Chúng tôi chèo thuyền qua vịnh, đi ngang qua những con tàu dập dềnh đang đùn gỉ ra từ các mối nối của chúng, qua những đám chim biển lặng lẽ đậu thành hàng trên đỉnh những tàn tích bướng bỉnh còn sót lại của các bến tàu đã chìm, ngang qua những ngư dân hạ lưới xuống nhìn chăm chăm như hóa đá khi chúng tôi bơi ngang qua, không dám chắc chúng tôi có thật hay chỉ là ảo ảnh; một cuộc diễu hành của những bóng ma trên mặt nước, hay của những kẻ sẽ sớm trở thành hồn ma.

Chúng tôi là mười đứa trẻ và một con chim trên ba chiếc thuyền nhỏ tròng trành, quả quyết chèo đi trong im lặng thẳng ra ngoài biển, khu vịnh an toàn duy nhất trong vòng nhiều dặm nhanh chóng lùi xa đằng sau chúng tôi, lởm chởm những vách đá và đầy huyền ảo trong ánh vàng buổi bình minh pha lẫn màu trời xanh. Đích đến của chúng tôi, bờ biển đất liền xứ Wales đầy mong đợi, nằm đâu đó phía trước nhưng chỉ hiện ra mờ mờ, một dải sẫm màu mơ hồ chạy dài theo đường chân trời phía xa.

Chúng tôi chèo qua trước ngọn hải đăng cũ bình thản vươn lên đằng xa, chỉ mới tối qua đây còn là nơi xảy ra bao biến cố kinh hoàng. Chính tại đó, trong khi bom đang nổ rền quanh mình, chúng tôi đã thiếu chút nữa chết đuối, thiếu chút nữa bị những viên đạn xé ra từng mảnh; cũng tại đó tôi đã cầm lấy một khẩu súng, siết cò và giết chết một người, một hành động đến giờ tôi vẫn không hiểu nổi; tại đó chúng tôi đã để mất cô Peregrine rồi giành lại được bà - từ bộ hàm thép của một chiếc tàu ngầm - dù cô Peregrine trở lại với chúng tôi đã bị tổn thương, cần sự giúp đỡ mà chúng tôi thì không biết giúp như thế nào.

Lúc này bà đang đậu trên đuôi thuyền của chúng tôi, nhìn về nơi trú ẩn bà tạo dựng nên giờ đang lùi xa dần, khuất dần sau mỗi nhịp chèo.

Cuối cùng, chúng tôi chèo qua đê chắn sóng và ra ngoài biển khơi rộng mênh mông, và mặt nước phẳng lặng như gương của vịnh bị khuấy động bởi những gợn sóng nhỏ bị cắt ra theo hai bên mạn thuyền của chúng tôi. Tôi nghe thấy một chiếc máy bay đang xuyên qua các đám mây cao tít trên đầu chúng tôi và, dừng tay chèo lại, tôi nghển cổ lên, chững lại để hình dung xem đội thuyền bé nhỏ của chúng tôi nhìn từ trên độ cao đó thì như thế nào: tôi đã lựa chọn thế giới này, và mọi thứ tôi có trong nó, và tất cả những sinh mạng đặc biệt, quý giá của chúng tôi chứa gọn trong ba mảnh gỗ mong manh trôi nổi trên con mắt mênh mông không chớp của biển cả.
Xin hãy nhân từ.

***
Những chiếc thuyền của chúng tôi dễ dàng lướt qua những con sóng, cả ba chiếc cùng sóng hàng ngang nhau, một cơn gió thân thiện đưa chúng tôi về phía bờ. Chúng tôi thay nhau chèo thành ca, lần lượt cầm mái chèo để tránh kiệt sức, mặc dù tôi cảm thấy mạnh mẽ đến mức trong gần một giờ tôi từ chối nhường lại chúng.

Tôi đắm mình trong nhịp chèo khua, hai cánh tay tôi vẽ thành từng đường hình e líp dài trong không khí như thể đang kéo về phía mình thứ gì đó từ chối trong chịu tới. Hugh phụ trách mái chèo bên đối diện với tôi, và đằng sau cậu ta, ngồi trên mũi thuyền, là Emma, đôi mắt cô ẩn kín dưới vành của một chiếc mũ rộng vành, đầu cúi xuống một tấm bản đồ được trải ra trên hai đầu gối. Thỉnh thoảng cô lại ngẩng lên khỏi bản đồ để quan sát đường chân trời, và chính hình ảnh khuôn mặt cô trong ánh mặt trời đã đem đến cho tôi năng lượng tôi không ngờ mình có.

Tôi cảm thấy mình có thể chèo mãi - cho tới khi Horace hét lớn từ một trong hai chiếc thuyền còn lại hỏi còn bao nhiêu đại dương nữa ngăn cách chúng tôi với đất liền, còn Emma thì nheo mắt nhìn lại phía hòn đảo, rồi cúi xuống bản đồ, những ngón tay xòe ra để đo đạc, sau đó nói, ít nhiều ngờ vực, “Bảy cây số thì phải?”

