Tuy Kiếm Trì tính ra là thế lực của Đại Hàn, song có quan hệ với rất nhiều quốc gia khác. Lại nói, lục quốc cùng Đại Việt đã có hiệp ước với nhau. Để tránh bất kỳ nước nào “thừa nước đục thả câu”, nhân lúc Hải Thú công kích mà cho quân đi đánh chiếm nước khác, thế lực của các nước đều phải chia quân đi trợ giúp các nước khác trong thời gian chiến tranh nổ ra. Sứ giả cũng phải đi lại giữa các nước, nhằm bảo đảm hợp tác suôn sẻ. Chả thế mà Nguyễn Đông Thanh phải tất tả ngược xuôi tiếp xứ dạo thời gian gần đây.
Thành thử, hiện tại, Lâm Phương Dung cùng Trần Thanh Lãng đều đã dẫn nhóm đi nơi khác, còn nhóm đệ tử Kiếm Trì dưới tay Hàn Ngọc Sương tính ra cũng chỉ mười mấy người. Vốn là, Liễu Ân cùng chừng trên dưới ba mươi đệ tử trấn thủ tại Kiếm Trì, đề phòng có biến. Nhưng vì chuyện của hai người Đỗ – Trương mà Vân Hà Kiếm Tổ cũng tạm trú tại trại doanh của Kiếm Trì trong quân đội. Tính ra, bữa này mời khách, riêng Kiếm Trì thôi cũng gần hai mươi suất cơm rồi. Còn may Trương Mặc Sênh nhờ được mấy anh em binh lính Đại Việt khi trước cùng hành quân đến với mình giúp một tay, nếu không thì cũng hơi nhọc.
Tiểu Thực Thần đặt một cái khay lớn có đậy lồng lên bàn chính. Ở đây có Liễu Ân, Hàn Ngọc Sương, Chân Lợi Kiếm, Song Vô Song, cùng Đỗ Thải Hà ngồi. Các anh em binh lính cũng mang bưng khay lên các bàn khác. Khay mở ra, hương cay bốc lên nghi ngút. Mấy người tò mò nhìn kỹ, thì chỉ thấy trên đĩa bày sáu con cua đỏ au nối đuôi nhau xếp thành hình sao sáu cánh trên nền một loại nước sốt sền sệt màu cam. Xung quanh đĩa còn bày không ít rau cỏ trông rất đẹp mắt. Lại nghe Trương Mặc Sênh giới thiệu:
“Món này theo như cẩm nang của gia sư gọi là Cua sốt ớt, nghe nói xuất xứ từ một nơi gọi là Xinh...”
Cậu chàng chép miệng, uốn lưỡi mấy lần rồi mới nói tiếp:
“Xinh ga bo thì phải? Theo sách ghi chép thì có thể ăn với bánh mì hoặc cơm trong điều kiện không đủ nguyên liệu, thế nhưng chuẩn vị nhất thì phải ăn với món này...”
Vừa nói, Tiểu Thực Thần lại nâng tiếp một cái khay khác giấu sau lưng ra, đặt lên bàn. Sau khi lồng đậy được mở ra, nhìn rõ món thứ hai, Đỗ Thải Hà thốt ra:
“Bánh bao chiên?”
Trương Mặc Sênh khẽ gật đầu, lại lên tiếng mời:
“Liễu kiếm tổ, Hàn trưởng lão, sư tỷ, cùng các vị khách quý Kiếm Trì, mời thưởng thức trù nghệ của tiểu tử!”
Cậu chàng nói xong thì cũng ngồi xuống chủ bàn cạnh Đỗ Thải Hà. Về phần các binh sĩ, sau khi đưa món ăn lên tất cả các bàn thì cũng kéo nhau ra một bàn khác được sắp xếp sẵn, kéo ghế ngồi xuống, chuẩn bị tự phục vụ phần riêng của mình. Những người này chịu giúp tuy chủ yếu vẫn là nhờ giao tình với Tiểu Thực Thần, nhưng phần nào cũng do cậu chàng hứa có suất ăn cho riêng họ nếu họ chịu phụ một tay.
