôi chưa đến, độ cao của nó vượt hơn đỉnh Hoàng
Liên sơn của ta khoảng nửa cây số. Tây Tạng là một một xứ sở kỳ dị, lớn rộng
như Tây Âu, độ cao trung bình của nó khoảng 4500m. Dân của họ hết sức thưa
thớt, quen sống vùng rẻo cao, ít người xuống được bình nguyên. Nguồn gốc của họ
là từ đâu?
Thời kỳ xa xưa của Tây Tạng chìm sâu
trong bóng tối của lịch sử, như nhà Phật học người Ý Giuseppe Tucci [9] nói,
"không có bao nhiêu dữ liệu mà phải đoán mò từ những truyền thuyết tôn
giáo". Thế nhưng nhiều nhà địa chất và khảo cổ quả quyết rằng, đất Tây
Tạng ngày xưa vốn nằm dưới đáy biển! Cách đây khoảng 40 triệu năm, bán đảo Ấn
Độ di chuyển, va chạm vào lục địa châu Á mà đội lên thành Hy-mã lạp sơn và cao
nguyên Tây Tạng ngày nay. Vì thế mà ngày nay người ta vẫn còn tìm thấy nhiều
dấu vết của động vật sống dưới biển đã hóa thạch và nhiều hồ Tây Tạng là hồ
nước mặn.
[9]
- Xem thêm "Tibetan Buddism" của Sangharakshita, sách đã dẫn
Tổ tiên người Tây Tạng, theo lời của
chính họ, là một con khỉ! Con khỉ đó không phải tầm thường, nó là một hiện thân
của Quán Thế Âm, tìm đến một hang động lạnh lẽo trên núi cao để thiền định. Thế
nhưng gần đó có một nàng ma nữ, gặp khỉ nàng khóc lóc than thở về mối cô đơn
hiu quạnh của mình. Động lòng từ bi, khỉ chịu chung sống với ma nữ và sinh sáu
người con và đó là tổ tiên của dân tộc Tây Tạng. Ngày nay người Tây Tạng vẫn tự
thấy mình là sự tổng hợp của lòng từ bi dịu hiền của khỉ và sự lì lợm tham lam
của ma [10].
[10]
- Theo "The door of liberation" của Geshe Wangyal. Chuyện này được
Đạt-lai lạt-ma thứ 14 nhắc lại trong "The Dalai Lama at Harvard" của Hopkins
Tây Tạng có một số lượng dân cư hết
sức thưa thớt. Thủ đô Lhasa
ngày xưa, trước khi Trung Quốc xâm nhập năm 1959, chỉ có khoảng 30.000 dân.
Thành phố lớn thứ hai là Shigatse với khoảng 12.000 dân, thứ ba là Gyantse với
khoảng 8000 dân. Toàn bộ dân tộc Tây Tạng chỉ gồm khoảng 5-6 triệu dân. Có lẽ
không ai quan tâm đến dân tộc này và chỉ xem họ chỉ là một chủng tộc hoang sơ
sống trên rẻo cao nếu Tây Tạng không có một nền văn hóa độc đáo.
Trong nền văn hóa vô song đó đạo
Phật đóng một vai trò chủ đạo, nhưng đạo Phật tại đó cũng không còn là Phật
giáo Ấn Độ, cũng chẳng phải là Phật giáo Trung Quốc, mặc dù mối liên hệ với hai
vùng văn hóa đó hết sức mật thiết. Từ một xứ sở tưởng chừng như hoang sơ đó đã
sinh ra và phát triển thành một trường phái Phật giáo thâm sâu, vừa đầy tính lý
luận khúc chiết vừa đầy tính mật tông ảo diệu. Đến thời đại hiện nay Phật Giáo
Tây Tạng tương đối còn sức sống trong lúc Phật Giáo tại Ấn Độ và Trung Quốc đã
suy tàn.
Máy bay hạ dần độ cao, bay ngược
dòng một dòng sông có chiều dài tổng cộng khoảng 2900km. Bên trái dưới máy bay
là dòng sông Yarlung Tsangpo, một dòng sông anh em của Trường Giang, Hoàng Hà,
Cửu Long. Nguồn của nó là dưới chân Ngân Sơn, ở miền tây Tây Tạng. Đối với Tây
Tạng, Tsangpo cũng quan trọng như Trường Giang với Trung Quốc. Nó phát nguồn từ
một mạn-đà-la vĩ đại quanh Ngân Sơn [11], tên của nó có nghĩa "chảy từ hàm
ngựa", chảy từ đông qua tây, bọc quanh một ngọn núi tuyết cao trên 7700m
rồi thẳng đường phía nam, lúc này nó mang tên Brahmaputra, xuyên qua Bangladesh
chảy ra Ấn Độ dương.
[11]
- Xem chương "Con sông thiêng" trong phần thứ nhất
Tsangpo chính là nơi các nhà vua Tây
Tạng xây dựng cơ đồ. Theo truyền thuyết, một ngày nọ trong năm 313 trước công
nguyên, có một vương tử Ấn Độ thất thế phải chạy ngược lên Hy-mã lạp sơn. Đó là
thời kỳ hùng mạnh của triều đại Maurya tại Ấn Độ, có lẽ vị vương tử này vì thế
mà lánh nạn chăng. Vượt tuyết sơn đến Tây Tạng thì ông gặp dân chúng sống trong
hang động, họ hỏi ông từ đâu tới. Vì bất đồng ngôn ngữ ông đành chỉ tay lên
trời. Dân chúng tưởng ông từ trên trời giáng thế nên công kênh lên vai, tôn ông
làm vua. Đó là vị vua đầu tiên, Nyatri Tsenpo. Vị vương tử may mắn này đưa văn
minh Ấn Độ vào Tây Tạng, cho xây cất nhà cửa và đặt kinh đô bên dòng Tsanpo,
thung lũng Yarlung.
Khi Nyatri Tsenpo chết thì huyền sử
chép "theo một sợi dây mà lên trời"và sáu đời vua sau ông cũng theo
cách đó mà giã từ nhân thế. Thế nhưng đến đời vua thứ tám, Drigum Tsenpo thì
"dây dứt", nhà vua này được chôn tại Yarlung và từ đó về sau lăng mộ
các nhà vua Tây Tạng đều ở Yarlung cả, ngày nay vẫn còn. Đến đời thứ 23, lúc đó
là khoảng năm 371 sau công nguyên, thời nhà vua Totori Nyentsen, "trên
trời bỗng rơi xuống nóc điện nhà vua"kinh sách bằng tiếng Phạn không ai
đọc được. Trong một giấc mộng nhà vua được biết rằng, năm đời sau mới có vị vua
đọc và hiểu được kinh sách. Đó chính là vị Tùng-tán Cương-bố nói trong chương
trước.
Tùng-tán Cương-bố lên ngôi, nước Tây
Tạng hưng thịnh chưa từng có và cùng với hai nàng công chúa nước ngoài, ông
không những "đọc và hiểu" kinh sách tiếng Phạn mà còn xây đền tháp,
gửi người đi tu học ở Ấn Độ, dịch kinh sách. Căn cứ trên tư tưởng Phật Giáo,
nhà vua ban bố "Thập thiện" và "Thập lục yếu luật" để dân
chúng thi hành. Nhiều học giả cho rằng, kể từ đây nước Tây Tạng mới thoát khỏi
tình trạng hoang sơ man dã.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT