Võ Tắc Thiên tuy đã ngồi lên ngai vàng một cách thuận lợi, nhưng vẫn lo
các đại thần trong triều không phục nên cho đặt ở cổng thành một cái
"tráp đồng" và truyền lệnh bất kỳ ai cũng có thể mật báo, bỏ những bức
thư mật báo vào "tráp đồng", sau đó sẽ có người chuyên đến lấy ra và dựa vào đó để trừng phạt các quan đại thần có hành vi làm loạn hoặc không
phục bà ta. Nếu những bản mật tấu đó chính xác thì sẽ được phong quan.
Sách Nguyên Lễ người Hồ nhờ mật báo được phong chức Du kích tướng quân.
Thế là mọi người nhao nhao lên bắt chước. Thậm chí còn dựng chuyện kết
tội cho các quan lớn bé để được lên thẳng một mạch làm quan.
Trong số đó quan Thượng thư Chu Hưng là người nhạy bén, giảo hoạt nhất. Chẳng bao lâu sau đã làm đến chức Thu quan thị lang. Dưới tay ông ta còn
chuyên nuôi hàng trăm tên vô lại chuyên làm việc mật báo. Mỗi lần muốn
mưu hại một người nào đó thì lập tức khắp nơi đều có mật báo, do nội
dung giống nhau nên mọi người đều tin là thật. Ông ta còn dựa vào kinh
nghiệm nhiều năm đó tổng kết ra những bức thư mật báo khoảng 1000 chữ để làm tài liệu quý hiếm truyền dạy cho các đệ tử. Chu Hưng còn đề ra hàng loạt các hình phạt, các công cụ để trừng phạt rất khác người như
"phượng hoàng sái sí", "tiên nhân hiến quả", "ngọc nữ đăng thê"... Mỗi
lần xét hỏi phạm nhân, cứ một tiếng mõ vang lên là các hình cụ được bày
ra, phạm nhân chỉ mới nhìn thấy thì hồn vía đã lên mây, tội sống còn khổ hơn tội chết, không giống như tội vu khống mà ngược lại nếu được chết
càng nhanh thì càng đỡ phải chịu những hình phạt tàn khốc.
Không ngờ ông trời có mắt, việc mật báo và dùng hình đó cũng bị người khác
mật báo lại rằng bọn họ thông đồng với nhau mưu phản. Võ Tắc Thiên bèn
ra sắc chỉ cho Lai Tuấn Thần nhanh chóng đi điều tra.
Lai Tuấn
Thần thừa biết thủ đoạn của "lão đại". Muốn cho ông ta khai ra không
phải là chuyện dễ dàng. Vì vậy đã nghĩ ra một kế, mời Chu Hưng đến uống
rượu nói chuyện. Trong bữa tiệc, Lai Tuấn Thần hết lời khen ngợi Chu
Hưng, nói rằng ông ta là bậc cao thủ trong việc phá án. Sau đó thỉnh
giáo ông ta với một thái độ rất thành khẩn: "Hiện nay tôi đang gặp phải
một tên tù phạm rất giảo hoạt, mọi hình phạt đều đã được áp dụng vậy mà
hắn vẫn không chịu khai, không biết ông anh có kế gì hay thì chỉ giáo
cho tôi?". Chu Hưng đang dương dương tự đắc lại có men rượu thêm vào nên chẳng nghĩ ngợi gì nói với Lai Tuấn Thần: "Việc này quá dễ, ta bảo cho
ngươi một cách tốt nhất: Kiếm lấy một cái hũ lớn, bỏ tên tù phạm vào
trong, sau đó cho than đốt xung quanh, từ từ thiêu đốt. Trước khi tên tù đó bị nướng chín, chắc chắn ngươi sẽ lấy được khẩu cung".
Lai
Tuấn Thần nghe xong sướng quá vỗ tay khen hay, đồng thời cho người mang
đến một cái hũ lớn, xung quanh đốt than. Chu Hưng không hiểu ra sao: "Lẽ nào ngươi định xét hỏi tên tội phạm đó ở đây?". Lai Tuấn Thần lúc này
mới rút ra sắc chỉ của Võ Tắc Thiên, sau đó nói với Chu Hưng: "Thỉnh
quân nhập ung".
Kết quả còn đến nhanh hơn so với dự liệu của Chu Hưng: Trước khi bị bỏ vào trong hũ, Chu Hưng đã khai rất cụ thể những
điều mà Lai Tuấn Thần yêu cầu.
Cái cách mà Lai Tuấn Thần dùng để khuất phục Chu Hưng quả là rất tuyệt diệu. Trong kinh doanh, đối với
những kẻ gian hiểm, những gian thương gian trá vô lại đó, nếu có thể áp
dụng kế "thỉnh quân nhập ung" thì đó là cách rất có hiệu quả kinh tế.
