Dù ai nói ngả nói nghiêng, Linus Baker vẫn thật lòng quan tâm tới những đứa trẻ anh được giao nhiệm vụ phải quan sát. Anh không nghĩ người ta có thể làm việc anh đang làm mà thiếu sự đồng cảm, dù anh không hiểu làm sao người như bà Jenkins có thể từng là nhân viên công tác xã hội trước khi được thăng chức lên Quản lý.
Và vậy nên khi đối mặt với một mối đe dọa mắt thấy tai nghe, và dù đang cảm thấy trời đất đảo điên rồi, Linus vẫn làm điều duy nhất mình có thể làm: Anh nhào tới bảo vệ lũ trẻ.
Talia giận dữ la oai oái khi anh nhét con bé ra sau lưng mình, về phía Sal và Chauncey. “Chú đang làm cái gì vậy?”
Anh lờ nó đi, tiếng ong ong trong tai mà anh nghe thấy từ khi lên đảo giờ biến thành tiếng gầm rú hoàn chỉnh. Anh bước một bước về phía cánh cửa đang mở, và anh dám đem mọi thứ mình có ra thề rằng màn đêm đang phủ xuống bên ngoài bằng cách nào đó đã trở nên đen tối hơn. Anh tin nếu bước ra ngoài hiên, anh sẽ thấy sao trên trời bị che phủ, và tất cả những gì còn lại là màn đêm vĩnh hằng.
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Chauncey thì thầm sau lưng anh. “Mình không biết nữa,” Talia khó chịu nói.
Sal lo lắng sủa, một tiếng ách cao vút. “Chắc vậy đấy,” Talia trả lời.
Linus bước một bước về phía cửa. Lẽ ra anh phải nhận ra rằng nhận nhiệm vụ này sẽ là điều cuối cùng anh làm trong đời. Anh tự hỏi có phải Lucy đã hạ gục thầy Parnassus và bất kỳ ai (hoặc bất kỳ thứ gì) đã ở trong nhà chính với họ không. Anh không biết chắc được liệu có điều gì khác mà Ban Quản Lý Thượng Tầng chưa báo với anh không. Nếu có một con đường an toàn, có lẽ anh có thể đưa lũ trẻ ra xe. Anh phải nhét Calliope vào lồng, nhưng anh thà có một con mèo cáu giận còn hơn là đối mặt với quỷ dữ. Anh không biết mình sẽ đưa chúng rời đảo bằng cách nào, nhưng…
Anh bước ra ngoài hiên.
Trời tối hơn thật, có lẽ tối hơn bao giờ hết. Anh hầu như chẳng thấy được khóm hoa ngay trước hiên. Mọi thứ khác biến mất trong bóng tối. Như thể màn đêm là một thứ có tri giác và đã nuốt chửng thế giới. Da Linus có cảm giác như bị điện giật.
“Xin chào,” một giọng nói ngọt ngào vang lên sau lưng anh. Linus thảng thốt, quay đầu lại.
Đằng kia, đứng ở mép hiên, là một đứa trẻ.
Lucy trông đúng như trong ảnh chụp. Mái tóc đen của thằng bé bù xù, mắt nó có con ngươi màu đỏ và viền xung quanh thì màu xanh. Trông nó nhỏ tí, nhưng nụ cười trên mặt nó vặn vẹo thành một cái nhếch mép, và ngón tay đang giần giật hai bên người, như thể nó chỉ đủ kiềm chế để không vươn tay ra xé xác Linus.
“Rất vui khi được gặp chú,” Lucy ngân nga rồi cười khúc khích. “Cháu biết chú sẽ tới, chú Baker ạ. Dẫu rằng, khi cháu xong việc với chú, chú sẽ ước gì mình đã không tới đây đấy.” Nụ cười ngoác rộng ra tới khi mặt thằng bé trông như sắp rách thành hai nửa. Lửa bắt đầu bốc lên sau lưng nó, dù có vẻ như không thiêu đốt căn nhà, và Linus không cảm nhận được hơi nóng lẽ ra nên phả ra từ đó. “Cháu sẽ tận hưởng việc này hơn nhiều hơn những gì chú có thể…”
“Đủ rồi đấy, Lucy.”
Và cứ như vậy, mọi thứ tắt ngúm.
Lucy rên rỉ, và sắc đỏ biến mất khỏi mắt nó. Ngọn lửa lụi tàn. Không trung tối đen vụt tan biến, và khung cảnh còn lại của hoàng hôn xuất hiện ở chân trời. Những vì sao sáng long lanh, và Linus có thể thấy nhà chính ở phía đối diện.
“Con chỉ đang vui vẻ một chút thôi mà,” Lucy lầm bầm, chà chà đế giày lên hiên. “Con là lửa địa ngục. Con là phần đen tối nhất…”
“Con vẫn phải tắm sau khi ăn tối,” giọng nói kia lên tiếng và Linus cảm thấy tim mình vừa hẫng mất một nhịp. “Có lẽ chúng ta có thể để dành lửa địa ngục và những phần đen tối nhất cho ngày mai đi.”
Lucy nhún vai. “Được thôi ạ.” Rồi thằng bé chạy qua Linus vào nhà, hò hét với Talia và Chauncey. “Mọi người thấy mình vừa làm gì chưa? Ông ta sợ vỡ mật!”
Linus nhìn ra trước hiên.
Ở nơi đó, đứng trên bãi cỏ, là một người đàn ông.
Anh ta không giống bất kỳ ai Linus từng thấy trước đây. Người anh ta mảnh khảnh. Mái tóc sáng màu bù xù như tổ quạ chĩa ra ở mọi góc độ kỳ quái. Những sợi tóc đã bắt đầu điểm bạc quanh thái dương. Đôi mắt sẫm màu sáng ngời và long lanh giữa khung cảnh mờ tối. Sống mũi khoằm của anh ta u lên ở giữa, như thể nó từng bị gãy rất lâu về trước và chưa bao giờ được nắn thẳng lại. Anh ta đang mỉm cười, hai tay đan lại trước người. Những ngón tay dài và trông thanh nhã khi anh ta xoay vòng hai ngón cái. Anh ta mặc cái áo khoác hải quân màu xanh lục, cổ áo dựng lên để chắn gió biển. Quần âu có vẻ quá ngắn so với đôi chân dài, chiếc quần dài đến trên mắt cá, để lộ cặp tất màu đỏ. Anh ta đi giày tây màu đen trắng có wing-tip.
“Xin chào, anh Baker,” Arthur Parnassus nói, vẻ thích thú. “Chào mừng anh đến với đảo Marsyas.” Giọng anh ta nhẹ nhàng hơn Linus tưởng, cứ như thể ẩn sau từng từ là những nốt nhạc ngân nga. “Tôi hy vọng rằng chuyến đi của anh đã trôi qua trong êm ả. Đôi khi biển có thể động trong lúc phà đi ngang qua. Merle thì… là Merle thôi. Nói cho cùng, ông ấy là dân làng mà.”
Linus á khẩu. Anh nhớ lại tấm ảnh mờ mịt trong hồ sơ. Trong ảnh, anh Parnassus đã đứng trước phông xanh, và không cười. Nhưng chân mày anh ta cong cong thành một đường tươi vui, và Linus đã nhìn chằm chằm nơi ấy lâu hơn mức có thể cho là phải phép.
Ngoài đời thực trông anh ta trẻ hơn, trẻ hơn rất nhiều so với hình ảnh mà tuổi bốn mươi lăm gợi lên. Mặt anh ta non nớt như những thanh niên bước vào DICOMY với tấm bằng bóng bẩy và những suy nghĩ về việc mọi việc nên được xử lý như thế nào thay vì tình hình thực sự ra sao. Họ đã mau chóng học được cách đứng vào hàng ngũ. Không có chỗ cho lý tưởng trong những công việc nhà nước.
Linus lắc đầu, cố khiến đầu óc tỉnh táo lại. Một người làm chức vụ của anh mà đứng đây há hốc mồm ngắm hiệu trưởng của một trại trẻ mồ côi thì không ổn chút nào. Linus Baker tuyệt đối là một nhân viên rất mực chuyên nghiệp, và anh có việc phải làm.
“Anh có thường chào đón khách khứa của mình bằng những lời đe dọa chết chóc và hủy diệt không, anh Parnassus?” anh nghiêm nghị hỏi, cố gắng giành lại quyền kiểm soát tình hình.
Anh Parnassus cười khúc khích. “Không thường xuyên đâu, dù phải nói là chúng tôi không có nhiều khách đến thăm cho lắm. Xin anh cứ gọi tôi là Arthur.”
Linus căng thẳng, lắng nghe mấy giọng nói lảm nhảm đằng sau mình. Anh thấy không thoải mái khi có người như Lucy đứng sau lưng, ngoài tầm mắt mình. “Tôi nghĩ tôi gọi anh Parnassus là được rồi. Tôi sẽ là anh Baker trong suốt chuyến thăm hỏi này. Anh và lũ trẻ hãy gọi tôi như vậy.”
Anh Parnassus gật đầu với vẻ vui sướng hầu như chẳng thèm che đậy. Linus không biết chính xác là có gì trong tình huống này khiến anh ta phải phản ứng như vậy. Anh tự hỏi có phải mình đang bị chế nhạo theo một cách nào đó không và cảm thấy giận dữ trào qua người. Anh đã dìm được cảm giác ấy xuống trước khi nó có thể bóp méo biểu cảm của mình.
“Vậy thì, anh Baker đi. Tôi xin lỗi vì đã không tự mình tiếp đón khi anh đến nơi.” Anh ta liếc qua vai Linus về phía ngôi nhà rồi lại nhìn sang anh. “Tôi đã vướng bận với Lucy ở nơi khác, dù tôi nghi là cháu nó đã cố gắng che giấu sự hiện diện của anh khỏi tôi.”
Linus sửng sốt. “Thằng bé… làm được việc đó ư?”
Anh Parnassus nhún vai. “Lucy làm được nhiều việc lắm, anh Baker ạ. Nhưng tôi đoán rằng anh sẽ tự mình khám phá những việc ấy. Đó là lý do tại sao anh ở đây, không phải sao? Phee báo với chúng tôi khi anh tới, và Lucy quyết định rằng thằng bé sẽ đón chào anh bằng phương thức đặc biệt của riêng nó.”
“Đặc biệt à,” Linus yếu ớt nói. “Đó là cách anh miêu tả việc ấy à.”
Anh ta bước một bước về phía hiên nhà. “Đây là một ngôi trường đặc biệt, tràn đầy những điều tôi tin là anh chưa từng chứng kiến trước đây. Tốt nhất là anh hãy gạt bỏ thành kiến đi, anh Baker ạ. Làm vậy thì anh sẽ tận thưởng chuyến thăm của mình hơn đấy.”
Linus xù lông. “Tôi không đến đây để tận hưởng, anh Parnassus ạ. Đây không phải là một kỳ nghỉ. Tôi ở đây theo lệnh của Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu để quyết định xem trại trẻ mồ côi Marsyas có nên tiếp tục hoạt động không, hay chúng tôi phải có những hành động khác. Nhớ lấy điều đó thì sẽ tốt hơn cho anh đấy. Việc bọn trẻ chạy tán loạn mà không có ai quản lý không phải là một khởi đầu tốt đẹp đâu.”
Anh Parnassus trông chẳng lo sợ gì. “Anh nói là chạy tán loạn à? Thú vị đấy. Và tôi biết anh ở đây để làm gì. Tôi chỉ không biết anh có phải người như vậy không thôi.” “Anh nói vậy là có ý gì?”
Anh ta nói một đằng trong khi Linus tưởng chuyện sẽ theo một nẻo. “Anh đã tặng Theodore một chiếc cúc áo.”
Linus chớp mắt. “Sao cơ?”
Anh Parnassus đã đi đến chân bậc thang. Linus chưa từng thấy anh ta di chuyển. “Một chiếc cúc áo,” anh ta chậm rãi lặp lại. “Bằng đồng. Anh đã tặng thứ ấy cho Theodore.”
“Vâng, à thì, đó là thứ đầu tiên tôi tìm thấy trong túi áo.” “Thứ ấy từ đâu ra?”
“Ý anh là sao?”
“Chiếc cúc áo, anh Baker ạ,” anh ta nói. “Chiếc cúc từ đâu tới?”
Linus lùi lại một bước. “Tôi không… Tôi hoàn toàn không hiểu ý anh là gì.”
Anh Parnassus gật đầu. “Chính là những thứ vặt vãnh ấy, những kho báu nhỏ nhặt chúng ta tìm ra mà không biết đến nguồn cội của chúng. Và chúng tới với ta khi ta ít mong đợi nhất. Ngẫm nghĩ mới thấy việc ấy đẹp đẽ xiết bao. Thằng bé vô cùng yêu thích chiếc cúc đó. Anh thật tốt bụng quá.”
“Tôi chỉ là bị ép buộc tặng thứ đó cho thằng bé thôi!”
“Thật không? Ngạc nhiên thật.” Người đàn ông kia đã đứng trên hiên nhà, trước mặt Linus. Anh ta cao, cao hơn nhiều khi đứng trên bãi cỏ trước nhà. Linus phải ngẩng đầu để nhìn vào mắt anh ta. Anh ta có một đốm tàn nhang gần như thành hình trái tim dưới mắt trái. Một lọn tóc rủ xuống trán anh ta.
Linus hơi rụt người lại khi anh Parnassus chìa tay ra. Linus nhìn chằm chằm bàn tay ấy một hồi rồi sực tỉnh. Anh nắm bàn tay đưa ra ấy trong tay mình. Làn da nơi đó mát lạnh và khô ráo, và khi những ngón tay khép lại quanh tay anh, Linus cảm thấy có chút ấm áp cuộn trào ở sâu trong đầu mình. “Rất vui mừng khi được gặp anh,” anh Parnassus nói. “Dù lý do anh đến đây là gì đi chăng nữa.”
Linus thu tay lại, lòng bàn tay râm ran. “Tất cả những gì tôi yêu cầu là anh để tôi thực hiện nghĩa vụ của mình mà không can thiệp vào.”
“Vì lũ trẻ.”
“Đúng vậy,” Linus nói. “Vì lũ trẻ. Nói cho cùng, chúng là những gì quan trọng nhất.”
Anh Parnassus săm soi anh, để tìm kiếm điều gì thì Linus cũng không rõ. Thế rồi, “Tốt thôi. Tôi rất vui vì chúng ta đã có một khởi đầu tuyệt vời đến vậy. Hẳn là điềm lành báo hiệu một tháng rạng ngời đây.”
“Tôi không cho rằng như thế là tuyệt vời đâu…”
“Các con!” Anh Parnassus hô lên. Anh ta khéo léo cúi xuống, vơ chỗ quần áo Sal bỏ lại vào tay. “Tới đây nào, nghe không?”
Một loạt bước chân rầm rầm vang lên đằng sau Linus, có bước chân nặng nề, có bước chân nghe như thể đang ướt nhẹp. Linus giật mình khi bọn trẻ chạy vụt qua anh.
Sal dẫn đầu, vẫn trong lốt phốc sóc tí hon. Thằng bé lo lắng sủa anh ách, đánh một vòng ra xa khỏi Linus rồi nhảy lên người anh Parnassus, đuôi vẫy vẫy. “Chào con, Sal,” anh Parnassus nói, nhìn xuống. Rồi, thật khác thường, anh ta sủa lên, một tiếng anh ách cao chót vót. Sal trả lời theo cùng cách đó với một tràng sủa trước khi chạy về phía ngôi nhà. “Anh mang theo một chú mèo à?”
Linus há hốc nhìn anh ta. “Anh nói chuyện được…”
“Với Sal à?” Anh Parnassus hỏi. “Dĩ nhiên là tôi nói được. Cháu nó là một trong mấy đứa trẻ nhà tôi. Phải biết… Talia, cảm ơn con vì đã dẫn khách đi thăm xung quanh nhà. Con tốt bụng lắm. Và Chauncey nữa. Ta nghĩ chắc chẳng có nhân viên hành lý nào tài giỏi hơn con trên thế gian này đâu.”
“Thật ạ?” Chauncey líu lo, hai mắt đong đưa trên cuống. “Trên khắp thế gian này ư?” Thằng bé ưỡn ngực. Hoặc, đúng hơn là, trông như đang ưỡn ngực. Linus không chắc được là cậu bé có ngực hay không nữa. “Cậu có nghe thấy không, Talia? Trên khắp thế gian đấy.”
Talia khịt mũi. “Mình nghe thấy rồi. Chẳng mấy chốc cậu sẽ có khách sạn của riêng mình đấy.” Cô bé ngước lên nhìn Linus trong lúc vuốt râu. “Chú được chào đón ở đây vì cháu đã không lấy xẻng đập vào đầu chú khi cháu có cơ hội đấy.” Con bé hơi nhăn mặt khi anh Parnassus nói với nó bằng giọng trầm thấp, khàn khàn, nghe như thể anh ta đang bị nghẹn.
Mất một lúc Linus mới nhận ra anh đang nói tiếng Thần vườn.
Talia thở dài một hơi vĩ đại và cường điệu. “Cháu xin lỗi, chú Baker. Cháu hứa cháu sẽ không lấy xẻng đập đầu chú nữa. Vào hôm nay.”
Và nói xong, con bé cùng Chauncey đi xuống bậc thang và hướng về phía nhà chính.
Linus cảm thấy cơn rùng mình ớn lạnh chạy dọc sống lưng khi anh nghe tiếng ván sàn cọt kẹt sau lưng. Lucy xuất hiện cạnh họ, ngẩng lên mỉm cười điên loạn với Linus. Thằng bé dường như không chớp mắt.
“Sao vậy?” Linus khản giọng hỏi. “Ờm, chú giúp được gì cho cháu?”
“Không,” Lucy nói, nụ cười ngoác rộng hơn. “Chú không giúp được đâu. Không ai giúp được cháu hết. Cháu là cha đẻ của rắn rết. Là khoảng không trong…”
“Đủ rồi đấy,” Anh Parnassus nhẹ nhàng nói. “Lucy, đến lượt con giúp bà Chapelwhite trong bếp rồi. Con đang chậm trễ rồi đấy. Đi ngay thôi nào.”
Lucy vừa thở dài vừa rũ người. “Ôi! Thật ạ?”
“Thật đấy,” anh Parnassus nói, cúi xuống vỗ vai thằng bé. “Nhấc chân lên đi nào. Con biết bà ấy không thích mỗi lần con trốn tránh trách nhiệm mà.”
Lucy vừa lầm bầm càu nhàu vừa nhảy xuống mấy bậc thang. Khi xuống bậc cuối nó ngoái đầu qua vai liếc Linus. Linus cảm thấy đầu gối mình lẩy bẩy.
“Thằng bé giả vờ đấy,” anh Parnassus nói. “Thật ra cháu nó thích làm việc trong bếp lắm. Tôi nghĩ nó chỉ đang diễn cho anh xem thôi. Đứa trẻ ấy thật là một mầm non của giới giải trí.”
“Tôi nghĩ tôi phải ngồi xuống đã,” Linus nói, thấy mình tê dại.
“Dĩ nhiên rồi,” anh Parnassus ung dung nói. “Anh đã có một ngày vất vả rồi.” Anh ta nhìn xuống cổ tay, kéo tay áo lên để lộ một cái đồng hồ đeo tay lớn. “Bữa tối là vào lúc bảy rưỡi nên anh có chút thời gian để thu xếp. Bà Chapelwhite đã chuẩn bị một bàn tiệc thay lời chào mừng tới Marsyas dành cho anh. Bà ấy bảo tôi sẽ có bánh nướng tráng miệng. Tôi thích bánh nướng lắm luôn.” Anh ta lại nắm lấy tay Linus trong tay mình, khẽ siết lấy. Linus ngẩng lên nhìn anh ta. “Tôi biết tại sao anh lại đến đây,” anh ta khẽ nói. “Và tôi biết quyền hành nằm trong tay anh. Tất cả những gì tôi cầu xin là anh hãy nghĩ thoáng ra, anh Baker ạ. Anh có thể vì tôi mà làm vậy không?”
Linus rụt tay về, cảm thấy chao đảo. “Tôi sẽ làm việc mình phải làm.”
Anh Parnassus gật đầu. Trông anh ta như thể sắp sửa nói thêm điều gì khác nhưng rồi lại lắc đầu. Anh ta quay đi, bước xuống khỏi hiên, nối gót lũ trẻ đi vào bóng đêm.
Anh ta không hề nhìn lại.
Linus hầu như không nhớ nổi quãng đường đi dọc hành lang về phòng ngủ. Anh cảm thấy như thể mình đang mắc kẹt trong một giấc mơ quái lạ, một giấc mơ anh không biết phải thoát ra như thế nào. Cảm giác ấy dai dẳng đeo bám trong lúc anh đi qua phòng tắm nhỏ xinh, chỉ để thấy đồ vệ sinh cá nhân của mình đã được xếp trên kệ dưới gương.
“Hả?” Anh hỏi vào không trung.
Phòng ngủ ở cuối hành lang nhỏ nhưng đủ dùng. Có một cái bàn quay về phía cửa sổ để mở nhìn ra vách đá lơ lửng trên biển. Một cái ghế xếp gọn vào bàn. Gần thứ trông như cánh tủ quần áo là tủ ngăn kéo nhỏ. Một cái giường phủ tấm chăn ngoại cỡ áp vào bức tường đối diện. Calliope đang nằm trên gối, đuôi cuộn lại quanh người. Cô ả mở một con mắt khi anh bước vào, theo dõi cử động của anh.
Anh đang mở miệng chuẩn bị nói chuyện với con mèo thì câu chữ nghẹn lại trong cổ.
Va li của anh đặt trên giường, mở toang và trống không. Anh vội lao đến bên nó. “Đồ đạc của tao đâu rồi?”
Calliope ngáp dài và vùi mặt vào chân, hít thở thật sâu.
Hồ sơ về lũ trẻ và anh Parnassus vẫn an toàn nằm trong ngăn phụ, khóa kéo vẫn đóng. Trông có vẻ không ai táy máy với chúng. Nhưng quần áo của anh đã biến mất, và cả…
Anh hoảng loạn nhìn quanh.
Ở đằng kia, trên sàn, gần cái bàn, là hai cái bát của Calliope. Một cái đã có nước, cái kia có đồ ăn, túi đồ ăn đặt bên cạnh bàn. Trên bàn là cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH của anh.
Anh đi tới tủ quần áo và mở toang cửa.
