Sau đó, tiếng xấu của cha Phương lan xa ở quê, nói ông ta vong ơn bội nghĩa, không có lương tâm. Những lời này đều do ông chú Phương truyền ra, nhưng những lời này cũng không sai chút nào, cha Phương chính là loại người như vậy.
Phương Đường cười, không nói gì. Ông chú Phương này sẽ là trợ thủ đắc lực của cô, nhưng cô phải tính toán thật kỹ một chút, tặng cho người nhà thân yêu một món quà lớn.
Sau khi chào tạm biệt mấy ông chú và mấy bà thím, Phương Đường dẫn theo Tang Mặc về nhà cũ của mình, bỏ hoang ba năm, đoán chừng cũng không thể ở được nữa.
Quả nhiên, nhà cũ không có hơi người, trong sân mọc đầy cỏ dại. Phương Đường mở cửa, phát ra tiếng kẽo kẹt, một mùi ẩm mốc xông vào mũi. Trên xà nhà đầy mạng nhện, ánh nắng mặt trời chiếu qua khung cửa sổ cũ nát, từng tia sáng chiếu vào, bụi bay mù mịt.
Trong phòng khách có bày một cái bàn Bát Tiên, hai bên là ghế. Lúc rảnh rỗi, bà nội sẽ ngồi trên ghế nghỉ ngơi. Bởi vì bà nội nhiệt tình hiếu khách nên người trong thôn đều thích đến nhà chơi. Trong ấn tượng của Phương Đường, ngày nào ngôi nhà cũng rất náo nhiệt. Bà nội cũng sẽ đun sẵn nước sôi, có người đến là pha trà, đặc biệt nhiệt tình chu đáo.
Phòng khách vốn náo nhiệt ngày xưa, giờ đây vắng lặng, trở thành thiên đường của cỏ dại và côn trùng. Phương Đường khịt mũi mấy lần, cảm thấy hai mắt cay cay, cô thật sự rất nhớ bà nội.
“Bà nội thích nhất là ngồi ở đây, kể chuyện cho em nghe.”
Phương Đường chỉ vào chiếc ghế bên bàn Bát Tiên, kể cho Tang Mặc từng chút một nghe về chuyện thời thơ ấu của cô.
“Bà nội nấu ăn rất ngon, làm đồ ăn nhẹ cũng giỏi. Vào tiết Thanh Minh thì làm bánh Thanh Minh. Vào rằm tháng bảy thì hấp bánh đường. Lúc đông chí thì nặn bánh trôi, tết Đoan Ngọ thì rán bỏng ngô, bà đều làm cho em ăn. Có một lần, em vô tình ngã vào hố nước bẩn. Bà nội đã đến từng nhà xin gạo, về nhà nấu cơm trăm nhà, rồi lại đi biếu cho từng nhà, nói là để trừ xui xẻo cho em.”
“Bà nội không nỡ ăn, toàn để dành cho em. Mùng một và ngày rằm bà đều ăn chay. Lúc rảnh rỗi, bà lên tầng hai tụng kinh, còn gấp vàng mã nữa. Gấp một thỏi vàng mã phải tụng kinh một trăm lẻ tám lần, nên vàng mã do bà gấp rất đắt khách, nhiều người còn cố ý đến cửa mua.”
Phương Đường lải nhải kể xong, còn kéo Tang Mặc lên tầng hai. Bởi vì là cầu thang gỗ, theo thời gian đã có phần lỏng lẻo, bước lên kêu cót két, như đang kể lại câu chuyện của chủ nhân ngôi nhà này.
Trên tầng hai kê giường, còn có tủ, Phương Đường và bà nội ở tầng hai, có một ngăn nhỏ, bên trong có mõ và bài vị, là nơi bà nội tụng kinh.
Tang Mặc không nói gì, lặng lẽ lắng nghe cô gái bên cạnh nói. Qua lời kể của Phương Đường, anh như nhìn thấy một bà lão hiền từ đang nuôi dạy cô bé xinh đẹp hoạt bát. Cuộc sống tuy thanh đạm nhưng lại rất hạnh phúc và ấm áp.
Anh rất vui mừng, tuổi thơ và thiếu niên của Phương Đường đều tràn ngập hạnh phúc. Bà nội Phương rất tốt với cháu gái.
“Tang Mặc, em nhớ bà nội. Giá như bà còn sống thì tốt biết mấy.”
Phương Đường không nhịn được bật khóc, nhào vào lòng Tang Mặc.
Tang Mặc nhẹ nhàng vỗ về lưng cô, không biết nói gì để an ủi. Anh cũng nhớ ông nội, rất hiểu tâm trạng của Phương Đường, nhưng anh may mắn hơn Phương Đường, ông nội anh hẳn là vẫn còn sống.
Anh liền nói: “Ông nội của anh rất tốt, sau này ông sẽ yêu thương em.”
Phương Đường nín khóc và mỉm cười. Cô lau nước mắt, khẽ hỏi: “Ông nội của anh sẽ thích em chứ?”
Cô rất không tự tin, bởi vì dung mạo của cô thực sự không được người lớn tuổi yêu thích. Mẹ Phương thường nói dáng vẻ của cô là người tùy tiện, mẹ Triệu Vỹ Kiệt cũng nói cô là hồ ly tinh, không phải thứ tốt lành gì.
“Tất nhiên, người anh thích thì ông cũng sẽ thích.” Giọng điệu của Tang Mặc rất chắc chắn.
Phương Đường đỏ mặt thẹn thùng, Tang Mặc nói thích cô.