Nguyệt Minh Thiên Lý - La Thanh Mai

Chương 46-70


1 năm

trướctiếp

-----------CHƯƠNG 46---------------

"Bởi vì Quân chủ Vương Đình là Phật Tử, nên ta dám cùng Phật Tử lập ước định này."

Dao Anh cười, nói khẽ. Nàng vẽ ra tấm bánh nướng cho Đàm Ma La Già. Ăn được hay không, không ai nói chắc.

Cao Xương sẽ bằng lòng kết minh chứ? Bọn họ có thể đưa tin thuận lợi về Trung Nguyên chăng? Cách xa ngàn núi vạn sông, đến khi tin tức của họ đưa được đến Trung Nguyên, ai biết có biến cố gì?

Đều là biến số.

Nhưng chỉ cần họ có nhiều hơn một hướng bước đi, là nhiều một phần hy vọng.

Nếu Vương Đình vẫn do đám đại thần quý tộc Khang Mạc Già nắm triều chính, Dao Anh tuyệt đối không đưa ra lời kết minh với Vương Đình, vì chúng là người chỉ lo lợi ích gia tộc vốn chẳng để ý đến Vương triều Trung nguyên tám ngàn dặm xa kia, đề nghị của nàng chẳng những chẳng được coi trọng mà còn chỉ đổi lấy chế giễu.


Hơn nữa kết minh với đám Khang Mạc Già, nàng còn phải đề phòng bị đối phương lợi dụng hãm hại.

Đàm Ma La Già không giống, ngài ấy đặt sống chết của dân chúng Vương Đình trong lòng, tầm nhìn lâu dài khoáng đạt, thông minh như ngài ấy chắc chắn biết hy vọng xa vời chừng nào nhưng nhất định ngài sẽ muốn thử một lần —— thêm một bạn tốt, là bớt một kẻ thù, ngài không biết mình còn chống chọi bao lâu, càng cần nhiều bạn tốt.

Nên Dao Anh chẳng cần nói hoa nói hòe, cũng không cần đưa cam kết gì.

Mặc cho kết quả cuối cùng là gì, Đàm Ma La Già sẽ không làm khó nàng, dù ngài ấy cũng không có ý định kết minh với Trung Nguyên. Dao Anh chắc chắn điểm này.

Người đàn ông trước mắt này làm nàng rất an tâm, nửa năm lưu lạc đến Tây Vực này, mỗi ngày nàng phập phồng lo sợ, mãi đến khi bước vào Vương Đình mới rốt cục ngủ được một giấc ngon, không mộng mị kinh hoàng hàng đêm.


Ngài ấy có một đôi mắt sâu thẳm như nhìn thấu mọi thứ, đối mặt với ngài, nàng không cần che dấu, không cần tính toán, chỉ cần nói ra suy nghĩ trong lòng là được.

Dao Anh nói tiếp: "Thượng binh phạt mưu, kỳ thứ phạt giao, kỳ thứ phạt binh, kỳ hạ công thành*. Lấy mưu lược phe ta để đánh địch, không đánh mà thắng là vì binh, là vì binh trên hết, Phật Tử lòng dạ từ bi, hẳn đồng ý điểm này."

*Binh pháp Tôn Tử: dùng mưu kế đập địch trước, mới đến ngoại giao đấu tranh giành chủ động, rồi mới đến dùng binh, cuối cùng mới là công thành – cách bất đắc dĩ nhất.

Thiếu nữ tuổi mười lăm, đương thanh xuân rực rỡ nhất, tóc mai đen nhánh, dây buộc tóc màu đỏ rủ trên cần cổ trắng, da thịt như tuyết, mặt rạng rỡ như hoa dâʍ bụt, xinh đẹp đến sáng trưng cả nội địa.


Giống như có câu tả ở Trung Nguyên, đông phong dạ phóng hoa thiên thụ*.

*Thanh Ngọc Án – thơ Nam Tống – đại ý gió đông thổi, hoa đăng thả đêm nguyên tiêu rực rỡ như hoa nở trên ngàn gốc cây.

Nắng chiếu vào trong điện bốn bức tường trắng như trốn tìm, vàng rực trước trường án, trên bàn một quyển kinh thư mở ra, trang giấy ố vàng.

Ánh mắt Đàm Ma La Già rơi lên quyển kinh. "Đợi sau Pháp hội hành tượng, A Sử Na Tất Sa sẽ hộ tống công chúa đi Cao Xương."

Mặt Dao Anh lộ vẻ rạng rỡ: Vầy là ngài đồng ý nhỉ!

"Chuyện không được truyền ra ngoài, thiệt thòi cho Văn Chiêu công chúa rồi."

Dao Anh gục gặc: "Pháp sư không cần lo, ta biết chừng mực, ước định này chỉ giữa ta và ngài."

Nàng thở hắt một hơi, cười cười. "Ta rời xa Trung Nguyên, không binh không tướng, Pháp sư bằng lòng tin tưởng ta, ta rất cảm kích, thiệt là thiệt thế nào? Nếu có thể trở lại Trung Nguyên, ta sẽ vô cùng cố gắng thúc đẩy minh ước."
Đầu ngón tay Đàm Ma La Già nhẹ lật quyển kinh, yên tĩnh một lúc, nói: "Công chúa không cần tự coi nhẹ mình."

Phần dũng khí và ánh mắt nhạy cảm này của nàng, đáng giá sự tin cậy của chàng.

Năm mười ba tuổi chàng dẫn chỉ mấy ngàn kỵ sĩ Trung quân đánh đâu thắng đó, chưa từng thua Bắc Nhung, thời điểm đó chàng cũng là không nắm chút phần thắng nào, nhưng cuối cùng vẫn thắng.

Đàm Ma La Già che miệng ho khan, giữa hai đầu lông mày in vẻ mệt mỏi.

Ánh mắt của Dao Anh đảo qua lại trên mặt chàng, nhẹ giọng hỏi: "Dạo này Pháp sư có hay bị tim đập nhanh, nóng sốt, đêm đổ mồ hôi trộm không?"

Đàm Ma La Già ngước nhìn nàng.

Dao Anh vẻ đầy lo lắng, nhìn kỹ sắc mặt của chàng, lộ rõ ân cần: "Thuỷ mãng thảo có độc, không thể dùng lâu dài, nếu Pháp sư thấy khó chịu nhất định phải báo cho Đề Bà Mông Đạt."
Đàm Ma La Già vâng nhẹ nhàng.

Dao Anh nhớ tới chàng còn mang bệnh nặng chưa khoẻ, đứng dậy cáo từ: "Pháp sư còn phải chuẩn bị cho đại hội tranh biện kinh thư, ta không quấy rầy pháp sư suy nghĩ."

Sau lưng không một tiếng động, trước khi ra cửa nàng đưa mắt nhìn lại, Đàm Ma La Già cúi đầu xem kinh thư trên bàn, ánh nắng vàng mênh mông phác hoạ mặt bên chàng một nét thon gầy.

Dao Anh trở lại chỗ nghỉ, lục danh sách hồi môn, dặn thân binh lọc ra tất cả Phật kinh điển tịch, đưa tới chỗ Phật Tử.

"Kinh Phật lưu truyền ở Trung Nguyên và Tây Vực có khác biệt, Pháp sư và các vị sư trong chùa vài hôm còn luận bàn về kinh Phật với tăng nhân các nước, mấy quyển kinh Phật này có khi phát huy tác dụng."

Ngoài kinh Phật, nàng còn dặn thân binh đưa qua chỗ Phật Tử toàn bộ các tượng Phật vàng ngọc lớn nhỏ, sẵn trên dưới Vương Đình đều đang chuẩn bị cho lễ Hành tượng, mấy bức tượng này giữ lại cũng không có chỗ dùng, không bằng tặng đi.
Vương Đình sùng Phật, khắp trong thành đều có thạch tháp Phật Tử, tượng Phật Dao Anh tặng đi cũng chẳng lạ, nhưng mấy quyển kinh Phật rất nhanh được các sư trong chùa chú ý, tranh nhau truyền tay đọc mấy bản chép tay bằng tiếng Phạn, kịch liệt thảo luận về chân ý nghĩa trong kinh thư.

Bát Nhã biết được, quá sợ hãi, chạy vội tới chủ trì Phật Tự: "Mấy bức tượng Phật mà Văn Chiêu công chúa tặng đâu? Gom đủ nguyên vẹn trả về đi!"

Chủ trì đáp: "Còn mấy ngày đã tới Pháp hội, Văn Chiêu công chúa gửi tới đều là những bức tượng Phật sắc sảo, đã mang đi bố trí công đường, công chúa hào phóng, còn tặng vài tượng vàng trong đó để bách tính thờ cúng, họ đều rất cảm kích công chúa."

Bát Nhã giẫm chân thở dài, vò đầu bứt tai: "Còn mớ kinh thư Văn Chiêu công chúa tặng đâu? Mấy người lấy hết à? Tranh thủ trả lại!"
"Kinh thư mà công chúa tặng câu từ đẹp đẽ, ý nghĩa sâu sắc, mấy sư trong chùa nghiên cứu đến quên cả ăn, thiền sư đã mấy ngày rồi không dạy thiền pháp."

Bàn Nhược vô cùng tuyệt vọng: "Các người, các người còn nhận của cổ bao nhiêu thứ nữa vậy?"

Chủ trì nghĩ nghĩ đáp: "Hôm kia thì công chúa gửi tới một xe tơ lụa cao cấp để các vị tăng nhân cắt may Pháp y dùng trong Pháp hội... Hôm qua thì hộ vệ của công gửi tiền bố thí..."

Nói ngắn gọn, tiền đã nhận, tượng Phật đã trưng dùng, sách đã xem, Pháp y cũng may luôn.

Vậy thì trả gì.

Chủ trì chắp tay trước ngực, ngại ngùng lắc đầu.

Không thể.

Bát Nhã đầu váng mắt hoa, lảo đảo mấy lần, khóc không ra nước mắt.

Lần này hay rồi, không chỉ mỗi Vương dùng Thuỷ mãn thảo trong mớ đồ cưới mà Phật Tử còn nhận nào tương Phật, sách kinh, tơ lụa,... công chúa tặng, đến cả dân chúng cũng cầm đồ cưới của cổ rồi luôn rồi! Lòng như lửa đốt Bát Nhã quay về Vương cung, vào nội điện, bước chân nặng nề.
"Vương, Văn Chiêu công chúa có ý đồ, đồ cưới cô ta gửi qua hết rồi! Tôi nghi cô ta cố tình, muốn ngài chịu trách nhiệm cả đời!"

Đàm Ma La Già mặc cà sa tuyết trắng ngồi trước cửa sổ xem kinh thư, nghe vậy ngẩng đầu, nhẹ nhăn mày. "Mời Văn Chiêu công chúa tới."

Dao Anh còn tưởng Đàm Ma La Già muốn thương lượng chuyện nàng đi Cao Xương, không ngờ khi bước vào nội điện, đã thấy rất nhiều người đứng, A Sử Na Tất Sa, tổng quản Vương cung, mấy người đều khoanh tay đứng hầu vẻ hơi ngượng ngùng.

Bát Nhã, Duyên Giác và thân binh khác đứng trước cửa, bầu không khí trong điện như ngừng trôi.

Ngồi trên bảo tháp, Đàm Ma La Già tay cầm một quyển kinh văn đang đọc, rất thanh nhã.

Đám dưới điện mồ hôi đầy đầu. Trong điện yên tĩnh, tiếng kim rơi còn nghe được.

Tất Sa thấy Dao Anh bước vào, lặng lẽ thở hắt, gãi đầu, ôm quyền chào nàng, nói: "Công chúa, là ta sơ sót, chăm sóc không chu toàn."
Tổng quản Vương cung cũng quay sang Dao Anh thở dài.

Dao Anh ngơ ngác, vội cuống quýt đáp lễ.

Tất Sa quay lại nhìn Đàm Ma La Già, nói: "Vương, sách quý do công chúa mang từ Trung Nguyên tới thì vẫn còn, còn mấy thứ kia không thể trả lại nữa, tôi sẽ đưa công chúa đến khố phòng, mời công chúa tùy ý chọn bảo vật, không để công chúa bị thiệt thòi ạ."

Đàm Ma La Già không nói lời nào, khoát tay áo. Đám Tất Sa cung kính hành lễ với ngài rồi nháy mắt ra hiệu Dao Anh cùng lui ra.

"Công chúa, mời đi lối này." Tất Sa dẫn Dao Anh đi bảo khố Vương cung.

"Công chúa đã bỏ ra bao nhiêu thứ, giá trị bao nhiêu, cứ nói hết với tôi, không cần khó xử. Thủy mãng thảo với mấy vị thuốc hẳn rất đắt nhỉ? Mới cả kinh thư quý báu rồi tơ lụa cao cấp nữa, ở Tây Vực, lụa Trung Nguyên một thớt giá trị trăm vàng đó. Đồ cưới của công chúa là vĩnh viễn thuộc về người, không nên bị người Vương Đình chiếm dụng. Ban nãy Vương mới trách phạt tôi với tổng quan Vương cung đấy."
Dao Anh dở khóc dở cười: "Nhờ ngài nhắn dùm Pháp sư, tổng quản Vương cung không hề ghẻ lạnh với ta, còn mớ sách kinh tơ lụa là ta tự nguyện gửi, không liên quan đến tổng quản."

Tất Sa cười cười: "Vương biết tượng Phật, kinh thư, tơ lụa và tiền cúng đều do công chúa tự nguyện đưa ra, không ai ép buộc mà."

Dao Anh khẽ giật mình: "Vậy vì sao Pháp sư còn trách phạt tổng quản?"

Nét cười tràn đầy trên mặt Tất Sa, "Công chúa một thân một mình ở nước khác, suy nghĩ nặng lòng, gửi đi đồ cưới là muốn cuộc sống ở Vương Đình thoải mái hơn chút."

Dao Anh gật gật, lại lắc lắc: "Nếu không có sự hỗ trợ của Vương Đình thì ta đâu thể đoạt lại mấy thứ đó? Ta gửi kinh sách và tượng Phật vì muốn mở rộng thiện duyên, cũng bởi vì cảm kích Phật Tử, tuyệt đối không có gì khó xử."
Mi dài Tất Sa hơi nhíu, "Công chúa thật sự buông được à?"

Dao Anh cười khẽ: "Ta giữ được mạng này, lòng đã vô cùng cảm kích rồi."

Đúng là có người ở Vương Đình ngấp nghé xe của cải khi Trung quân từ Bắc Nhung đưa về, nàng nhanh tay gửi đi hết, ngoại trừ ngoài mặt cảm tạ Đàm Ma La Già cũng có lo nghĩ cho bản thân, nào có chỗ khó xử. Gửi đi càng có lợi hơn mà.

Ánh mắt Tất Sa lộ vẻ tán thưởng: Công chúa quả nhiên thông minh.

Hàng xe xe chứa đầy châu ngọc của cải đánh vào Vương cung, ngày nào không bị bao nhiêu ánh mắt dòm ngó, của cải động lòng người, sớm muộn cũng có người có chủ ý nhằm vào đống này. Công chúa chủ động bố thí hết, đưa qua cả chỗ Vương Phật Tử, ai dám ra tay nữa? Vậy thì chẳng phải nàng không chỉ bảo toàn chính mình, có tiếng tốt, lại không để đại thần tham lam có cơ hội ra tay, một công nhiều việc ư.
Tất Sa vỗ tay nói: "Công chúa thật quả quyết giữ hay bỏ, tôi rất bội phục! Có điều Vương nói, người là khách của Vương Đình cũng không thể để người phải ra quyết định thế này, mới cả Vương đã dùng thuốc của người cũng nên đền bù chút đỉnh."

Anh ta ra hiệu tổng quản mở ra khố phòng Vương cung. "Công chúa nhìn trúng vật gì, cứ việc chọn nhé!"

Dao Anh theo vào khố phòng, trước mắt ánh vàng lấp lánh, mùi đầy bảo vật. Dù nàng vẫn luôn thường thấy hào nhoáng phú quý nhân gian, vẫn không khỏi ngẩn ngơ.

