Chùa Vạn Bảo được xây dựng giữa sườn núi, bởi con đường gập ghềnh khó đi, ngày thường người qua kẻ lại thưa thớt, hiếm ai tìm đến, quanh năm lạnh lẽo vắng vẻ. Thế nhưng hôm nay lại khác, từ kinh thành xa xôi ngựa xe rầm rộ chen chúc trước cửa chùa, chật như nêm cối.

Những quan viên kia, một đường phong trần mệt mỏi, khuôn mặt ai nấy đều tái nhợt, dáng vẻ đoan chính trầm ổn ngày thường giờ đây không còn sót lại chút nào. Họ ôm cột trụ thở hổn hển như trâu, cảnh tượng ấy thoạt nhìn khiến người ta không khỏi muốn bật cười. Nhưng trong thiện phòng, nữ tử trẻ tuổi ngồi đó, thần sắc từ đầu chí cuối vẫn bình tĩnh như nước, thậm chí khóe miệng còn mang theo một nét cười đoan trang, chẳng hề vì tiếng kêu trời khóc đất của tiểu thái giám bên chân mà dao động lấy một cái chớp mắt. Nhìn nàng, tựa hồ dầu muối không ăn, lòng dạ sắt đá.

Kỷ Phương khóc càng lúc càng to, vừa lau nước mắt vừa tiếp tục thưa: “Công chúa ở Đặng Châu xa xôi, e rằng không biết tình thế trong kinh hiện giờ gian nguy đến nhường nào. Tự hai tháng trước, Ngân Vương mượn danh nghĩa thanh quân mà khởi binh mưu phản, trong triều liền rối loạn như ong vỡ tổ. Ngoài sáng trong tối, kẻ gian tranh đấu không ngừng. Thậm chí, không ít kẻ thấy Thánh Thượng thế yếu, liền toan tính chọn một chủ tử khác mà thờ. Nay địch binh đã đánh tới Cung Châu, không tới mấy tháng e rằng sẽ tràn vào kinh thành. Thánh Thượng nóng lòng đến kiệt sức, khổ nỗi trước mắt thiếu binh, thiếu lương, lại không có người nào đáng dùng. Ngay cả Thái Phó cũng cáo bệnh, đóng cửa không ra… Công chúa cùng Thánh Thượng vốn là tỷ đệ sinh đôi một mẹ sinh ra, từ trong bụng mẹ đã là huyết nhục chí thân. Sao đành lòng nhìn Thánh Thượng đơn độc đối mặt hiểm nguy như vậy…”

Kỷ Phương khóc lóc thảm thiết, nhập tâm đến độ Trình Mộ Ninh vài lần muốn ngắt lời mà không thể tìm được cơ hội. Nàng đành chán chường nâng chung trà lên, không biết làm gì hơn.

Nghe tiếng lải nhải bên tai, nàng bất giác nhớ lại Trình Tranh, người mà Kỷ Phương gọi là đương kim Thánh Thượng.

Nàng và Trình Tranh, quả thật là huyết nhục chí thân do cùng một mẹ sinh ra. Xưa kia, Tiên Đế và Tiên Hoàng Hậu phu thê tình thâm, chậm chạp không chịu nạp phi, bởi vậy hậu cung con nối dõi mỏng manh hơn cả nhà thường dân. Dù triều thần gây áp lực, mãi hai năm sau mới đón thêm một phi tần, sinh ra Vĩnh Chiêu Công Chúa. Nhưng Vĩnh Chiêu trời sinh nhát gan, tính tình nội liễm, không thích nói cười. Thành ra, khi còn bé, trong suốt một quãng thời gian dài, hoàng cung rộng lớn chỉ có hai tỷ đệ họ làm bạn cùng nhau. Tình nghĩa giữa họ thâm hậu đến mức không cần lời nào thêm cũng tự hiểu.

Nhưng tình nghĩa thâm hậu ấy, lại dừng bước từ mấy năm trước.

Khi ấy, Tiên Đế băng hà, không bao lâu sau Tiên Hoàng Hậu cũng theo chân mà đi. Trình Tranh, năm ấy mới mười sáu tuổi, bất đắc dĩ phải gánh vác trọng trách của một vị vua cai quản giang san.

Song, Trình Tranh lại không phải người thích hợp làm hoàng đế.

Hắn từ nhỏ đã chẳng có thiên phú đọc sách, đối với văn chương sách vở cũng không mảy may hứng thú. Trước kia, để hắn chịu ngồi yên nghe tiên sinh giảng bài, Trình Mộ Ninh thường phải ở bên làm bạn, kèm cặp trái phải. Ngay cả bài vở Thái Phó giao phó, cũng đa phần là nàng nhìn chằm chằm, hắn mới miễn cưỡng hoàn thành. Có lẽ nhờ huyết mạch tỷ đệ độc nhất này nên nàng mới áp chế được hắn, khiến Trình Tranh không dám quá mức lười nhác. Ngày qua ngày, so với Trình Tranh được chọn làm trữ quân thì Trình Mộ Ninh, thân là công chúa, lại tỏ ra thông thạo việc thiên hạ hơn một chút. Thành ra, lúc mới lên ngôi, đối diện với chính vụ chất cao như núi, hắn thường hoảng loạn thất thố, vội vã chạy đến cầu cứu Trình Mộ Ninh.

Dần dà, Trình Mộ Ninh vô cùng quen thuộc với chiếc ghế trưởng công chúa đặt riêng trong Chính Sự Đường.

Nàng biết rõ tân đế vô năng, không thể không nhúng tay chỉ điểm mọi việc trong triều chính. Nàng cứ ngỡ Trình Tranh vẫn là cậu em trai nhỏ ngày nào, cần nàng ở bên kèm cặp mới làm xong bài vở. Nhưng nàng quên mất, tỷ đệ dù khăng khít đến đâu, quân thần vẫn có khác biệt.

Khi ấy, nàng một lòng mượn sức triều thần để củng cố thế cục bất an sau khi tân đế kế vị, hoàn toàn không để tâm đến suy nghĩ trong lòng tiểu hoàng đế. Hoặc nói đúng hơn, nàng sớm đã nhận ra, nhưng không thèm để mắt. Bởi vậy, qua năm tháng, tình tỷ đệ từng sâu đậm dần hao mòn qua những lần tranh chấp đối đầu, đến mức gần như tan biến. Cuối cùng, khi nàng và Trình Tranh một lần nữa bất đồng ý kiến về sách lược ngoại bang, hắn rốt cuộc không nhịn nổi nữa. Lấy cớ nữ nhân hậu cung không được tham gia chính sự mà giam lỏng nàng trong cung.

Lần ấy, Trình Tranh còn khăng khăng đem Vĩnh Chiêu Công Chúa, khi đó mới mười lăm tuổi, đi hòa thân.

Cũng trong lúc này, hắn trục xuất một đám quan viên thân cận với Trình Mộ Ninh. Có gián quan vì việc ấy mà can gián, lại bị quan trên điện tiền vu cho tội danh nói lỡ, tống giam vào ngục.

Nhất thời, gió triều đổi chiều, dư luận xôn xao.

Trình Mộ Ninh trong lòng hiểu rõ, hành động này của Trình Tranh chẳng qua là muốn ép nàng nhận thua, chủ động rời khỏi triều đình. Thế nên, sau khi nhìn thấu tình thế, nàng thuận theo ý hắn, tự xin rời kinh, đến chùa Vạn Bảo vì Tiên Đế và Tiên Hoàng Hậu mà đốt đèn cầu phúc.