Nhưng sau đó Millard, cũng ngồi trên thuyền của chúng tôi, thì thầm gì đó vào tai Emma, cô cau mày rồi xoay vuông góc tấm bản đồ lại, rồi lại cau mày, và nói, “Ý tớ là tám cây rưỡi.” Khi những từ này rời khỏi miệng cô, tôi cảm thấy mình - và nhìn thấy những người khác - có vẻ ít nhiều nản chí.

Tám cây rưỡi: hành trình mất một giờ đồng hồ trên chiếc phà làm dạ dày lộn ngược đã đưa tôi tới Cairnholm vài tuần trước. Khoảng cách mà một chiếc thuyền máy bất cứ kích cỡ nào cũng có thể dễ dàng vượt qua. Ít hơn một cây rưỡi so với quãng đường các ông bác phì nộn của tôi cứ cách một tuần lại chạy vào dịp cuối tuần để làm từ thiện, và cũng chỉ nhiều hơn thế một chút so với quãng đường mẹ tôi tự đắc bà có thể thực hiện được trong các lớp tập trên máy chèo thuyền tại phòng gym tưởng tượng của bà.

Nhưng phải ba mươi năm nữa chiếc phà chạy qua lại giữa hòn đảo và đất liền mới bắt đầu hoạt động, những chiếc máy tập chèo thuyền thì không hề bị chất nặng hành khách và hành lý, và chúng cũng không đòi hỏi phải liên tục chỉnh hướng chèo chỉ để giữ thuyền đi đúng hướng. Phiền phức hơn thế, quãng đường biển chúng tôi đang vượt qua lại rất bất trắc, một cái bẫy nuốt chửng tàu bè khét tiếng: tám cây rưỡi trên mặt biển đỏng đảnh, quay quắt, dưới đáy rải rác những xác tàu đắm đã xanh rì cùng xương cốt thủy thủ, và lẩn khuất đâu đó trong bóng tối sâu thẳm là kẻ thù của chúng tôi.

Có những người trong chúng tôi lo sợ như thế, họ cho rằng đám xác sống đang ở ngay gần, đâu đó bên dưới chúng tôi, trong chiếc tàu ngầm Đức đó, chờ đợi. Nếu chưa biết chúng tôi đã chạy trốn khỏi đảo, thì chúng cũng sẽ sớm biết. Chúng không đời nào đi xa tới mức bắt cóc cô Peregrine để rồi lại bỏ cuộc chỉ sau một lần thử sức thất bại. Những chiếc tàu chiến đang chậm chạp dịch chuyển ngoài xa như những con rết và các máy bay Anh thường trực quan sát trên không khiến cho việc nổi lên bề mặt giữa ban ngày quá nguy hiểm với chiếc tàu ngầm, nhưng khi màn đêm buông xuống, chúng tôi sẽ trở thành con mồi ngon xơi. Chúng sẽ tìm đến chúng tôi, bắt cô Peregrine đi, và nhấn chìm những người còn lại. Thế là chúng tôi chèo, hy vọng duy nhất của chúng tôi là tới được đất liền trước khi màn đêm bắt kịp.

***
Chúng tôi chèo cho tới khi cánh tay đau nhức, vai nổi cục. Chúng tôi chèo cho tới khi cơn gió hây hẩy buổi sáng ngừng thổi và mặt trời gay gắt xối nắng xuống chúng tôi như thể qua một thấu kính phóng đại, và mồ hôi đọng lại ướt sũng quanh cổ áo chúng tôi, và tôi nhận ra đã không ai nghĩ đến chuyện mang theo nước ngọt, còn biện pháp chống nắng vào năm 1940 đồng nghĩa với việc đứng trong bóng râm. Chúng tôi chèo cho tới khi da quanh rìa lòng bàn tay bong tróc, tin chắc mình hoàn toàn không thể chèo thêm nhát nào nữa, nhưng rồi lại chèo, rồi thêm một nhịp, rồi lại thêm một nhịp nữa.

“Các cậu ra hàng xô mồ hôi rồi đấy,” Emma nói. “Để tớ chèo cho một lúc không các cậu chảy tan hết bây giờ.”

Giọng nói của cô làm tôi giật mình bừng tỉnh khỏi một cơn đờ đẫn. Tôi gật đầu đầy biết ơn và để cô ngồi thay vào chỗ chèo thuyền, nhưng hai mươi phút sau tôi đòi lại nó. Tôi không thích những ý nghĩ len lỏi vào đầu mình khi cơ thể tôi nghĩ ngơi: những cảnh tưởng tượng bố tôi tỉnh giấc phát hiện ra tôi đã đi khỏi khu phòng trọ của hai bố con tại Cairnholm, thay vào chỗ tôi là lá thư khó hiểu của Emma; rồi cơn hoảng loạn sẽ diễn ra kế tiếp.