Áo sơ mi, cà vạt, quần âu của anh đã được cẩn thận treo lên mắc. Bên cạnh chúng là cái áo khoác anh mua, dù anh đã không chắc là mình sẽ cần đến nó.
Đôi giày lười dự phòng đang đặt dưới sàn.
Mặc kệ cửa tủ mở toang, anh tới bên tủ nhỏ. Trong ngăn kéo, tất và đồ lót của anh đã được xếp gọn gàng.
Ngăn kéo ở ngay dưới chứa đồ ngủ và bộ đồ ngày thường duy nhất anh mang theo, là quần và áo pô-lô.
Anh chậm rãi lùi xa khỏi tủ ngăn kéo tới khi chân chạm vào mép giường. Anh ngồi thụp xuống, nhìn tủ ngăn kéo và tủ quần áo chằm chằm.
“Tao nghĩ,” anh nói với Calliope, “là tao đã lún sâu quá rồi.” Cô ả không bày tỏ ý kiến bằng bất cứ hành động nào.
Lắc đầu, anh với tay lấy va li, lôi hồ sơ ra và đặt lên đùi.
“Thật ngu xuẩn,” anh lầm bầm. “Lần sau, phải biết trước việc mà mày đang nhúng tay vào chứ.”
Anh hít một hơi thật sâu trước khi mở tập hồ sơ trên cùng ra.
“Ồ!” Anh cảm thán, có chút thì thào, khi đọc về một chú Wyvern tên Theodore.
“Cái gì cơ?” Anh nghẹn lời khi mở tập hồ sơ của cậu bé mười bốn tuổi tên Sal.
Anh không thể nói được gì về Talia, dù một giọt mồ hôi lăn xuống trán anh.
Anh đã đoán đúng về Phee. Một Tinh linh giữ rừng, và còn là một Tinh linh hùng mạnh.
Anh co rúm lại trước những gì mình đọc được về cậu bé tên Chauncey. Thằng bé mười tuổi, và bên cạnh chữ Mẹ, là chữ KHÔNG RÕ. Thông tin về cha thằng bé cũng tương tự. Và chủng loại của nó nữa. Trông có vẻ như không một ai biết một cách chính xác Chauncey thực sự là cái gì. Và giờ khi Linus đã tận mắt thấy thằng bé, anh cũng không dám chắc.
Ban Quản Lý Thượng Tầng đã nói đúng.
Lũ trẻ không giống bất kỳ thứ gì anh từng thấy trước kia.
Anh vô cùng nghiêm túc cân nhắc việc lờ đi lời mời ăn tối và trùm tấm chăn nặng nề qua đầu, ngăn cách mình khỏi thế giới lạ lùng mà anh đã phát hiện ra. Có lẽ nếu đi ngủ, mọi chuyện sẽ hợp lý hơn khi anh tỉnh dậy.
Nhưng rồi bụng anh reo vang, và Linus nhận ra mình đã đói. Thậm chí là đói ngấu.
Anh chọc cái bụng thiếu tế nhị của mình. “Mày có cần phải vậy không?”
Nó lại sôi ùng ục. Anh thở dài.
Đó là lý do tại sao anh thấy mình đứng trước cửa trước nhà chính, gom góp dũng khí. “Chẳng khác gì những nhiệm vụ khác cả,” anh lầm bầm với bản thân. “Mày đã ở trong tình huống này trước kia rồi. Tiếp tục thôi, anh bạn già. Mày làm được mà.”
Anh vươn tay lên đập núm gõ kim loại lên cửa ba lần.
Và chờ đợi.
Một phút sau, anh lại gõ cửa. Vẫn không có ai trả lời.
Anh vừa quệt mồ hôi khỏi trán vừa lùi lại, nhìn sang hông nhà. Nhìn qua cửa sổ thì đèn vẫn sáng, nhưng trông chẳng thấy ai đang đi ra cửa cả.
Anh vừa lắc đầu vừa lần nữa tiến bước tới cửa. Sau khi lưỡng lự trong chốc lát, anh vươn tay về phía nắm đấm. Nắm đấm cửa dễ dàng xoay vòng trong tay anh, và anh đẩy một cái.
Cánh cửa mở ra.
Bên trong là một tiền sảnh có hai cánh cầu thang rộng rãi dẫn lên tầng hai. Tay vịn lan can làm bằng gỗ bóng mượt. Một chùm đèn khổng lồ treo trên trần sảnh, những viên pha lê lấp lánh trong ánh đèn. Anh thò đầu qua khe cửa, dỏng tai nghe ngóng.
Anh nghe thấy… tiếng nhạc? Rất khẽ, nhưng vẫn là tiếng nhạc. Anh không nghe được ra là bài hát gì, nhưng giai điệu có cảm giác quen thuộc sao đó.
“Xin chào?” anh hô lên. Không có ai trả lời.
Anh bước vào trong nhà, đóng cửa lại sau lưng.
Ở phía bên phải là một phòng khách là một cái sô pha khổng lồ nhồi căng đặt trước một lò sưởi đang tắt lửa. Có một bức tranh treo trên lò sưởi, một bức chân dung tùy hứng vẽ những xoáy nước xoay vòng. Anh nghĩ mình thấy vải bèo nhún quây chân sô pha lay động, nhưng không dám chắc liệu có phải do ánh đèn tù mù làm mình hoa mắt hay không.
Trước mặt là hai cánh cầu thang.
Ở bên trái là một phòng ăn trang trọng, nhưng trông có vẻ như không được sử dụng. Chùm đèn nhỏ hơn treo trên bàn ăn đang tắt, và trên bàn để đầy sách vở, trông khá cũ.
“Xin chào?” anh lại thử gọi. Chẳng ai trả lời.
Anh làm điều duy nhất mình có thể làm. Anh đi về phía có tiếng nhạc.
Càng đến gần, các nốt nhạc càng rõ ràng, tiếng trumpet trầm và sắc, một giọng nam ngọt ngào ngân nga rằng đâu đó ở ngoài khơi xa, nàng ấy đang ngóng đợi ta.
Linus có cái đĩa than này. Anh yêu thích nó vô cùng.
Trong khi Bobby Darin hát về việc đứng trên bãi cát vàng nhìn tàu bè qua lại, Linus bước đi trong mơ màng, ngón tay lướt dọc những cuốn sách trên bàn. Anh hầu như chẳng nhìn xuống tựa sách, vì đã bị tiếng lạo xạo đặc trưng của một chiếc đĩa than đang xoay vòng hớp hồn.
Anh đi tới hai cánh cửa mở hai chiều, có ô kính ở giữa. Anh kiễng chân lên, ngó qua cửa kính.
Căn bếp sáng sủa và rộng rãi. Nơi này rộng hơn bất kỳ căn bếp nào anh từng thấy trước kia. Anh tin chắc rằng toàn bộ nhà khách có thể nhét vừa vào trong đây, và vẫn còn thừa chỗ. Bóng đèn treo thả từ trần xuống được bọc trong những quả cầu thủy tinh trông như chậu cá vàng. Anh có thể thấy một cái tủ lạnh khổng lồ đặt cạnh bếp lò cỡ công nghiệp. Mặt quầy đá hoa cương sạch bong sáng bóng, và…
Hàm anh rớt xuống.
Bà Chapelwhite đang di chuyển qua lại trong bếp, chân hầu như không chạm sàn. Cặp cánh lấp lánh sau lưng bà, tỏa sáng hơn nhiều so với cánh của Phee. Chúng phấp phới theo từng bước chân bà.
Nhưng chính người còn lại trong bếp mới khiến Linus chú ý hơn cả.