Người của cả bảy bàn sau vài lời mời cơm cho đủ lễ nghĩa thì cũng lần lượt động đũa. Tướng ăn của Hàn Ngọc Sương y như cách làm việc của y thị, cũng có thể dùng bốn chữ “lôi lệ phong hành” mà hình dung. Song Vô Song đưa tay lên che mặt, len lén liếc về phía hai người cổ viện. Ngược lại với Hàn trưởng lão, Vân Hà Kiếm Tổ ăn rất có tư thái thưởng thức. Nhìn qua là biết gã có không ít kinh nghiệm ăn hải sản.
Chân Lợi Kiếm yên lặng ngồi một góc, từ từ ăn. Từ hôm mới tới Tuyết Hoa Thành đến nay, đây là lần đầu tiên hắn có cơ hội gặp lại Đỗ Thải Hà. Hàn Ngọc Sương sau khi thấy tâm tính hắn có vấn đề, bèn dứt khoát cấm cửa không cho phép họ Chân đi tìm cô nàng. Nhất là sau khi Đỗ Thải Hà chọc tới Nho môn thì Hàn trưởng lão quản Chân thánh tử càng chặt. Y thị tự biết bản thân không quá khéo léo trong ngoại giao, nên dứt khoát giảm thiểu tối đa các tác nhân có thể khiến thế cục thêm loạn. Và thật đáng tiếc cho Chân thánh tử, hành vi của hắn xung quanh Đỗ Thải Hà trên suốt quãng đường từ thành Bạch Đế đến đây đã khiến Hàn Ngọc Sương không thể không liệt hắn vào danh sách này.
Suốt thời gian này, Chân Lợi Kiếm đương nhiên trong lòng bất mãn, khó chịu. Thậm chí, gã còn có chút ghen ghét Song Vô Song. Thế nhưng lúc này, ngồi cùng bàn với hắn không chỉ có một vị Hàn trưởng lão, mà còn một vị Vân Hà Kiếm Tổ. Thành thử, y dù trong lòng có bão nổi, cũng chỉ có thể thành thật mà ngồi đó nhai nuốt, không dám nói hay làm gì quá phận.
Ở các bàn khác từ sớm đã vang lên các loại tiếng chép miệng, nuốt nước bọt, húp nước sồn sột, cùng tiếng tấm tắc khen ngợi món ăn lạ, ngon. Liễu Ân sau một hồi thưởng thức cũng nhẹ nhàng nói:
“Trương công tử quả nhiên tài nghệ hơn người, có phong phạm của cựu trang chủ năm xưa!”
Trương Mặc Sênh nghe vậy thì ngạc nhiên:
“Liễu kiếm tổ quen biết nghĩa phụ?”
“Cũng không tính là quen biết. Ba mươi năm trước lão phu tình cờ may mắn được nếm thử trù nghệ của cựu trang chủ, đến nay vẫn còn nhớ mãi không quên. Chỉ đáng tiếc...”
Liễu Ân nói đến đây liền thở dài một hơi, song lại tiếp:
“Nhưng không sao, với tài năng của cậu lại được tiên sinh chỉ điểm, hẳn hai năm rưỡi sau có thể khiến kẻ ác đền tội!”
Tiểu Thực Thần kiên nghị gật đầu, song cũng không muốn tiếp tục chủ đề này, bèn nói:
“Kỳ thực, tiểu tử vẫn chưa thật sự hài lòng với món ngày hôm nay. Không giấu gì Kiếm tổ, món cua sốt ớt này yêu cầu về nguyên liệu nấu ăn nếu muốn thật ngon cũng rất khắt khe. Thế nhưng, tiểu tử đã lùng sục khắp thành, lại hỏi thăm cả cánh chài lưới cũng vẫn không tìm được những con cua thực sự ưng ý.”
Vân Hà Kiếm Tổ nghe vậy thì cũng trầm ngâm:
“Ồ? Yêu cầu cao như vậy sao? Theo như Liễu mỗ thấy thì cua hôm nay chất lượng đã rất cao so với tình hình hải sản mấy năm gần đây rồi mà...”
“Kiếm tổ nói không sai. Tiểu tử vì biết vậy nên cũng đành chịu. Ngài là dân bản địa, không biết liệu có biết lý do tại sao thủy triều mấy năm nay càng ngày càng yếu hay không?”