Nàng còn nhớ, đêm trước khi rời kinh, tiểu hoàng đế uống đến say mèm, ngồi trên bậc thang lẩm bẩm: “Rõ ràng là tỷ đệ sinh đôi, ngươi chỉ sớm hơn ta nửa khắc. Vậy mà từ nhỏ, ngươi đã thông minh hơn ta, bác học hơn ta. Thái Phó giảng bài, ngươi đối đáp trôi chảy, ngay cả người khắc nghiệt như ông ấy cũng khen ngươi không ngớt. Phụ hoàng cũng thiên vị ngươi, nói ngươi giống ông nhất… Còn ta, cái gì cũng không biết, phải nhờ ngươi lén lút dạy dỗ từng chút một… Nay ta kế vị mà đám lão thần kia ngoài mặt khen ngợi ta, sau lưng lại mắng ta ngu dốt, không đáng trọng dụng. A tỷ trong lòng cũng nghĩ vậy, đúng không? Cho nên ngươi mới kéo bè kết cánh, nắm giữ triều chính không chịu buông tay, quản ta hết cái này đến cái kia, không cho ta làm gì. Các ngươi, từng người một, đều muốn biến trẫm thành con rối để đùa bỡn!”

“Nhưng trẫm là hoàng đế, là thiên tử! Trẫm mới là người nói một nói hai trong triều Đại Chu này. Ngươi chỉ là công chúa mà thôi!” Hắn nói đến nóng mắt, trừng Trình Mộ Ninh nửa ngày, rồi lại mất mát thốt lên: “Nhưng ngươi còn ở đây một ngày, bọn họ sẽ mãi mãi không coi trẫm là hoàng đế chân chính…”

“Ngươi đi đi, đừng trở lại kinh thành nữa.”

“Công chúa đi không được bao lâu, Thánh Thượng đã hối hận. Ngài ấy không buồn ăn uống, còn sinh một trận bệnh nặng. Chỉ là sĩ diện không bỏ xuống được, không dám đến nhận lỗi với công chúa mà thôi… Cầu xin công chúa, nể tình Tiên Đế và Tiên Hoàng Hậu, tha thứ cho Thánh Thượng lần này đi, công chúa ơi…”

Tiếng khóc thảm bên chân càng thêm bén nhọn. Trình Mộ Ninh tay cầm nắp trà khẽ trượt một cái, phát ra một âm thanh chói tai. Nàng giật mình tỉnh lại, khẽ cười, lười không buồn phân biệt trong lời Kỷ Phương mấy phần thật giả. Nàng nhấp một ngụm trà, ra vẻ do dự: “Nhưng ta chỉ là nữ tử tầm thường, có thể giúp gì được cho Thánh Thượng đây?”

Kỷ Phương vội vàng kêu lên: “Công chúa sao lại là nữ tử tầm thường? Công chúa lòng mang chí lớn, thông tỏ triều sự. Năm xưa, khi Tiên Đế bệnh nặng, ngài thường ở bên thay ngài soạn chiếu. Sau này Thánh Thượng kế vị, công chúa lại lao tâm khổ tứ, không ngừng hiệp trợ. Những điều ấy, triều thần trên dưới đều nhìn rõ trong mắt. Nếu giờ ngài trở về kinh, dù không làm gì, cũng nhất định có thể trấn an lòng người!”

Trình Mộ Ninh khẽ cười nhạt, thong dong đặt chung trà xuống, cuối cùng thở dài nói: “Ở bên Thánh Thượng hầu hạ lâu như vậy, bản lĩnh không thấy tiến, nhưng miệng lưỡi lại ngày càng trơn tru. Thôi được, cứ theo ý ngươi vậy.”

Kỷ Phương nhất thời chưa phản ứng kịp, ngượng ngùng nhếch khóe miệng: “Nô tài nói toàn lời từ đáy lòng cả. Công chúa… công chúa vậy là đồng ý rồi ư?”

Trình Mộ Ninh không tỏ ý kiến. Kỷ Phương thoáng do dự, trong lòng thầm nghĩ: Trưởng công chúa… từ bao giờ lại dễ nói chuyện thế này?

Ai mà chẳng biết, xưa kia công chúa và Thánh Thượng từng xung đột đến mức không thể cứu vãn. Nói là tự xin rời kinh, nhưng ai tinh mắt mà không nhìn ra manh mối bên trong. Nhìn bộ áo trắng thuần đơn sơ nàng mặc hiện giờ, đủ biết những ngày ở chùa chẳng hề dễ chịu. Ba năm qua, đừng nói trang sức quý giá, ngay cả một người Thánh Thượng cũng không phái đến thăm nom lấy một lần, rõ ràng là mặc kệ nàng tự sinh tự diệt. Nếu không phải lần này họa loạn ập đến, hắn có lẽ đã quyết không mời công chúa hồi kinh. Trong lòng nàng có oán hận, cũng là điều khó tránh.