Lucy đang đứng trên một cái ghế thang đặt trước quầy bếp. Thằng bé cầm con dao nhựa trong tay và đang thái cà chua, rồi thả vào một cái tô màu hồng bên tay trái.
Và nó đang nhún nhảy cùng Bobby Darin. Khi tiếng hòa tấu bùng lên giữa bài hát, trống đánh dồn dập, kèn thổi om sòm, nó rung lắc cả người cùng lúc với nhịp nhạc. Bobby lại bước vào, nói rằng ông tin chắc, rằng trái tim sẽ dắt mình đến nơi ấy.
Và Lucy đang ngửa đầu ra sau, vừa rống lên lời ca vừa nhảy nhót.
Bà Chapelwhite đang hòa ca với thằng bé, xoay vòng trong bếp và thoắt ẩn thoắt hiện khỏi tầm mắt anh.
Khi ấy cảm giác hão huyền tràn qua Linus, như một con sóng ngược dòng khiến anh thấy như mình đang bị cuốn chìm xuống. Anh không hít thở nổi.
“Chú đang làm gì vậy?” một giọng nói thì thầm sau lưng anh. Linus bật ra một tiếng éc tắc nghẹn và quay lại để thấy Phee và
Talia đứng đằng sau mình. Phee đã tắm rửa, mái tóc đỏ rực như lửa,
những đốm tàn nhang nổi bật hơn. Cặp cánh của con bé đang khép lại sau lưng.
Talia đã đổi sang một bộ quần áo khác, dù bộ này đặc biệt giống bộ con bé mặc lúc nãy, chỉ không có mũ. Bộ tóc trắng, dài thả xuống vai, mang cùng chất màu óng mượt như bộ râu của nó.
Cả hai đứa đều ngẩng lên nhìn anh đầy ngờ vực. Linus không biết phải nói gì. “Chú…”
“Đang rình mò à?” Phee gợi ý.
Anh cứng người. “Chắc chắn là không…”
“Ở đây chúng cháu không thích gián điệp đâu,” Talia tà ác nói. “Người ta không nghe được tin tức gì từ gã gián điệp cuối cùng cố thâm nhập vào nhà chúng cháu nữa.” Con bé nghiêng tới trước, nheo mắt lại. “Vì chúng cháu đã nấu hắn lên và ăn thịt hắn vào bữa tối rồi.”
“Các con có làm những chuyện đó đâu,” anh Parnassus nói, hiện ra từ hư không. Linus bắt đầu hiểu ra rằng đó là mánh khóe gì đó anh ta sử dụng. Từ lúc nào không hay, anh ta đã cởi áo khoác. Giờ anh ta mặc một cái áo len dày, mép tay áo trùm qua mu bàn tay. “Vì chúng ta chưa bao giờ có cái may mắn được tiếp đón một gián điệp nào. Một gián điệp là người có khả năng trà trộn vào mà không để lộ mục đích của mình. Bất kỳ ai từng tới đây đều đã bày tỏ ý định của mình vô cùng rõ ràng. Phải không nào, anh Baker?” “Vâng,” anh nói. “Rất đúng.”
Anh Parnassus mỉm cười. “Vả lại, chúng tôi không hãm hại khách đến chơi. Chắc chắn là không đến mức giết chóc. Như vậy thì bất lịch sự quá.”
Nghe vậy chẳng khiến Linus thấy khá hơn chút nào.
Bài “Beyond the Sea” chuyển sang lời ca của Bobby về việc muốn có một cô nàng để gọi là em yêu để ông không phải nằm mộng một mình nữa.
“Chúng ta vào chứ?” anh Parnassus hỏi. Linus gật đầu.
Họ đều nhìn anh chằm chằm.
Mất một lúc anh mới nhận ra rằng mình đang đứng chắn cửa. Anh bước sang một bên. Phee và Talia tông qua cửa chạy vào bếp. Anh Parnassus ngoái đầu qua vai gọi, “Theodore! Ăn tối nào!”
Linus nghe thấy tiếng sột soạt ồn ào vang lên từ phòng khách. Anh nhìn qua anh Parnassus vừa kịp lúc để thấy Theodore lao ra từ dưới sô pha, vấp cánh ngã nhào. Thằng bé gầm gừ trong lúc lăn lông lốc, đuôi đập chan chát lên sàn. Nó nằm ngửa ra trong chốc lát, thở hổn hển.
“Chậm và chắc thôi, Theodore,” anh Parnassus ân cần nói. “Chúng ta có bao giờ bắt đầu ăn khi chưa có mặt con đâu.”
Theodore thở dài (có thể là vậy, Linus không dám chắc) và đứng thẳng dậy. Nó kêu chiêm chiếp khi rón rén đứng lên trên hai chân sau, vô cùng cẩn thận gập cánh vào sau lưng, cánh phải trước, rồi tới cánh trái. Thằng bé thử tiến lên một bước, móng vuốt trượt trên sàn gỗ rồi mới tìm được điểm bám.
“Cháu nó thích bay lượn đi khắp nơi hơn,” anh Parnassus thì thầm với Linus. “Nhưng mỗi khi đến giờ ăn, tôi yêu cầu thằng bé đi bộ.”
“Tại sao?”
“Vì nó phải quen với việc đặt chân xuống đất. Nó không thể lúc nào cũng bay lượn được. Thằng bé sẽ mệt mỏi, đặc biệt là khi nó còn bé đến thế. Nhỡ có lúc lâm vào hiểm cảnh, nó cần phải học cách dùng chân cũng như dùng cánh vậy.”
Linus giật mình. “Hiểm cảnh ư, tại sao nó lại…”
“Trên thế gian này còn lại bao nhiêu Wyvern, hả anh Baker?”
Lời ấy nhanh chóng khiến Linus câm nín. Câu trả lời, dù anh không nói được chính xác, là không nhiều lắm.
Anh Parnassus gật đầu. “Chính thế.”
Theodore bước những bước khoa trương về phía họ, đầu nghiêng về một bên. Khi đến đứng dưới chân họ, thằng bé ngước lên nhìn anh Parnassus, kêu chiêm chiếp, và xòe cánh ra.
“Đúng rồi, đúng rồi,” anh Parnassus nói, cúi xuống vuốt một ngón tay dọc mũi nó. “Ấn tượng lắm. Ta tự hào về con, Theodore ạ.”
Nó lại xếp cánh vào, rồi ngước lên nhìn Linus trước khi cúi xuống khẽ cắn lên mũi một bên giày lười của anh.
Anh Parnassus nhìn anh đầy mong chờ.
Linus không rõ lắm là chờ điều gì.
“Thằng bé đang cảm ơn anh vì cái cúc áo đấy.”
Linus muốn nó đừng gặm mình để tỏ lòng biết ơn hơn, nhưng đã quá muộn để nói vậy. “Ồ! À thì, cháu không cần… khách sáo?”
Theodore lại kêu chiêm chiếp và đi qua cánh cửa anh Parnassus đẩy mở cho nó.
“Chúng ta vào chứ?” anh ta hỏi Linus. Linus gật đầu và đi qua cửa vào bếp.
Có một bàn ăn khác đặt ở đầu kia căn bếp. Bàn này trông như được sử dụng thường xuyên hơn cái bàn trong phòng ăn trang trọng. Có một tấm khăn trải bàn hơi sờn trải lên trên, được chặn lại bởi những bộ đồ ăn. Ba cái đĩa và một bộ dao dĩa bằng bạc đặt ở một bên bàn. Bốn bộ đồ ăn xếp ở phía bên kia, dù một bộ không có thìa hay dĩa. Và có hai bộ đặt ở hai đầu bàn. Nến đã được thắp lên và đang hấp háy.
