Lại kể chuyện của Đỗ Thải Hà...
Cô nàng ngồi trong nhà giam chừng ba ngày thì Trần Dũng mang thư lệnh của Hồ Ma Huyền Nguyệt đến thành Bạch Đế. Thế là, chẳng những Đỗ Thải Hà được thả ra, Chưởng Ấn quan đại nhân ngày nào còn ngồi trên công đường oai như cóc cụ thì hiện giờ bị hai tên lính đeo gông vào cổ, cùm xích vào tay, giải vào ngục ngồi chơi với kiến. Phong hồi lộ chuyển, Đỗ Thải Hà và vị đại nhân Chưởng Ấn cứ thế mà đổi vị trí cho nhau, khiến cô nàng không khỏi cảm thấy thế sự ở đời xoay chuyển khó lường.
Hàn Ngọc Sương, Chân Lợi Kiếm và Song Vô Song đã chờ sẵn ngoài cửa ngục. Vừa thấy cô nàng đi ra, “bốn người” đã lập tức dắt cô nàng đi Truyền Tống môn. Đỗ Thải Hà biết chuyện mình bị bắt giam đã làm trễ nải thì giờ, nên cũng không phản đối gì cả, chỉ thuận miệng hỏi Ngự Kiếm trưởng lão một câu:
“Trưởng lão, không biết vị Lã công tử khi trước đâu?”
Chân Lợi Kiếm chạy bên cạnh nghe cô nàng nhắc tới thiếu lâu chủ của Vọng Thiên lâu thì chặc lưỡi, khẽ rên một tiếng. Song Vô Song thấy chuyện này là lạ, nhưng tuổi đời còn trẻ, chưa biết đến yêu đương, thành thử cũng không nghĩ nhiều.
Hàn Ngọc Sương từng trải nhiều chuyện, há có thể không nhìn ra tâm tư của thánh tử nhà mình? Y thị thở dài, nói:
“Vừa được thả ra là Lã thiếu lâu chủ đã tức tốc chạy đến Quan Lâm, nói là tính được phải gặp một người, không thể chậm chễ.”
“Hừ. Lấy cớ thôi...”
Chân Lợi Kiếm nhỏ giọng, thì thầm với vẻ không phục.
Đỗ Thải Hà lắc đầu, nói:
“Thánh tử nói thế không đúng. Lã công tử và tiểu nữ vốn cũng là bèo nước gặp nhau, người ta chịu đến nha môn lên tiếng biện bạch, cùng vào ngục với Thải Hà đã là chí tình chí nghĩa, sao có thể bắt Lã công tử ở lại Bạch Đế chờ tiểu nữ mãi được?”
Chân Lợi Kiếm nghe thế, lại hiểu rằng cô nàng đang trách mình khi đó không đến phủ Chưởng Ấn quan bảo vệ nàng ta, nhất thời tự ái tím cả mặt, nói:
“Chuyện này... thực ra...”
Hàn Ngọc Sương thấy tình hình có vẻ không ổn, mới vội vàng lên tiếng giải vây:
“Thực ra người không để hai đứa nó đến phủ quan Chưởng Ấn là ta. Cô nương có muốn trách thì cứ trách Hàn Ngọc Sương này.”
“Trưởng lão nói đùa, tiểu nữ không phải không hiểu chuyện. Bây giờ là thời điểm phi thường, trưởng lão dẫn người đến Đại Việt đón tiểu nữ là đã quý hóa lắm rồi, sao có thể vì tiểu nữ mà liên lụy đến Kiếm Trì được? Nếu vì tiểu nữ mà Kiếm Trì can thiệp vào nội bộ Đại Việt, khiến hai bên bằng mặt không bằng lòng ngay trước thềm đại chiến thì quả thực là phải tội với thiên hạ.”
Mặc dù hai người Đỗ, Hàn nói thế, nhưng Chân Lợi Kiếm vẫn nghiến răng, cảm thấy Đỗ Thải Hà đang nói xéo mình.
Lã Vọng Thiên thì cũng là người nơi khác, Vọng Thiên lâu cũng là thế lực bên ngoài, hơn nữa quan hệ với Lão Thụ cổ viện chắc chắn không thân thiết bằng Kiếm Trì. Vì sao một bên có thể bất chấp nhúng tay, cứu mạng Đỗ Thải Hà, còn Kiếm Trì thì không? Há chẳng phải đang nói... Lã Vọng Thiên mới thật lòng, còn Chân Lợi Kiếm hắn thì chỉ là cái phường xun xoe miệng lưỡi thôi sao?
Gã tưởng đấy chính là ý nghĩ trong đầu tam đồ đệ của Bích Mặc tiên sinh, mày nhăn hí lại, ruột gan quặn xoắn một thứ cảm xúc ngang ngược.
Chân Lợi Kiếm càng nghĩ, càng cảm thấy chuyện này rất có khả năng. Nếu không phải Đỗ Thải Hà có ý gì với đối phương, vì sao phải ra mặt nói chuyện thay cho hắn?
Đương nhiên, Chân Lợi Kiếm dù sao cũng là thánh tử của Kiếm Trì, vẫn khống chế được tâm tình, không để cảm xúc thực sự lộ ra.
oOo
Ngay buổi trưa hôm đó, Hàn Ngọc Sương dẫn Đỗ Thải Hà truyền tống đến thành Tuyết Hoa.
Nơi này là một thành trấn thuộc về trung du của nước Hàn, nhân khẩu vào khoảng mười ba vạn. Thành phân làm hai nửa bắc, nam, lấy một nhánh của sông Ngân gọi là sông Thiên Phù làm giới tuyến, cơ hồ phân thành làm hai nửa.
Thành bắc là nơi tập trung bộ máy hành chính, từ phủ thành chủ đến nha môn, quân doanh đến nhà tù, có thể nói là đều đặt ở đây cả. Ngày thường dân chúng mà muốn kiện cáo, đệ đơn trình tấu gì thì hầu như đều phải qua cầu Thiên Thê sang thành bắc.
Phía nam là nơi trăm họ cư ngụ, cũng là chỗ đặt phố chợ. Nơi này tửu lầu hàng quán mọc lên như nấm, tông môn võ quán đâu đâu cũng thấy, thương nghiệp phát triển, sầm uất nhộn nhịp vô cùng.
Địa thế vùng này dốc thoải, bờ bắc sông Thiên Phù cao hơn bờ nam thành thử thành bắc của Tuyết Hoa cũng cao hơn thành nam đâu đấy chừng hai ba trượng, Ngăn cách hai thành là hai bức tường dày, cao đến sáu trượng, so với các bức tường bao quanh tòa thành thì cao hơn đến hai trượng có dư. Giữa hai tường thành nối với nhau bằng cầu treo, dùng xích sắt to bằng bắp tay người lớn để cố định, gọi là Thiên Thê.
Đỗ Thải Hà từ truyền tống môn phóng mắt nhìn bốn phía một lượt, mới chặc lưỡi:
“Tường thành bên trong thành sao lại cao hơn cả tường thành trấn giữ phía đông như vậy? Chẳng nhẽ chỗ này cũng giống thành Cổ Long của Đại Việt?”
Hàn Ngọc Sương vừa định lên tiếng, thì Chân Lợi Kiếm đã chớp lấy thời cơ chạy đến, vừa cười lấy lòng vừa giải thích:
“Chuyện ấy thì không hẳn. Số là ba ngàn năm trước nơi đây còn là chỗ nước nông, cửa biển rộng, hải thú dễ dàng tràn vào. Trong đại chiến ba ngàn năm trước, Đế Hậu Hàn Thanh Ca bèn cho người đóng hai doanh Tuyết Hoa ở hai bờ sông, đóng cọc nhọn hướng ra biển, ngăn chặn hải thú lẻn vào bờ.
Về sau do năm rộng tháng dài, đáy sông biến dạng, hai doanh Tuyết Hoa không còn cách nào khác đành phải xây tường thành trấn giữ sông Thiên Phù càng lúc càng cao, cốt để ngăn không cho hải thú trèo lên hai bờ nam – bắc. Phòng tuyến ngăn địch thì lùi về phía tây thêm ba mươi dặm nữa, nơi đó có một chỗ gọi là Trấn Thủy quan, có thể phối hợp với Tuyếtt Hoa thành. Sông càng lúc càng sâu, thành cũng cứ thế mà lấn lên cao mãi, cuối cùng thành ra thế này.”
Đỗ Thải Hà “à” một tiếng, gật đầu với y coi như lời cảm ơn.
Hàn Ngọc Sương hắng giọng một tiếng, nói:
“Được rồi. Những chuyện lịch sử ấy nói sau. Song Vô Song, con dẫn Đỗ tiểu thư vào thành tìm chỗ ở trước. Chờ mẹ và thánh tử đi thành bắc nghị sự về sẽ giải quyết.”