Huống chi, năm đó còn có chuyện Vĩnh Chiêu Công Chúa hòa thân…

Tóm lại, Kỷ Phương vốn đã chuẩn bị tinh thần ở lại Đặng Châu mười ngày nửa tháng, còn mang theo một đám ngôn quan mồm miệng lanh lợi để khuyên nhủ.

Thấy hắn ngây ra, Trình Mộ Ninh khóe miệng ngậm cười: “Ngươi đã phụng chỉ đến đây, bổn cung chẳng lẽ lại kháng chỉ bất tuân sao? Hay là ngươi ở cấm cung lâu quá, muốn ở lại chùa Vạn Bảo thêm vài ngày? Vậy cũng tốt, ngày mai ta dẫn ngươi đi dạo khắp nơi. Đừng thấy nơi này đơn sơ, kỳ thực cảnh trí còn đẹp hơn mấy hoa cỏ trong cung sửa sang chỉnh tề cứng nhắc kia nhiều. Thôi, khỏi đợi ngày mai, ngay hôm nay đi…”

“Không không không” Kỷ Phương lúc này mới hoàn hồn, vội vàng ngắt lời: “Nô tài lập tức đi chuẩn bị ngựa xe, ngày mai liền khởi hành hồi kinh!”

Nói xong, hắn cảm động rơi nước mắt, hướng Trình Mộ Ninh dập đầu hai cái, sợ nàng đổi ý, nên không dám nán lại lâu, vội vã rời đi.

Tiễn Kỷ Phương đi rồi, thị nữ đứng nghe ở bên vội vàng bước vào nội thất.

Hồng Cẩm luống cuống tay chân mở hòm xiểng, thu dọn quần áo: “Kỷ công công này khóc lóc ghê quá. Công chúa sao đồng ý nhanh vậy chứ? Phải làm bộ làm tịch thêm vài ngày, để bọn họ lo lắng đề phòng, rồi dùng kiệu tám người long trọng rước chúng ta về mới đúng. Giờ gấp gáp thế này, ngay cả đồ đạc mang theo cũng không kịp thu xếp.”

“Công chúa nóng lòng về nhà, đâu rảnh làm bộ làm tịch.” Ngân Trúc bên kia trầm ổn hơn, “Trong cung cái gì cũng có, không cần mang hết mọi thứ. Chỉ cần mang theo hương này là được. Đường về kinh xa xôi, khó tránh phải nghỉ ở trạm dịch, công chúa chắc lại khó ngủ.”

Trình Mộ Ninh nghe vậy nhìn sang, thấy Hồng Cẩm đã nhanh nhẹn nhét hộp hương vào rương.

Hồi trước rời kinh, nàng đi trong cảnh chật vật, người và hành lý cộng lại chỉ có hai cỗ xe. Khi mới đến chùa Vạn Bảo, gần như hai tay trống trơn. Nàng lại vốn kén giường, liên tục nửa tháng mất ngủ triền miên, mãi đến khi chủ trì Tĩnh Trần đưa đến long diên hương. Loại hương liệu này, nàng từ nhỏ đã quen dùng, nhờ đó mới ngủ được yên giấc.

Nhưng long diên hương chế tác cầu kỳ, ngay cả trong cung mỗi năm cũng hiếm, huống chi một nơi khổ hàn như Đặng Châu.

Chủ trì chỉ nói rằng trước đây có một thương nhân hành hương quyên tặng. Người xuất gia không màng vật chất, nên đem hết cho Trình Mộ Ninh dùng.

Ngẫm kỹ, ba năm qua, nhờ chủ trì quan tâm ít nhiều, giờ sắp đi, nàng nên đến từ biệt đàng hoàng. Dẫu sao lần này rời khỏi, không biết bao giờ mới gặp lại.

