“Tại sao lại là kiến trúc thời Nam Bắc triều?” Lý Du hơi khó hiểu. Là người học về xây dựng, anh cũng biết đôi chút về lịch sử kiến trúc cổ đại. Thanh Ngưu Quan này đã hư hỏng nặng, nên rất khó để dựa vào các chi tiết mà nhận ra phong cách kiến trúc của thời đại nào. Nhưng nhìn tổng thể, mặc dù đạo quán này đổ nát, nhưng chỉ riêng công trình cầu đá trên vách núi đã cho thấy đây là dự án lớn. Vào thời Nam Bắc triều, Đạo giáo còn tương đối suy yếu, việc xây dựng ngôi đạo quán như thế này không hề dễ dàng.
Nhưng triều đại Lý Đường thì lại khác. Lý Đường tôn Đạo giáo và ức chế Phật giáo, không những thế còn là thời kỳ thịnh vượng, kiến trúc đồ sộ và hoành tráng. Vì vậy, phong cách xây dựng đạo quán thời Đường thịnh chủ yếu mang hơi hướng của thời kỳ này.
“Vậy nên mới nói cậu không để ý chi tiết.” Nghe xong câu hỏi của Lý Du và ý kiến của anh, giáo sư Kỳ thở dài, nói: “Cậu ra ngoài xem ở cổng, có một tấm bia đá, trên đó ghi rõ năm tháng xây dựng đạo quán.”
Nghe vậy, Lý Du sửng sốt.
Mặc dù tin lời của giáo sư Kỳ, nhưng Lý Du vẫn chạy ra ngoài đạo quán để tìm tấm bia đá đã bị rêu phủ kín phần lớn.
Nội dung trên bia đá xác nhận lời của giáo sư Kỳ. Tấm bia ghi lại rằng đạo quán này được xây dựng vào năm Thái Khang thứ hai thời Tây Tấn, từng bị sét đánh hủy hoại, sau đó được trùng tu vào năm Thái Nguyên thứ bảy thời Đông Tấn.
Thái Khang là niên hiệu của Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm, được lấy sau khi diệt Đông Ngô và thống nhất Trung Nguyên. Nội dung và thời gian trên bia đá đều hợp lý. Nếu dựa vào đó mà nói, thì thời điểm xây dựng đạo quán này chắc chắn là vào thời Tây Tấn.
Tuy nhiên, điều khiến Lý Du bối rối nhất là, năm Thái Khang thứ hai, tức là ngay sau khi Tam Quốc phân tranh kết thúc, lúc đó Đạo giáo đã phát triển được một thời gian dài, nhưng việc xây dựng đạo quán thường ở những danh sơn đại xuyên hoặc thành thị phồn hoa. Vậy thì làm sao có người lại đến vùng núi hẻo lánh này để xây dựng một đạo quán như thế?