Hồi ức về những điều kinh hoàng tôi phải chứng kiến gần đây thoáng lóe lên; một con quái vật kéo tôi vào bộ hàm của nó; kẻ từng là bác sĩ tâm lí của tôi rơi xuống chết; một người đàn ông bị vùi trong một cái quan tài đầy nước đá, bị lôi từ thế giới bên kia trở lại trong thoáng chốc để lào phào vào tai tôi với cái cổ họng chỉ còn một nửa vẹn.

Vậy là tôi chèo bất chấp sức lực cạn kiệt cùng cái cột sống có vẻ sẽ chẳng bao giờ thẳng lại được, cũng như hai bàn tay trầy xước vì ma sát, và cố không nghĩ tới bất cứ điều gì, những chiếc mái chèo nặng trịch đó vừa như một bản án chung thân vừa như một cái phao cứu sinh.

Bronwyn, dường như không biết mệt mỏi, một mình chèo cả một chiếc thuyền. Olive ngồi đối diện nhưng chẳng giúp được gì; cô gái nhỏ không thể kéo mái chèo đi mà không nhấc bổng mình lên không trung, để rồi một cơn gió nhẹ cũng có thể làm cô bay vụt đi mất như một cái diều.

Vậy là Olive hò hét cổ vũ trong khi Bronwyn gánh phần việc của hai người - hay ba hoặc bốn, nếu bạn tính đến những chiếc va li và hộp chất đầy chiếc thuyền của họ, bên trong nhét đầy quần áo, thức ăn, bản đồ, sách và rất nhiều thứ ít thực tế hơn, như vài chiếc lọ đựng tim bò sát ngâm dấm trong cái túi vải len thô của Enoch; hay tay nắm cửa trước bị bung ra từ ngôi nhà của cô Peregrine, một kỷ vật Hugh tìm thấy trên bãi cỏ lúc chúng tôi đi ra thuyền và quyết định cậu ta không thể sống thiếu nó; hay cái gối cồng kềnh Horace đã cứu khỏi ngôi nhà đang cháy - đó là cái gối may mắn của cậu ta, anh chàng nói vậy, và là thứ duy nhất ngăn chặn được những cơn ác mộng làm cậu ta sợ đến đờ người.

Những món đồ khác quý giá tới mức đám trẻ giữ khư khư bên mình thậm chí cả khi chèo thuyền. Fiona kẹp giữa hai đầu gối một chậu đất có cả giun lấy trong vườn. Millard đã bôi lên mặt một nắm bột gạch bị bom nghiền nát vụn, việc này lạ lùng cứ như thể một nghi thức để tang. Những thứ họ giữ lại khư khư ấy có vẻ lạ lùng, nhưng một phần trong tôi lại cảm thấy đồng cảm: đó là tất cả những gì họ còn lại từ mái ấm của họ. Những đứa trẻ biết nó đã mất không có nghĩa là họ biết từ giã nó thế nào.

Sau ba giờ chèo thuyền như những nô lệ khổ sai, khoảng cách đã làm hòn đảo co nhỏ lại còn cỡ một bàn tay xòe ra. Trông nó chẳng còn gì tương đồng với cái pháo đài bao quanh toàn vách đá cheo leo báo điềm gở mà tôi trông thấy lần đầu tiên vài tuần trước; giờ đây, trông hòn đảo có vẻ mong manh, một phiến đá đang đứng trước nguy cơ bị những con sóng cuốn phăng đi.

“Nhìn xem!” Enoch đang ngồi thuyền bên cạnh chúng tôi chợt hét lên, đứng bật dậy. “Nó đang biến mất!” Một màn sương mù ma quái bao trùm lấy hòn đảo, che khuất nó khỏi tầm mắt, chúng tôi bèn ngừng chèo dõi theo nó mờ dần.

“Hãy nói lời tạm biệt hòn đảo của chúng ta,” Emma nói, cô đứng lên và bỏ mũ ra. “Có thể chúng ta sẽ không bao giờ thấy lại nó nữa.”

“Vĩnh biệt, Đảo,” Hugh nói. “Bạn đã thật tốt với chúng tôi.”

Horace đặt mái chèo của cậu ta xuống và vẫy tay. “Tạm biệt, Nhà. Tớ sẽ nhớ tất cả các căn phòng cũng như khu vườn của cậu, nhưng chủ yếu là nhớ cái giường của tớ.”

“Tạm biệt, Vòng,” Olive sụt sịt. “Cảm ơn bạn đã che chở bọn mình an toàn suốt những năm qua.”

“Những năm tuyệt vời,” Bronwyn nói. “Những năm tuyệt nhất tờ từng biết.”
 

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play