Suy nghĩ một lát, Trình Mộ Ninh từ hòm xiểng lấy ra một hộp nhỏ đựng tượng Phật khắc gỗ, cất bước hướng Kỳ Kinh Các đi tới.

Tĩnh Trần dường như biết trước nàng sẽ đến, không như thường ngày quỳ trước tượng Phật tụng kinh niệm phật. Bà đã pha sẵn trà, tay lần chuỗi Phật châu, nói: “Công chúa đến rồi.”

Trình Mộ Ninh mỉm cười. Trên đời này, hiếm ai tâm ý tương thông với nàng, chủ trì xem như một người hiếm có. Uống xong trà, nàng đi thẳng vào chuyện: “Mấy năm nay được chủ trì chiếu cố nhiều. Biết chủ trì không thích vật xa hoa, tượng Phật này là ta lúc rảnh rỗi khắc chơi, tay nghề thô sơ, cũng không đáng giá gì. Chỉ xem như duyên gặp gỡ một lần, để lại chút niệm tưởng.”

Tĩnh Trần đáp: “Tâm ý công chúa đáng giá ngàn vàng, bần ni xin nhận.”

Trình Mộ Ninh không để tâm đến kiểu khiêm nhượng thường thấy của người xuất gia, đưa mắt nhìn quanh: “Chùa Vạn Bảo thanh u nhã tĩnh, bốn mùa cảnh trí đều khác biệt. Ngày thường cùng chủ trì tụng kinh niệm phật ở đây, ta thu hoạch không ít. Giờ bỗng phải đi, trong lòng nhất thời còn chút luyến tiếc.”

Tĩnh Trần trầm mặc nửa ngày: “Trong cung dù phồn hoa, nhưng đao kiếm không có mắt. Nếu rời xa thị phi được, chưa hẳn không phải chuyện tốt…” Nghĩ đến vài ngày trước, vị trưởng công chúa này đứng ở vách núi như nhón chân trông ngóng, bà dừng lại, bất đắc dĩ nói: “Nhưng công chúa là ngọc quý trên tay, không nên phủ bụi nơi đây.”

Tĩnh Trần nhớ lại lần đầu gặp Trình Mộ Ninh, cũng vào tiết rét tháng ba như thế này.

Chùa Vạn Bảo nằm ở nơi hẻo lánh, xưa nay chưa từng tiếp đãi hoàng thân quốc thích cao quý nhường ấy. Ngày đó, nghe tin trưởng công chúa giá lâm, các ni cô trong chùa đội gió lạnh chen chúc ngoài cửa, nhón chân mong chờ, chỉ muốn nhìn xem vị kim chi ngọc diệp trong lời đồn rốt cuộc ra sao.

Họ tưởng rằng hẳn là một người dung mạo lộng lẫy, ung dung hoa quý.

Nhưng khi thật sự gặp nàng, mới biết cao quý không nằm ở vẻ ngoài.

Chẳng cần cẩm y hoa phục, chẳng cần làm bộ làm tịch, nàng chỉ đứng đó, khí độ cao vời của kẻ trên cao đã hiển lộ rõ ràng. Dẫu gương mặt nàng phấn hồng như xuân, thần sắc ôn hòa ấm áp.

Nàng hướng chủ trì hành một Phật lễ, giọng thân thiện: “Dự là sẽ quấy rầy nơi đây ba bốn năm, sau này làm phiền chủ trì quan tâm.”

Ngay lúc ấy, Tĩnh Trần đã biết, người trước mặt là giao long gặp mây mưa, không phải vật trong ao. Từ đầu, nàng đã không định ở lại chùa Vạn Bảo mãi mãi.

Nghĩ đến đây, Tĩnh Trần chắp tay niệm một tiếng “A Di Đà Phật”, nói: “Công chúa đã quyết tâm, bần ni không có gì vật gì đáng tặng, chỉ có thể trước Phật cầu phúc cho ngài. Mong công chúa chuyến này bình an thuận lợi, được như ý nguyện.”

Trình Mộ Ninh vỗ tay đáp lễ, cảm kích: “Vậy xin nhận lời chúc lành của chủ trì.”

 

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play