Chuyện của đám quỷ rừng xem như đã giải quyết xong.
Mọi người tiễn bầy quỷ lương thiện về với núi với rừng, lại cho Hồng Đô trói nghiến cả đám cẩu quan lại thành một hàng, lôi về thành Bạch Đế.
Dân làng người thì đào huyệt, người thì lập đàn, người thì chuẩn bị đồ cúng tế ma chay. Cả làng từ già đến trẻ, cả trai lẫn gái đều chung tay vào tất bật chuẩn bị một cái lễ tươm tất chỉn chu để tiễn lão Kiếm Tiên năm xưa cưỡi hạc về trời.
Chính lúc này, Long Thanh Y tiến lên một bước, nói:
“Tiên sinh, dân làng, vết thương của lão Sở có biến, chỉ e là không thể mai táng lão được.”
Mọi người vào đình làng thì thấy mấy vị già làng phụ trách cởi áo tắm rửa cho Sở Tinh Hà bấy giờ đã lui xa lại, lưng dính vách tường, cách lão Kiếm Tiên phải cả trượng. Vị nào vị nấy trợn mắt nhìn về phía lão, không thốt nên lời.
Long Thanh Y chỉ vào chỗ vết thương chí mạng lúc này bắt đầu mọc lên cơ man không biết bao nhiêu là mụn cóc, nhân mụn đen xì, thỉnh thoảng lại ộc ra một thứ mủ đen tanh tưởi. Trên thân lão cũng bắt đầu mọc lên một lớp lông tơ trăng trắng, nhìn như là nấm mốc vậy.
“Chuyện này là sao?”
Nguyễn Đông Thanh tuy là nghiên cứu sinh ngành sinh học, nhưng khốn nỗi từ lúc cầm cái bằng tốt nghiệp cấp ba đến giờ hắn toàn chơi với gia súc gia cầm, nông sản các loại chứ nào có giải phẫu con người bao giờ? Thành thử, gã chẳng biết tí ti ông cụ nào về phản ứng của thi thể người sau khi chết. Thế nhưng, nếu những gì hắn xem trong phim trinh thám là đúng thì những gì đang xảy ra với xác của Sở Tinh Hà cực kỳ phi tự nhiên.
Long Thanh Y đáp:
“Có thể do tà công của Đặng Không tác oai tác quái mà thành, bây giờ chôn lão chỉ sợ ảnh hưởng đến dân làng.”
Nguyên là ở Huyền Hoàng giới người ta coi việc chôn thi thể xuống đất là trở về với cự thần Cô Sơn Lẫm Lẫm, thành thử cái chuyện mai táng được coi trọng lắm. Trừ khi là chết bệnh, hoặc tử tù tội ác tày trời thì mới bị người ta hỏa thiêu, không cho quay về với cự thần.
Thế nên, Long Thanh Y thấy Sở Tinh Hà hi sinh bảo vệ dân làng mà phải chịu nghi lễ an táng qua loa như thế thì không khỏi lấy làm thương tiếc, có mấy phần không nỡ.
Nguyễn Đông Thanh ở Quan Lâm cũng từng kinh qua thú triều, biết đối với dân chúng Huyền Hoàng giới hỏa táng bị rẻ rúng ra sao. Thấy dân làng vừa sợ bị ảnh hưởng, lại vừa áy náy với Sở Tinh Hà, gã bèn hắng giọng, nói:
“Chư vị, thực ra hỏa táng ở quê cũ của tại hạ cũng không phải việc gì lớn. Thậm chí có nơi hỏa táng còn được coi là nghi lễ an táng trang trọng nhất, đại ý là ‘cát bụi lại về với cát bụi’. Lão Sở mà biết mình chết rồi còn liên lụy tới dân làng thì lão càng không nhắm được mắt, mọi người thấy đúng không?”
Mọi người nghe xong, thì gật đầu:
“Vậy thì nghe tiên sinh.”
Dân chúng theo lời Nguyễn Đông Thanh chất tre, gỗ lên thành một cái đài, đặt thi thể của Sở Tinh Hà ngay ngắn lên trên. Bích Mặc tiên sinh tay cầm ngọn đuốc, nhìn về phía lão, đoạn nói:
“Lão Sở, bây giờ tại hạ xin thực hiện lời hứa với lão. Tiếc là tại hạ tài sơ học thiển, không giỏi văn chương, chỉ đành mượn lời văn của cụ Tố Như đọc cho trăm họ thôn Hòe.
“Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
Còn chi ai quý ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
“Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
“Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
“Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
“Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
“Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm,
Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
“Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
“Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
“Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
“Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
“Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”
Gã đọc đến đây, định ngừng một chốc lấy hơi. Thế nhưng vừa mới đọc dứt miệng, thì bỗng chốc mây đen ùn ùn kéo tới che hết trời trăng, cả ngôi làng thoắt cái chìm trong bóng tối. Nguồn sáng duy nhất chính là ngọn đuốc trong tay Nguyễn Đông Thanh.
Lửa cháy leo lét, leo lét, rồi từ đỏ vàng chuyển thành xanh trắng.
Lại thấy gió nổi như luồn cái lạnh vào xương, cát bay ào ạt, đá chạy rầm rầm. Khi ánh mắt người ta bắt đầu quen với bóng tối, thì bọn họ thảng thốt phát hiện giữa những bóng cây, bóng lá là loang loáng những bóng người quái dị, chính đang dương cặp mắt đỏ lòm lòm nhìn về phía đài hỏa táng. Có kẻ cao lêu đêu, có tên gỡ cái đầu của mình xuống mà tung hứng, có kẻ cổ dài như con rắn, có đứa chỉ có một cái cẳng cứ nhảy tưng tưng từ mái nhà này sang mái nhà khác.
Ai nấy đều nhìn về phía vị tiên sinh đang cầm đuốc ở giữa sân đình mà nuốt nước bọt.
Mà kẻ đầu têu gây ra mọi chuyện – Bích Mặc tiên sinh của chúng ta – thì cũng cóng lắm. Gã thầm trách bản thân đãng trí, khi không lại quên đi mất một năm trước cũng có một ma nữ lù lù hiện lên xin thơ để siêu thoát. Lần đó Nguyễn Đông Thanh ngâm đọc thơ của Khiếu Năng Tĩnh còn như vậy, huống chi lần này chẳng những dùng hàng của đại thi hào Nguyễn Du, còn lôi hẳn văn tế chúng sinh ra đọc.