Nguyên nhân rất đơn giản, lấy độc trị độc, lấy gian trị gian, lấy vô lại trị vô lại. Vậy cái độc đó từ đâu ra? Gian ở chỗ nào? Tìm cách để trị
sự vô lại ở đâu? Chính là ở bản thân của kẻ gian trá đó?
Những
năm 30, thương nhân người Anh tên Willi, đặt mua 3000 chiếc vali da của
Melong Hồng Kông với giá là 200.000 đô la Hồng Kông. Trong hợp đồng quy
định thời hạn giao hàng là trong vòng một tháng nếu vượt quá thời hạn đó thì không chỉ dựa vào chất lượng để giao hàng nữa mà bên bán phải bồi
thường 50% tổn thất.
Trong vòng một tháng Phùng Xán giám đốc
công ty sản xuất vali da Melong đã căn cứ theo hợp đồng để giao hàng cho phía Anh. Willi thì lại không ngại ngùng gì lớn tiếng nói rằng, tầng
phía trong va li sử dụng nguyên liệu là gỗ và như vậy đợt hàng này không phải là va li da. Đương nhiên nếu làm lại "va li da thật sự" thì sẽ
muộn, số va li da trước đó sẽ bị tồn đọng và khoản bồi thường 50% chắc
chắn sẽ phải nộp. Giám đốc Phùng Xán không thể kìm nén được cơn giận,
nhưng khi đối mặt với tên vô lại đó ông không nghĩ ra lời nào để phản
bác được hai bên bèn đưa nhau ra tòa đối chất.
Khi mở phiên toà
xét xử, không ngờ tòa án cũng có ý thiên vị và Phùng Xán có thể bị kết
tội "lừa đảo". Phải làm thế nào khi đối mặt với một kẻ gian thương mạnh
mồm, với một quan tòa bề ngoài thì tỏ ra công bằng nhưng thực ra là có ý tư lợi?
Nhưng vị luật sư Lawir mà ông Phùng Xán ủy quyền không
hề tỏ ra lo lắng, vội vàng đứng dậy, tiện tay rút ra chiếc đồng hồ vàng
nhập khẩu từ London và hỏi quan tòa: "Thưa quan tòa, xin hỏi đây là loại đồng hồ gì?". Quan tòa nói một cách rất oai: "Đó là chiếc đồng hồ vàng
nổi tiếng của Anh. Nhưng chiếc đồng hồ đó thì chẳng liên quan gì đến vụ
án này cả!"
"Có liên quan" La Cẩm Văn giơ cao chiếc đồng hồ
vàng, tiếp tục hướng về những người tham dự phiên tòa nói: "Chiếc đồng
hồ này là đồng hồ vàng, quan tòa đã có kết luận, không ai có ý kiến gì
sao. Nhưng tôi muốn hỏi, chiếc đồng hồ vàng này ngoài vàng ra còn có
thành phần nào khác không? Ngoài mặt đồng hồ được mạ một lớp vàng với
một lượng vàng nhỏ ra thì những bộ phận bên trong cũng được làm từ vàng
sao?".
Willi và quan tòa lúc này mới phát giác ra rằng trong đó
có "mai phục", cái cớ của mình đã trở thành chứng cứ tốt nhất của đối
phương. Song đã quá muộn, Lawir tiếp tục nói: "Nếu các bộ phận trong
chiếc đồng hồ vàng không nhất thiết phải bằng vàng thì các phần phía
trong chiếc va li da cũng không bắt buộc phải toàn bằng da. Vậy thì
trong vụ án va li da thật hay giả này nguyên đơn là kẻ cố ý lừa gạt, gây sự một cách vô lý!".
Dưới những con mắt dõi theo, Willi bị đuối lý cứng lưỡi. Quan tòa đành xử ông ta tội vu khống và kết thúc vụ án
sau khi phạt ông ta 5000 đô la Hồng Kông.
Kế "thỉnh quân nhập
ung" quả thực rất kỳ diệu. Nếu Lawir không dùng kế này mà trực tiếp bác
bỏ sự hoang đường trong cách lập luận của quan tòa và Willi thì quan tòa có thể dựa vào địa vị cao của mình, lấy cái thế đó để ép người khác thì trong thế biện luận bất bình đẳng như vậy khó có cơ hội thắng. Mặt khác sẽ làm cho cuộc tranh cãi rơi vào mớ bòng bong, Lawir đã dựa vào cách
suy nghĩ của đối thủ để bác bỏ quan điểm của đối thủ, cũng giống như
việc dùng súng của đối thủ để đối thủ tự mình nhằm bắn vào ngực mình một phát, làm cho những lời lẽ sai trái của đối thủ ngay lập tức rơi vào
đường chết mà không thể chạy đi đâu được, làm cho người khác có cảm giác rất vui sướng, hể hả khi được nghe chuyện cười.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT