Đồ Mi Dạ Thoại

Phượng cầu hoàng


9 tháng


Lần đầu gặp mặt, hắn là Hộ quốc tướng quân sớm đã công thành danh toại. Còn nàng lại là hoa khôi đầu bảng Túy Sinh các, khi ấy đang đứng giữa sân khấu xướng câu “Hiểu lai chi thượng miên man, tự bả phương tâm, thâm ý đê tố[1]”.

Ngày thường hắn luôn tự nghiêm khắc với bản thân, lần đó là bị bằng hữu lôi kéo mới tới chốn hoa tửu. Mặt đầy lúng túng, hắn lảo đảo bước vào. Ánh mắt giao nhau, nàng đem lời ca trong miệng quên hết không còn một từ.

Một người khôi ngô tuấn tú, mạnh mẽ kiên cường, một người xinh đẹp, tài mạo song toàn. Một người là thanh quan trong triều, một người là danh kĩ chốn yên hoa[2]. Một người từng trải bao phen sương gió, một người nếm đủ phong vị hồng trần.

Tri âm, tri kỉ, tri tâm.

Đôi bên đều nghĩ, cuộc đời này có lẽ cứ tịch mịch như vậy mà trôi qua, không ngờ tình yêu lại tìm đến như thế, mãnh liệt mà ảm đạm tiêu hồn.

Nhưng là …

Nhà hắn còn có cao đường[3] cùng chính thất[4], làm sao có thể dung một câu lan nữ tử[5] vào cửa ? Một danh gia vọng tộc mấy trăm năm, tiếng tăm chẳng lẽ lại bị hủy trong tay một người con gái như vậy ?

Đúng lúc này, ngoài biên ải, khói lửa lại bùng lên, hẳn phải chuẩn bị cầm quân ra chiến trường, không biết ngày trở về.

Trước khi đi, hắn vì nàng mà cầm lược, chải đầu. Chiếc lược làm từ gỗ đàn hương chậm rãi chải lên mái tóc đen nhánh, mềm mại như tơ mà hắn yêu nhất.

Lấy ra một đôi trâm phượng trong ống tay áo, cài nghiêng nghiêng lên mái tóc của nàng.

Hắn đi. Đi đến phương Bắc xa xôi, cùng người Kim hung hãn giao chiến.

Tư thế hiên ngang ấy đi vào tận trong giấc mộng. Trong mộng, hắn bị trúng mai phục, trên chiến trường như Tu La ra sức chém giết. Màu đỏ tươi trên người, nàng phân không rõ là máu của hắn hay của địch nhân.

Dần dần sức cùng lực kiệt, động tác huy kiếm của hắn dần chậm lại. Sau lưng có một kẻ cưỡi ngựa phi đến, một kiếm hướng cổ hắn …….

Đưa về nhà là một cỗ tàn thi không đầu khiến phụ mẫu hắn cực kì bi thương, vợ con hắn thì kinh hoàng mà thất thố. Mà nàng chỉ lẳng lặng thu thập hành tranh, lên đường đi tới phương Bắc.

Trời cao, đường dài, gió lạnh thấu xương, nàng một thân nữ nhi cố chấp đi về phía chiến trường – nơi có người nam nhân anh dũng hi sinh cho tổ quốc kia. Một miền đất lớn trải dài trước mắt, nơi ấy hoa dại cũng từng nở rộ, hiện tại trên mặt đất la liệt xác người, máu tươi nhuộm đỏ cả một vùng trời. Nàng biết phải đi đâu tìm hắn ?

Tayngọc thon thả chỉ từng cầm hoa, gảy đàn khó nhọc đẩy ra những cỗ khôi giáp không trọn vẹn, đẩy ra vô số cỗ thân thể mất đi sinh mệnh, cuối cùng cũng tìm được khuôn mặt thuộc về người kia.

Nàng cười nhẹ, đem cái đầu kia ôm vào trong ngực. Máu tươi ướt đẫm hai tay, chậm rãi lấy xuống trâm phượng cài đầu, nắm chặt, đâm thật sâu vào cổ.

Rốt cuộc, không còn ai có thể đem họ tách ra nữa.

Bão cát phủ trùm lên thân thể hai người họ, cỏ xuyến[6] mọc dài, biển cả hóa nương dâu. Mảnh đất kia nay lại phủ đầy hoa dại nở, che đi dấu tích lịch sử ngày xưa. Chỉ là có người ngẫu nhiên tìm được ở nơi này một số vũ khí thời xưa.

Vì vậy nhóm khảo cổ tìm đến, mang theo những sinh viên ngồi xổm thành từng đám, tỉ mỉ đào bới khắp nơi, tìm được một mảnh khôi giáp, một khối bạch cốt, một cái đầu lâu.

Là gì vậy nhỉ ? Là thứ gì ở bên dưới lòng đất lóe lên tia kim quang ? À … thì ra là một cây phượng trâm !

Phượng trâm được rửa sạch, bỏ vào trong hòm sắt, bên ngoài hòm sắt màu đen ngẫu nhiên lóe lên một tia sáng yêu dị.

Một nữ sinh chịu không nổi sức hấp dẫn từ nó, tiến lại, mở hòm sắt ra, cầm lấy đồ vật bên trong.

Chỉ trong tích tắc, mọi thứ thuộc về hiện tại xung quanh đều như hóa thành không khí.

Hành lang dài với những cột trụ sơn son thếp vàng quanh co uốn khúc, sa trướng buông rủ, huân hương lượn lờ. Cạnh cửa sổ nhỏ, một người đang ngồi đó trang điểm. Mái tóc dài đen nhánh rủ xuống, uốn lượn trên mặt đất, lược ngọc tinh tế chải xuống, chải thuận ba nghìn sợi tóc đen, chải đi tất cả phiền não.

Ngọc bội khẽ cài lên, kim kích ngọc hưởng, cánh tay trắng nõn vừa hơi đưa ra, suối tóc đen nhẹ nhàng rủ xuống. Ngón tay mẫn tiệp uyển chuyển đem những lọn tóc mềm nhẹ như mây vấn lên lộ ra làn da trắng nõn như ngọc, mát lạnh như băng, mũi ngọc đàn khẩu, đôi mắt biết nói trong veo như nước hồ thu.

Cảnh tượng sống động như có như không, linh hồn giống như không cam lòng ngủ yên, trằn trọc thức tỉnh lại.

Thiếu nữ giống như người ngây dại, đôi mắt vô thần đi thẳng về phía cái hố mới đào ở hiện trường khảo cổ.

Nàng nhảy xuống hố, dùng trâm cài trong tay không ngừng đào bới, đôi tay trắng nõn, mịn màng cũng không ngừng gạt đi lớp đất bên dưới. Không để ý đến biểu tình kinh hách của đám người xung quanh, cũng chẳng để ý đến mười đầu ngón tay đau đớn vẫn như điên như dại đào bới.

Bỗng nhiên, nàng ngừng lại. Thân thể thiếu nữ thoáng cái ngã xuống, té xỉu trên lớp bùn đỏ.

Trong tay, như cũ cầm một … cây trâm khác.

š±›

Điển tích về khúc “Phượng Cầu Hoàng”

Tư Mã Tương Như, tự Tràng Khanh, người ở Thành Đô đời nhà Hán. Người rất đa tài, văn hay, đàn giỏi.

Khi lìa quê lên Tràng An để lập công danh, đến con sông đầu làng, Tương Như viết trên cầu một câu: “Bất thừa cao xa tứ mã, bất phục quá thử kiều” (Không ngồi xe cao bốn ngựa, không qua lại cầu này nữa).

Nhưng vốn con người phóng lãng hào hoa rất mực nên mua được một chức quan nhỏ, làm trong ít lâu, chán, cáo bịnh, qua chơi nước Lương, rồi trở về nước Thục. Đến đâu, Tương Như cũng dùng bút mực và cây đàn để giao thiệp bằng hữu.

Trong khi đến đất Lâm Cùng, Tương Như vốn sẵn quen với Vương Cát là quan lệnh ở huyện, nên đến chơi. Cát lại mời Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trạc Vương Tôn, vốn viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu đánh cho một bài.

Họ Trác vốn có một người con gái rất đẹp tên Văn Quân, còn nhỏ tuổi mà sớm góa chồng, lại thích nghe đàn. Tương Như được biết, định ghẹo nàng, nên vừa gảy đàn vừa hát khúc “Phượng cầu hoàng”

Chim phượng, chim phượng về cố hương,

Ngao du bốn bể tìm chim hoàng

Thời chưa gặp chừ, luống lỡ làng.

Hôm nay bước đến chốn thênh thang.

Có cô gái đẹp ở đài trang,

Nhà gần người xa não tâm tràng.

Ước gì giao kết đôi uyên ương,

Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường.

Nguyên văn:

Phượng hề, phượng hề quy cố hương,

Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng,

Thời vị ngộ hề vô sở tương,

Hà ngộ kim tịch đăng tư đường.

Hữu diệm thục nữ tại khuê phường,

Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường.

Hà duyên giao cảnh vi uyên ương

Tương hiệt cương hề cộng cao tường.

Trác Văn Quân nghe được tiếng đàn, lấy làm say mê, đương đêm bỏ nhà đi theo chàng. Trác ông

tức giận, quyết định từ con.

Đôi trai gái đó mở một quán nấu rượu. Vợ chồng cùng cặm cụi làm.

Sau Hán Vũ Đế đọc bài “Tử hư phú” của Tương Như, khen tài mới vời vào triều, ban chức tước. Lại sai chàng cầm cờ tiết, thay nhà vua về Ba Thục chiêu an bọn phụ lão tùng phục nhà Hán. Lần này thỏa chí bình sinh, Tương Như áo gấm vinh quy được người đón rước long trọng. Nhưng làm quan ít lâu, lại chán, cáo bệnh lui về quê.

Trong “Bích Câu kỳ ngộ” có câu:

“Cầu hoàng tay lựa nên vần,

Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào.

Và, trong “Đoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du cũng có câu:

Khúc đâu Tư Mã phượng cầu,

Nghe ra như oán, như sầu phải chăng!”

Đều do điển tích trên.


[1] Câu thơ trích trong bài “Hoàng Oanh Nhi” của Liễu Vịnh. Hiểu lai, tức sáng sớm. Phương tâm, thông thường là hình ảnh để hình dung nữ tử.

[2] Chốn phong trần.

[3] Ý chỉ cha mẹ hay các bậc bề trên.

[4] Người vợ được cưới hỏi đàng hoàng vào cửa. Thường để chỉ vợ cả.

[5] Câu lan: nơi biểu diễn ca kịch thời Tống, Nguyên. Ý chỉ người con gái trong chốn phong trần.

[6] Một loại cỏ có thể đem làm thuốc.


Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play