Ở chính giữa bàn, đồ ăn chất lên cao vút. Anh thấy khoai tây cắt lát bỏ lò, bánh mì và một loại thịt nào đó anh không thể nhìn ra. Có rau xanh ăn lá. Số cà chua Lucy đã cắt trông như những con bọ cánh đỏ dưới ánh nến.
Một bữa tiệc dành cho anh, họ nói với anh như vậy. Linus tự hỏi liệu đồ ăn có độc không.
Hầu hết lũ trẻ đã ngồi vào bàn. Chauncey ngồi ở giữa, Phee và Talia ngồi hai bên thằng bé. Đối diện ba đứa là Theodore (leo lên cái ghế trước đĩa không có dĩa hay thìa) và bà Chapelwhite. Bên cạnh bà là một cái ghế trống, rồi tới Sal. Thằng bé liếc lại Linus, nhận ra anh đang nhìn nó, và rồi mau chóng quay đi, cúi gằm mặt, mân mê khăn trải bàn.
Anh Parnassus ngồi ở một đầu bàn.
Như vậy khiến đầu còn lại là chỗ trống duy nhất, vì Linus chắc chắn là sẽ không ngồi cạnh Sal. Đứa trẻ tội nghiệp có lẽ sẽ không ăn nổi một miếng nếu anh làm vậy.
Không ai mở miệng khi anh đến gần. Anh kéo ghế ra, chân ghế ken két cọ lên sàn. Anh nhăn mặt, hắng giọng, và ngồi xuống. Anh ước gì Bobby vẫn đang hát lên để đánh lạc hướng mọi người khỏi bầu không khí ngượng nghịu này, nhưng anh không thấy đầu đĩa than ở đâu cả.
Anh giở khăn ăn đặt cạnh đĩa ra và trải lên đùi. Ai cũng nhìn anh chằm chằm.
Anh ngọ nguậy trên ghế.
Lucy đột ngột xuất hiện bên cạnh Linus khiến anh giật bắn mình tại chỗ. “Ôi trời!” Anh nói.
“Thưa chú Baker,” Lucy ngọt ngào nói. “Cháu lấy đồ uống cho chú nhé? Nước quả chăng? Hay trà?” Thằng bé nghiêng tới trước và hạ giọng. “Hay là máu của đứa trẻ sơ sinh ra đời ở nghĩa địa vào đêm trăng tròn?”
“Lucy!” anh Parnassus cảnh cáo.
Lucy nhìn Linus chằm chằm. “Dù chú có muốn gì, cháu cũng phục vụ được hết,” nó thì thầm.
Linus yếu ớt húng hắng. “Nước lọc. Nước lọc là được.”
“Một cốc nước lọc đến đây!” Nó vươn tay, chộp lấy cái cốc rỗng đặt cạnh đĩa của Linus. Nó mang cốc ra bồn rửa, leo lên ghế thang. Nó chăm chú lè cả lưỡi ra (qua khoảng trống nơi từng có hai cái răng cửa) trong lúc mở vòi nước. Khi cốc đã đầy, nó vừa bê bằng cả hai tay vừa leo xuống ghế thang. Nó chẳng làm rớt giọt nào khi đưa cốc cho Linus.
“Đây,” nó nói. “Chú đừng khách sáo! Và cháu còn không nghĩ đến chuyện đày linh hồn chú xuống địa ngục vạn kiếp hay gì đâu nhé!”
“Cảm ơn cháu,” Linus xoay sở nói ra. “Cháu tử tế quá.”
Lucy phá lên cười rồi đi tới ghế trống còn lại, tiếng cười mà Linus tin chắc là sẽ ám ảnh anh đến hết đời. Sal kéo ghế ra cho thằng bé. Trên ghế đặt một ghế đệm trẻ con. Lucy leo lên đệm, và Sal đẩy ghế vào bàn, vẫn cụp mắt nhìn xuống.
Anh Parnassus mỉm cười với lũ trẻ. “Tuyệt vời. Như tất cả các con đã biết, nhà chúng ta có khách, dù ai đó quyết định giấu ta chuyện người này đã tới nơi.”
Lucy chỉ hơi hơi lẩn xuống trên ghế đệm trẻ em.
“Chú Baker ở đây là để đảm bảo rằng các con đều khỏe mạnh và hạnh phúc,” anh Parnassus tiếp tục nói. “Ta yêu cầu các con đối xử với chú ấy như đối xử với ta hoặc bà Chapelwhite. Tức là một cách kính trọng. Nếu ta biết được bất kỳ đứa nào đã làm gì… bất lịch sự, đứa ấy sẽ mất đi vài đặc quyền. Rõ cả chưa?”
Lũ trẻ gật đầu, bao gồm cả Theodore.
“Tốt rồi,” anh Parnassus nói, khẽ mỉm cười. “Giờ thì, trước khi chúng ta ăn, hãy kể một điều các con học được ngày hôm nay. Phee?”
“Con học được cách khiến tán lá rậm rạp hơn,” Phee nói. “Cần phải tập trung dữ lắm, nhưng con đã làm được.”
“Thật tuyệt vời. Ta biết con làm được mà. Chauncey?”
Hai nhãn cầu của thằng bé va vào nhau. “Con tự mình sắp xếp được hành lý! Và con được cho tiền boa!”
“Ấn tượng đấy. Ta nghĩ chẳng có hành lý nào từng được sắp xếp chỉn chu như con đã làm đâu. Talia, mời con.”
Talia vuốt râu. “Nếu con đứng thật im, người lạ sẽ tưởng con là bức tượng.”
Linus mắc nghẹn cuống lưỡi của chính mình.
“Thật là mở mang tầm mắt,” anh Parnassus nói, một tia lấp lánh lóe lên trong mắt. “Theodore?”
Thằng bé chíp chíp và gầm gừ, ngả đầu lên mặt bàn. Mọi người đều bật cười.
Đấy là trừ Linus ra, vì anh không rõ chuyện gì đã xảy ra.
“Thằng bé biết được rằng cúc áo là thứ tuyệt vời nhất trên thế gian này,” bà Chapelwhite nói với Linus, âu yếm nhìn xuống Theodore. “Và tôi học được rằng mình vẫn còn phán xét người ta qua vẻ bề ngoài của họ, dù lẽ ra tôi phải khôn ngoan hơn chứ.”
Linus hiểu ngay lời ấy là dành cho ai. Anh nghĩ đó là điều gần nhất với xin lỗi mà anh sẽ nghe được từ miệng bà.
“Có đôi khi,” anh Parnassus nói, “định kiến ảnh hưởng lên suy nghĩ của chúng ta khi chúng ta không ngờ tới nhất. Nếu chúng ta nhận ra được điều đó và rút kinh nghiệm, chúng ta có thể trở thành một con người tốt hơn. Lucy?”
Linus thấy miệng mình khô ran. Anh cầm cốc nước lên.
Lucy ngẩng lên nhìn trần nhà, và nói bằng giọng đều đều, “Con biết được rằng con là thứ mang tới chết chóc và là kẻ hủy diệt thế gian.”
Linus phun nước lên mặt bàn trước mặt. Mọi người lại chậm rãi quay ra nhìn anh.
“Xin lỗi nhé,” anh vội vàng nói. Anh lấy khăn ăn từ đùi lên lau mặt đĩa. “Nước trào xuống nhầm đường.”
“Quả là vậy,” anh Parnassus nói. “Cứ như thể có ai mưu tính khiến anh bị sặc vậy. Lucy? Ta có nên thử lại lần nữa không nhỉ?”
