Chương 2
Tiền viện nơi Thôi thị ở trồng những cây tùng bách cao lớn, cành lá xum xuê, bóng cây xanh rợp, tuy đã vào hè nhưng không khí lại rất mát mẻ. Trong viện, vú già đang lẳng lặng vẩy nước quét nhà, vài tỳ nữ trẻ tuổi đứng ngay ngắn ngoài hành lang, thấy Gia Nhu tới thì vội vàng cong gối hành lễ.
Gia Nhu đi đến cửa thì dừng, nhìn vào trong phòng.
Đối diện cửa phòng là một tấm bình phong gỗ vẽ cảnh non nước, phía trước đặt chiếc sập gỗ tử đàn, Thôi thị và Mộc Thành Tiết đang ngồi trên sập, dưới mặt đất trải chiếu là nơi mẹ con Liễu thị đang cung kính quỳ.
Thôi thị mặt dửng dưng cầm chén bạc uống nước mía.
Liễu thị còn chưa đến ba mươi, tuy bận đồ giản dị nhưng thị có làn da trắng nõn, ánh mắt hàm tình, như nhành liễu rủ trong gió, khiến người ta sinh lòng tiếc thương. Thị vốn sinh ra trong gia đình nhà quan, bởi vì phụ thân phạm tội, nữ quyến trong nhà bị phạt nhập nô tịch, sau lại lang bạt đầu đường xó chợ, theo Mộc Thành Tiết rồi mới thoát khỏi thân phận cũ.
Liễu thị ôm đứa con trai mới chào đời chưa lâu, hẵng còn đang say ngủ. Thuận Nương quỳ cạnh thị mặc bộ nhu quần[1] vải thô xanh, căng thẳng túm chặt hai bên sườn váy, tựa như một đứa trẻ xuất thân từ gia đình thường dân. Tuy dung nhan nàng ta không bằng mẹ mình, song cũng có thể xem như xinh đẹp.
[1] Một loại y phục xuất hiện từ thời Chiến quốc, nhu (襦) là áo vạt ngắn, khi đi chung với váy sẽ được gọi là nhu quần (襦裙), tức áo ngắn và váy. Dưới đây là hai kiểu mặc truyền thống.
Uống nước mía xong, Thôi thị đưa chén bạc cho tỳ nữ, bấy giờ mới lạnh nhạt lên tiếng: “Ngươi đã sinh hạ con trai vì Đại vương, khổ nhọc mà công cao, không lý nào lại để tiểu lang quân phải uất ức sống ở biệt trạch. Ta sẽ sai người quét dọn nơi ở, từ giờ các ngươi hãy ở đó đi.”
Liễu thị ngàn ơn vạn tạ, bảo con gái dập đầu trước Thôi thị.
Mộc Thành Tiết nhìn thoáng qua Thôi thị, từ đầu chí cuối, bà giữ vững vẻ bình tĩnh, cứ như thể mẹ con Liễu thị chỉ là thứ râu ria.
Bấy lâu nay bà vẫn thế, cho dù ông có làm gì, bà cũng chẳng mảy may bận lòng.
Năm đó khi ông lên phương Bắc, Thiên tử từng muốn gả con gái của vương gia cho ông, song vì ngưỡng mộ Thôi thị xinh đẹp tài hoa, ngay tại điện Thái Cực, ông đã xin được cưới bà trước đám đông, Thiên tử và Thôi gia không thể không gật đầu.
Tiểu thư nhà danh môn và Phiên vương trấn thủ một phương vốn nên là một đoạn giai thoại, nhưng trong mắt người Trường An, Vân Nam Vương ông chẳng qua chỉ là tên man di tới từ một vùng đất lạc hậu, không thể coi như bến đỗ tốt lành.
Bà ly biệt quê hương, rời xa Trường An, trong lòng ắt hẳn oán ông, trách ông, căm hận ông, thế nên mới hiếm khi nào nở nụ cười. Đã nhiều năm trôi qua, vợ chồng vốn nên thắm thiết mặn nồng, vậy mà cuối cùng lại như người dưng nước lã.
Liễu thị đang quỳ ở dưới thầm cảm khái, nguyện vọng nhiều năm cuối cùng cũng trở thành sự thật.
Đối với người như thị, con gái của Thôi gia là trăng sáng trên trời, cao không thể với. Thị chẳng bao giờ vọng tưởng mình có thể sánh vai với bà, nhưng thị thiết tha muốn làm một vị thiếp danh chính ngôn thuận, để con cái có họ có tên.
Mẹ con thị ăn mặc nghèo nàn, ở phòng đơn sơ đã nhiều năm, song không dám có nửa câu oán thán.
Nhìn Thôi thị sống trong nhà cao cửa rộng, mặc đồ tơ lụa quý giá, đeo vàng bạc châu ngọc, lại sinh hạ được một gái một trai, là quận chúa và thế tử cao quý do triều đình sắc phong, Liễu thị cảm thán, cuộc sống quả là không công bằng.
Nhưng thế gian này, nào ai đấu lại được vận mệnh đâu.
Lúc này, Gia Nhu bước vào gọi: “Mẹ!”
Thôi thị nở nụ cười, nâng tay đón con, kéo nàng ngồi xuống bên cạnh mình.
Thiếu nữ xinh đẹp rạng ngời, cử chỉ tự nhiên mà phóng khoáng, vừa xuất hiện đã thu hút sự chú ý của mọi người. So với nàng, Thuận Nương quả là mờ nhạt.
Gia Nhu vừa nói chuyện với Thôi thị vừa len lén liếc cha đang ngồi cạnh đó. Mộc Thành Tiết không quá cao to cường tráng nhưng lại anh tuấn xuất chúng, bởi vì lãnh binh quanh năm nên khí thế có vài phần khiếp người, khiến ông nom có vẻ khó gần.
Nàng nhớ tới lời gã thái giám từng nói kiếp trước rằng nàng rời nhà rồi nhưng cha mẹ vẫn âm thầm giúp đỡ. Mũi cay cay, nàng khe khẽ nói: “Cha, lúc trước con sai rồi, cha còn giận con không?”
Mộc Thành Tiết có hơi bất ngờ khi nàng chủ động nhận lỗi, ông nghiêm mặt: “Biết sai là tốt rồi. Từ giờ con mà ngoan ngoãn thì cha sẽ không giận nữa.”
Gia Nhu đè thấp giọng đồng ý. Kiếp này, nàng tuyệt đối sẽ không vứt bỏ gia đình, ngỗ nghịch cha mẹ.
Đây là nàng nợ bọn họ.
Mộc Thành Tiết thấy con gái có phần kỳ lạ, song ông cũng không suy nghĩ nhiều. Con mà hiểu chuyện được như vậy thì quả là không còn gì bằng.
Liễu thị vẫn còn đang trong giai đoạn ở cữ, thân thể suy yếu, chân tê rần vì quỳ, nhưng thị không dám nhúc nhích, sợ làm ra lỗi gì.
Sau cùng, A Thường tiến đến bẩm báo, viện đã được dọn dẹp thỏa đáng.
Thôi thị phân phó: “Vú sắp xếp cho họ vài người chăm sóc và mời hai vị nhũ mẫu đến trông nom tiểu lang quân nữa nhé.”
A Thường nhận việc, nhìn xuống từ trên cao: “Mời Liễu nương tử.”
Liễu thị đứng lên, hai chân mềm oặt vì quỳ lâu, suýt nữa ngã sấp xuống. Thuận Nương vội vàng đỡ thị, sốt ruột hô: “Mẹ!”
Mọi ánh mắt ở trong phòng đổ dồn về phía nàng ta, A Thường nói thẳng: “Xem ra tiểu nương tử không hiểu quy củ cho lắm thì phải?”
Liễu thị biến sắc, lén véo mu bàn tay của Thuận Nương. Nàng ta cũng biết mình gọi sai, đứng sững tại chỗ, hơi hơi run rẩy.
Ở trước mặt chủ mẫu, cho dù Liễu thị có là mẹ ruột của nàng ta thì cũng chỉ có thể gọi hai tiếng “di nương”. Nếu chủ mẫu khắc nghiệt thì còn có thể vin vào đó mà nghiêm trị các nàng.
Liễu thị căng thẳng nhìn về phía Mộc Thành Tiết, thấy ông chỉ cúi đầu uống trà chứ không có ý giúp đỡ, thị toan quỳ xuống để bồi tội với Thôi thị.
Thôi thị nâng tay: “Đứng lên đi. Các ngươi mới vào phủ, mọi việc còn chưa quen, lần này ta bỏ qua. Có điều vương phủ có quy củ của vương phủ, vào phủ là thân phận đã khác, ngôn từ, hành vi, cử chỉ cũng phải sửa lại, sau này ta sẽ phái người tới dạy bảo Thuận Nương. Đi xuống nghỉ ngơi đi.”
Liễu thị cùng Thuận Nương không dám phản đối, tạ ơn Thôi thị rồi cùng A Thường ra ngoài.
Kiếp trước Gia Nhu không gặp hai mẹ con họ, trong thư Thôi thị cũng hiếm khi nhắc đến, dường như chỉ là hai nhân vật mờ nhạt trong phủ Vân Nam Vương. Nàng chỉ biết cậu em nhỏ nhất có vẻ yếu ớt bệnh tật, sống chưa được bao lâu thì chết. Mà sau khi vương phủ gặp chuyện lớn, bằng vào nhan sắc của bản thân, vị thứ muội kia vẫn thuận buồm xuôi gió như trước.
Trong phòng chỉ còn một nhà ba người, Mộc Thành Tiết cảm thấy mất tự nhiên, vốn định xuống sập rời đi, Thôi thị lại hỏi: “Đại vương, Nhị lang đã tới thành Lệ Thủy gần một năm rồi. Tháng sau là Đoan Ngọ, có thể cho con về nhà một chuyến được không?”
“Cái họa nó gây ra nhỏ lắm sao! Cứ để nó ở đấy lâu lâu cho tỉnh ra!” Giọng Mộc Thành Tiết ra chiều không vui.
Thôi thị thuyết phục: “Nhị lang sống trong quân doanh từ nhỏ, hiếm khi ở nhà, quả thật thiếp thân đã lơ là việc dạy dỗ. Nhưng chuyện lần đó không thể chỉ trách mình nó được, vì bảo vệ vương phủ và ngài nên nó mới xung đột với bọn họ.”
Kể từ khi Nam Chiếu quy về đất Trung Nguyên, để ổn định tình hình trong nước, triều đình vẫn tiếp tục trị nước theo chính sách phân đất phong hầu cho các thị tộc lớn.
Thành Dương Tư Mị có bốn thị tộc lớn, theo thứ tự lần lượt là Mộc thị, Điền thị, Đao thị và Cao thị, đều là những thị tộc rất mực tôn quý, được nhiều đời vua ban họ. Tuy Mộc Thành Tiết được triều đình sắc phong làm Vân Nam Vương, nhưng nếu có vấn đề gì xảy ra, ông vẫn cần phải trao đổi với thủ lĩnh của những thị tộc kia.
Mấy năm nay, uy vọng của triều đình đối với vùng biên ngày càng thuyên giảm. Tham vọng của một số thị tộc lớn dần bành trướng, họ thường xuyên chống đối mệnh lệnh, càng ngày càng không coi Vân Nam Vương ra gì.
Năm ngoái, vài vị tộc trưởng không chịu nộp thuế, hai bên ầm ĩ, động tay động chân. Đến khi Mộc Cảnh Thanh bị Mộc Thành Tiết phạt đến thành Lệ Thuỷ, chịu tội thay Cao Dương thì chuyện này mới lắng dần.
Gia Nhu túm tay Mộc Thành Tiết: “Cha, con và mẹ nhớ em lắm. Vừa hay nhà ta có thêm người, cũng nên cho em ấy trở về làm quen một chút chứ?”
Trước đây nàng không dám gần gũi với Mộc Thành Tiết vì thấy ông quá hung dữ. Sống lại rồi, lòng mang đầy áy náy với người nhà, đương nhiên sẽ thân cận với họ hơn.
Mộc Thành Tiết nhìn bàn tay nhỏ mũm mĩm của nàng, nhớ tới lúc con mới chào đời, ông vui sướng ôm con vào trong lòng, mất tự nhiên hắng giọng: “Thành Lệ Thuỷ đang luyện binh, khi nào kết thúc thì sẽ để nó về. Ta còn có việc, hai mẹ con nói chuyện tiếp đi.” Dứt lời, ông xỏ giày rồi vội vàng rời đi.
Tay Gia Nhu cứng lại giữa không trung, nàng đã nói gì sai ư? Thôi thị khẽ cười bảo: “Chiêu Chiêu, có lẽ là cha xấu hổ đấy mà. Đã lâu rồi con không thân thiết với cha như vậy.”
Thì ra là thế. Gia Nhu tựa vào lòng Thôi thị, trong thâm tâm sinh ra nỗi cay đắng khó tả. Gia đình thương yêu nàng vô điều kiện là thế, vậy mà kiếp trước nàng lại nhẫn tâm rời bỏ họ chỉ vì muốn ở bên Ngu Bắc Huyền. Nàng nhỏ giọng: “Mẹ, trước đây con gái không hiểu chuyện, sau này con sẽ không như vậy nữa.”
Thôi thị ôm nàng, có phần khó tin: “Con nói thật chứ?”
Gia Nhu gật đầu, nghiêm túc đáp: “Là con nhất thời mê muội nên mới có thể hồ đồ như vậy. Một người chỉ mới gặp qua vài lần, chưa hiểu rõ về y thì sao có thể sống cùng y tới đầu bạc răng long. Mẹ luôn dạy con lòng người hiểm ác đáng sợ, con sớm nên nghe lời mẹ mới phải.”
Nếu Lý gia không từ hôn, có lẽ kiếp trước Nam Chiếu đã không phải gánh chịu kết cục kia, phủ Vân Nam Vương cũng sẽ không sụp đổ chỉ trong một đêm ngắn ngủi. Kỳ thực tình cảnh của cha vô cùng gian lao, có thể thấy rõ điều này từ năm ngoái, chẳng qua là nàng của kiếp trước quá mù quáng mà thôi.
Đời này nàng tuyệt đối sẽ không đào hôn, gây thêm phiền phức cho gia đình.
Thôi thị nói: “Đúng vậy, làm gì có chuyện kẻ thâm sâu như Ngu Bắc Huyền chỉ mới gặp con vài lần mà đã khăng khăng đòi cưới? Y chỉ ưng với thân phận hòn ngọc quý trên tay Vân Nam Vương của con thôi.”
“Mẹ, con hiểu rồi. Do chưa bao giờ được gặp vị lang quân của Lý gia, con sợ gả qua sẽ không hạnh phúc nên mới phản đối hôn ước. Là con quá ích kỷ.” Gia Nhu ôm Thôi thị, hổ thẹn nói.
Thôi thị thương yêu con gái vô cùng, khẽ vỗ lên lưng nàng: “Mẹ biết. Nhưng chuyện hôn nhân đại sự trước nay vẫn luôn theo lệnh cha mẹ, theo lời bà mối, Lý gia cũng xem như danh môn vọng tộc, tất sẽ không đối xử tệ bạc với con. Hơn nữa, cậu và anh chị họ của con đều ở Trường An, khi cần cũng giúp được đôi chút.”
Nhớ tới kiếp trước, lúc nàng bị trói tới Trường An, làm gì có người nào của Thôi gia tới thăm. Nhưng ngẫm lại cũng dễ hiểu, sau khi Nguyên Hòa đế đăng cơ, thế gia đại tộc nào cũng phải hành động thận trọng, ai dám dính líu đến thê tử của phản thần như nàng.
Nàng ngẩng đầu nhìn Thôi thị: “Gả cho cha rồi, mẹ phải rời xa quê hương và thân nhân, mẹ có từng hối hận không ạ?”
Thôi thị lắc đầu cười: “Chưa từng hối hận. Có con và Nhị lang là mẹ thỏa mãn rồi.”
Gia Nhu nghe xong, trầm ngâm suy tư.
Trên đời này, những cặp phu thê đến với nhau bằng tờ hôn thư không phải lúc nào cũng bất hòa.
Mà người tưởng rằng mình có được chân tình, chờ đợi họ chưa chắc đã là một kết cục trọn vẹn.
***
Địa thế thành Dương Tư Mị tương đối cao, núi giăng khắp bề, bốn mùa như xuân, nhưng nhiệt độ giữa ngày và đêm lại rất chênh lệch. Sau khi bước vào mùa mưa, tiết trời dầm dề, mặt trời hiếm khi nào ló bóng, Gia Nhu chỉ có thể ở trong nhà.
Mộc Thành Tiết ở vương phủ mấy ngày rồi lại về thành Kiếm Xuyên trấn thủ.
Gia Nhu nhớ rõ, kiếp trước nàng rời nhà chưa được bao lâu thì Lý gia đã tới trả hôn thư. Nàng những tưởng cha tuyên bố đoạn tuyệt quan hệ với nàng vì thể diện, song giờ ngẫm lại, nếu ông đã sớm biết Ngu Bắc Huyền lòng lang dạ sói thì ông làm vậy cũng là để vạch rõ ranh giới, bảo vệ vương phủ.
Con người ông nguyên tắc là thế, vậy mà vì hạnh phúc của nàng, ông sẵn lòng giao một phần mười lượng muối và sắt cho Ngu Bắc Huyền.
Còn nàng thì sao? Nàng chẳng mảy may biết gì, đã vậy còn thầm oán cha mình không biết bao năm.
Mưa ngày một nặng hạt, nàng ngồi thất thần trên tháp cạnh cửa sổ.
Mưa giăng thành màn trước hiên nhà, đậu xuống mái ngói gốm, như ai đánh rơi châu ngọc. Nàng không khỏi nhớ tới khoảnh khắc cuối cùng của kiếp trước, nhớ trận mưa xuân rả rích, yên ả mà lạnh thấu xương ở Trường An.
Kiếp trước, nàng từng tới Trường An hai lần, đọng lại chỉ là những hồi ức thê lương.
Ngọc Hồ bước vào cùng một phong thư, nàng ta trù trừ một hồi, đây đã là phong thứ năm trong mấy ngày liên tiếp, tuy không đề tên người gửi nhưng ba chữ “Mộc Gia Nhu” bay bổng cứng cáp cho thấy nó được viết bởi một người đàn ông.
“Quận chúa, lá thư này lại xuất hiện ở chỗ cũ…”
Gia Nhu ngước mắt, lạnh lùng bảo: “Ta không xem, đốt đi.”
Ngọc Hồ thở dài, vâng lời làm theo.
Nhìn ngọn lửa nhen lên trong chậu đồng nháy mắt thiêu phong thư thành tro, Gia Nhu cầm chén trên bàn, hờ hững uống một ngụm. Trong chén không phải trà mà là rượu gạo. Sau khi ở bên Ngu Bắc Huyền, tửu lượng của nàng miễn cưỡng được nâng cao, nay còn kém cỏi, rượu vào một chút là say.
Nhưng nàng thích cảm giác này, bởi chỉ cần say là nàng sẽ được yên giấc, chẳng còn đau đáu những chuyện cũ tang thương nữa
<!--EndFragment-->