Lucy thở dài. “Một lần nữa con học được rằng mình không chỉ là thân xác này.”
“Dĩ nhiên là không rồi. Con còn là nhiều điều hơn nữa kìa. Sal?”
Sal liếc Linus, rồi cụp mắt xuống. Môi thằng bé động đậy, nhưng Linus không nghe được ra là nó đang nói gì.
Anh Parnassus cũng không nghe thấy nó, hay có vẻ là vậy. “Nói to hơn nào, con ơi. Để chúng ta nghe được lời con.”
Vai Sal trễ xuống. “Con biết được rằng con vẫn bị những người mình không quen biết dọa sợ.”
Anh Parnassus vươn tay qua siết cánh tay nó. “Và như vậy cũng chẳng sao hết. Vì ngay cả những người dũng cảm nhất trong chúng ta đôi khi vẫn có thể sợ hãi, miễn là chúng ta không để nỗi sợ biến thành tất cả những gì mình biết là được.”
Sal gật đầu nhưng không ngẩng lên.
Anh Parnassus ngồi lại vào ghế, nhìn qua bàn về phía Linus. “Về phần ta, ta học được rằng những món quà tới với chúng ta dưới mọi hình dạng và kích thước, và tới vào lúc chúng ta ít mong đợi nhất. Anh Baker thì sao? Anh đã học được điều gì hôm nay?”
Linus cựa quậy trên ghế. “Ồ, tôi nghĩ tôi không nên… Tôi ở đây để quan sát. Thật không phải phép nếu tôi…”
“Đi mà, chú Baker?” Chauncey nhóp nhép nói, xúc tu lén lút trườn trên mặt bàn, giác mút dính lên khăn trải bàn khiến vải rúm ró lại. “Chú phải phát biểu đi thôi.”
“Đúng vậy, chú Baker ạ,” Lucy nói bằng giọng điệu chết chóc. “Chú tuyệt đối phải khai ra. Cháu không muốn nghĩ tới chuyện sẽ xảy ra nếu chú không nói đâu. Chà chà, làm vậy có thể sẽ khiến đại dịch châu chấu bùng phát đấy. Chú không muốn như thế đâu, phải không?”
Linus cảm thấy máu rút khỏi mặt mình.
“Các con,” ngài Parnassus quở trách trong khi bà Chapelwhite che miệng cười. “Để chú ấy nói nào. Và Lucy, chúng ta đã thảo luận về đại dịch châu chấu rồi. Con chỉ có thể thực hiện việc ấy khi có người trực tiếp giám sát con thôi. Anh Baker?” Họ nhìn anh vẻ mong chờ.
Trông có vẻ như anh không thoát khỏi việc này được rồi. Anh nói điều đầu tiên nảy ra trong đầu. “Tôi… Tôi biết được rằng có những thứ trên thế gian này thách thức trí tưởng tượng của mình.”
“Thứ?” Talia nói, nheo mắt. “Và những thứ này là gì?”
“Đại dương,” Linus vội vã trả lời. “Đúng vậy, là đại dương. Tôi chưa bao giờ thấy biển trước đây. Và tôi đã luôn muốn điều ấy. Nó… Nó còn rộng lớn hơn những gì tôi thấy được.”
“Ồ!” Talia nói. “Thật… nhàm chán quá đi. Giờ chúng ta ăn được chưa ạ? Con đói lắm rồi.”
“Được rồi,” anh Parnassus nói, vẫn chưa từng rời mắt khỏi Linus. “Dĩ nhiên rồi, các con xứng đáng được no nê.”
Tuy tình huống mà Linus phát hiện ra mình đang góp mặt vào khá là kỳ lạ nhưng bữa tối diễn ra khá suôn sẻ trong mười phút đầu. Chính vào lúc anh đang ăn mớ salad trên đĩa của mình (và không nghe theo tiếng gọi của món khoai, dù nó có kêu gọi ầm ĩ đến đâu), thì sự suôn sẻ ấy bắt đầu phanh lại.
Mọi chuyện bắt đầu, dĩ nhiên, từ Talia.
“Chú Baker?” con bé hỏi, vẻ ngây thơ. “Chú không muốn ăn gì khác ngoài ăn salad sao?”
“Không đâu,” anh nói. “Cảm ơn cháu. Chú thấy ổn lắm.”
Nó khẽ ậm ừ. “Chú chắc không? Một người có khổ người như chú không thể chỉ sống bằng đồ ăn cho thỏ được đâu.”
“Talia,” anh Parnassus nói. “Để chú Baker…”
“Chính vì khổ người của chú đấy,” Linus xen ngang, không muốn người khác lại nói đỡ cho mình. Nói cho cùng, anh là người phụ trách ở đây cơ mà. Và lũ trẻ biết điều ấy càng sớm thì càng tốt.
“Khổ người của chú có vấn đề gì ư?” Talia nói. Anh đỏ mặt. “Nó thừa thãi quá mức.”
Con bé cau mày. “Béo tròn thì có làm sao đâu.” Anh xiên một quả cà chua bi. “Chú không…” “Cháu béo tròn này.”
“À thì, đúng vậy. Nhưng cháu là Thần vườn. Theo lý thì cháu phải béo tròn như vậy.”
Nó nheo mắt nhìn anh. “Vậy tại sao chú không thể?” “Không phải. Đây là vấn đề về sức khỏe. Chú không thể…”
“Cháu muốn được béo tròn,” Lucy tuyên bố. Và rồi nó béo thật. Một giây trước thằng bé là đứa nhóc nhỏ bé gầy gò ngồi trên ghế đệm trẻ em, và giây sau, nó bắt đầu phình lên như bóng bay, ngực căng ra, xương kêu răng rắc đầy ghê tởm. Mắt nó lồi ra khỏi đầu, và Linus tin chắc rằng chúng chuẩn bị văng lên trên bàn. “Xem này!” Nó nói qua đôi môi mím chặt. “Mình hoặc là Thần vườn hoặc là chú Baker.”
“Tại sao chú chưa bao giờ thấy biển?” Phee hỏi trong khi Linus kinh hoàng nhìn Lucy. “Biển lúc nào cũng ở đó mà. Biển chẳng bao giờ đi đâu hết. Nó quá to nên không di chuyển được đâu.”
Lucy xẹp xuống, xương cốt tự sắp xếp lại tới khi thằng bé lại chỉ còn là một đứa trẻ sáu tuổi. “Đúng vậy đấy,” nó đồng tình, như thể không phải nó vừa phình to ra gấp ba lần. “Cháu thử rồi mà.”
“Đó quả là một ngày kỳ lạ,” Chauncey nói, dùng xúc tu đút một miếng khoai qua miệng. Linus nhìn nó trôi xuống trong người thằng bé, hiện rõ mồn một dù ám màu xanh lá. Miếng khoai bắt đầu tan ra thành từng hạt nhỏ. “Rất nhiều cá đã chết. Và rồi cậu khiến chúng sống lại. Hầu hết bọn chúng thôi.”
“Chỉ là chú… Chú chưa bao giờ có thời gian,” Linus nói, cảm thấy choáng váng. “Chú… có quá nhiều trách nhiệm. Chú có một công việc quan trọng và…”
Theodore tấn công món thịt bà Chapelwhite đã đặt lên đĩa của thằng bé, gầm gừ trầm thấp trong cổ họng.
“Arthur nói là chúng cháu nên luôn luôn dành thời gian cho những thứ mình yêu thích,” Talia nói. “Nếu không, chúng cháu có thể sẽ quên đi cách khiến bản thân hạnh phúc. Chú không hạnh phúc sao, chú Baker?”
“Chú hoàn toàn hạnh phúc nhé.”
“Chú đâu có hạnh phúc khi mình béo tròn,” Phee nói. “Nên chú không thể hoàn toàn hạnh phúc được.” “Chú không béo tròn…”
“Công việc của chú là gì thế ạ, chú Baker?” Chauncey hỏi, mắt
nhún nhảy trên cuống. “Chú làm việc trong thành phố à?”
Linus không còn thấy đói nữa. “Chú… Đúng rồi. Chỗ ấy ở trong thành phố.”
Chauncey mơ màng thở dài. “Cháu thích thành phố lắm. Từng ấy cái khách sạn cần nhân viên hành lý. Nghe như là thiên đường vậy.”
“Cậu đã bao giờ lên thành phố đâu,” Lucy nhắc nhở thằng bé.
“Thì sao nào? Mình có thể yêu thích một thứ ngay cả khi mình mới chỉ nhìn nó qua tranh ảnh. Chú Baker thích biển, và hôm nay chú ấy mới thấy biển lần đầu tiên đó thôi!”
“Nếu chú ấy yêu thích nó đến vậy, sao chú ấy không cưới nó luôn nhỉ?” Phee hỏi.
Theodore chiêm chiếp qua một miệng đầy thịt. Lũ trẻ bật cười.
Ngay cả Sal cũng mỉm cười.
Trước khi Linus kịp hỏi, bà Chapelwhite đã nói, “Theodore mong là cậu và biển sẽ vô cùng hạnh phúc bên nhau.”
“Chú sẽ không kết hôn với đại dương…”
“Ôi!” Talia nói, mở to mắt, ria mép giần giật. “Bởi vì chú đã có gia đình, đúng không?”
“Chú có gia đình rồi ư?” Phee tra hỏi. “Vợ chú là ai? Cô ấy vẫn nằm trong va li của chú à? Tại sao chú lại để cô ấy trong đó? Cô ấy là nghệ sĩ uốn dẻo ạ?”
“Vợ chú có phải con mèo của chú không?” Lucy hỏi. “Cháu thích mèo, nhưng mèo không thích cháu.” Mắt nó bắt đầu đỏ rực lên. “Chúng sợ cháu ăn thịt chúng. Công bằng mà nói, cháu chưa từng ăn con mèo nào trước kia, nên cháu không biết thịt chúng có ngon không. Thịt vợ chú có ngon không, chú Baker?”
“Chúng ta không ăn thịt thú cưng, Lucy ạ,” anh Parnassus nói, nhã nhặn lau miệng.
Sắc đỏ ngay lập tức biến mất khỏi mắt Lucy. “Đúng vậy. Vì thú cưng là bạn. Và vì mèo của chú Baker là vợ chú ấy, nên nó kiểu như bạn thân nhất của chú ấy vậy.”
“Chính là vậy,” anh Parnassus nói, giọng nghe có vẻ khoái chí. “Không,” Linus nói. “Không hẳn là vậy. Sao nhỉ, tôi chưa bao
giờ…”
“Cháu thích mình béo tròn,” Talia tuyên bố. “Như vậy có nghĩa là cháu sẽ có nhiều phần để người khác yêu thương hơn.”
“Mình yêu cậu, Talia ạ,” Chauncey nói, ngả một mắt lên vai con bé. Chính con mắt đó lại chậm rãi xoay qua nhìn Linus. “Chú kể cho cháu nghe thêm về thành phố được không? Nơi ấy có rực rỡ về đêm không? Vì tất cả những ánh đèn ấy?”
Linus hầu như không theo kịp lũ trẻ. “Chú… Chú nghĩ là có, nhưng chú không thích ra đường vào buổi tối.”
“Vì những thứ ẩn trong bóng tối có thể lọc da rút gân chú à?” Lucy hỏi với cái miệng đầy bánh mì.
“Không,” Linus nói, cảm thấy hơi nôn nao. “Vì chú muốn ở nhà hơn bất kỳ nơi nào khác.” Giờ điều ấy càng đúng hơn bao giờ hết.
“Nhà là nơi anh cảm thấy được là chính mình nhất,” bà Chapelwhite nói, và Linus chỉ có thể đồng tình. “Với chúng ta cũng vậy, phải không, các cháu? Nhà là nơi chúng ta được làm con người thật của mình.”
“Vườn của cháu ở đây,” Talia nói.
“Khu vườn tuyệt vời nhất quả đất,” anh Parnassus nói. “Và cây cối của con nữa,” Phee thêm vào.
“Những thân cây tuyệt vời nhất,” anh Parnassus đồng tình.
Theodore chiếp chiếp, và bà Chapelwhite vuốt ve một trong hai cái cánh. “Cúc áo của cháu, đúng rồi. Nó cũng đang ở đây.”
“Một món quà dễ thương xiết bao,” anh Parnassus nói, mỉm cười với chú Wyvern.
“Và cháu còn có thể tập luyện làm nhân viên xách hành lý ở nơi nào khác ngoài ở nhà kia chứ?” Chauncey hỏi. “Chúng ta phải luyện tập thì mới giỏi được.”
“Có công mài sắt có ngày nên kim,” anh Parnassus nói.
“Và đây là nơi duy nhất trên thế giới này mà cháu không phải lo về đám mục sư ráng sức dí thập giá vào mặt cháu để tống khứ linh hồn cháu xuống hố sâu địa ngục,” Lucy tuyên bố. Nó vừa cười ha hả vừa nhồi thêm bánh mì vào miệng.
“Đám mục sư phiền phức, quả thật là vậy,” anh Parnassus nói. “Chú sẽ cướp đi mái ấm của chúng cháu ư?”
Cả bàn im bặt.
Linus chớp mắt. Anh nhìn quanh để tìm nguồn gốc của giọng nói kia và ngạc nhiên khi nhận ra nó phát ra từ Sal. Sal, đứa trẻ đang cúi xuống nhìn mặt bàn, hai tay siết lại thành nắm đấm. Miệng thằng bé mím lại thành một đường thẳng, và vai nó run rẩy.
Anh Parnassus vươn tới đặt tay lên một trong hai cổ tay của Sal. Một ngón tay dài vỗ vỗ lên mặt trong cổ tay Sal. Anh ta nói, “Đó không phải là dự định của chú Baker đâu. Ta nghĩ chú ấy chẳng bao giờ muốn chuyện như vậy xảy ra cả. Với ai cũng thế.”
Linus định phản đối, nhưng anh nghĩ làm vậy sẽ chẳng giúp được gì, nhất là đối với một đứa trẻ rõ ràng là bị sang chấn tâm lý. Và dù lời anh Parnassus nói không hẳn là sai, anh cũng không thích người nào khác nói đỡ cho mình.
Anh Parnassus nói tiếp. “Công việc của chú ấy là đảm bảo rằng ta đang làm đúng việc của ta. Và việc của ta là gì nào?”
“Là bảo vệ bọn con ạ,” đám trẻ đồng thanh đáp. Kể cả Sal.
“Chính xác,” anh Parnassus nói. “Và ta mong rằng mình đang làm tốt việc đó.”
“Vì thầy đã luyện tập ạ?” Chauncey hỏi.
Anh Parnassus mỉm cười với thằng bé. “Đúng vậy. Vì ta đã luyện tập. Và nếu ta có thể lên tiếng, các con sẽ không bao giờ phải chia ly.”
Đó là một lời thách thức, và Linus chẳng thèm quan tâm chút nào. “Tôi không nghĩ như vậy là đúng đắn…”
“Ai sẵn sàng ăn tráng miệng rồi nào?” bà Chapelwhite hỏi. Lũ trẻ bắt đầu hò reo.