Hòa thượng có tiền ghê!

-----------CHƯƠNG 47---------------

Vàng bạc ngọc quý, châu báu quý hiếm, san hô cao mấy thước, đèn lưu ly tinh xảo đặc sắc, tỏa ra ánh sáng lung linh, rực rỡ muôn màu. Trên mặt đất rương đựng của cải lộn xộn chất đống phát ra từng luồng hào quang, suýt lóa cả mắt Dao Anh.

Tất Sa đứng bên cạnh đưa tay mời: "Công chúa tùy ý chọn, bên ngoài đã chuẩn bị sẵn mấy xe ngựa, chỉ cần công chúa thích thì có thể lấy dùng."

Dao Anh lấy lại tinh thần, thầm nghĩ: Đàm Ma La Già có tiền vầy thì nàng không cần khách khí. Lia mắt một vòng, ánh mắt dừng lại trên một chiếc hộp con, ngơ ngẩn, trong lòng như sóng biển dâng trào, bước tới cầm lấy chiếc hộp, chóp mũi cay xè, mắt hơi ửng đỏ.

"Vậy thứ này đi." Giọng nàng nghe mềm mại khàn khàn.

Tất Sa sửng sốt một lát định nói lại thôi, về nội điện nhận lệnh. Trong điện lặng ngắt như tờ, hương khói lượn lờ, Đàm Ma La Già đang chìm trong một chùm sáng mát lạnh, không lên tiếng.

Tất Sa đợi một lúc thấy ngài xem sách kinh đến nhập thần không dám quấy rầy, lui ra.

Bát Nhã ngăn ngoài cửa điện, rất khẩn trương hỏi: "Văn Chiêu công chúa lấy bao nhiêu thứ thế?"
Tất Sa quay nhìn Đàm Ma La Già trên bảo tháp, ra chiều suy nghĩ, hững hờ nói: "Văn chiêu công chúa chỉ lấy một vật."

Bát Nhã gấp đến sắp bốc khói, hỏi luôn một tràng: "Công chúa lấy gì?"

Tất Sa quay lại, nói: "Một viên Dạ quang bích, có vẻ công chúa rất thích nó."

Bát Nhã dậm chân nói: "Sao chỉ lấy Dạ quang bích nhỉ?"

Tất Sa liếc cậu, ánh mắt lạnh như băng: "Sao hả, cậu chê công chúa lấy nhiều quá à?"

Bát Nhã gấp gáp đấm ngực: "Tôi ngại công chúa lấy ít thì có! Mấy vị thuốc kia đâu chỉ đáng một viên Dạ quang bích! Sao cô ta chẳng lấy nhiều hơn nhỉ!"

Tất Sa nhếch miệng cười ra tiếng: "Cô ấy lấy ít cậu nổi điên làm gì? Ta nhớ cậu rất không thích công chúa Văn Chiêu mà."

Bát Nhã ai oán nguýt anh: "Tướng quân còn cười được à? Đồ cưới của Văn Chiêu công chúa đưa hết qua Phật tự, giờ cả thành đồn công chúa một lòng say mê Vương, bỏ hết vật ngoài thân chỉ vì đi theo Vương! Cô ta lại có cớ quấn lấy Vương tiếp ấy!"
Tất Sa cười cười, "Cậu sợ cái gì? Văn Chiêu công chúa si tâm ra sao, chỉ cần Vương không động tâm, sau một năm thì cô ấy sẽ rời đi. Cô ấy là người giữ lời, sẽ không quấn quýt si mê Vương đâu."

Cô gái Ma Đăng Già vì gả cho A Nan nguyện tu hành một năm, Lý Dao Anh đã thề, làm theo Ma Đăng Già, chỉ ở Vương Đình đợi một năm.

Trừ phi Đàm Ma La Già động tâm với nàng ấy.

Bát Nhã hất cằm: "Đương nhiên Vương không động tâm rồi!" Vương là A Nan chuyển thế, lúc sinh ra Thánh Thành mây ngũ sắc đầy trời, Vương cung ẩn hiện tiếng Phật. Vương cao quý thánh khiết, thanh tịnh cách dục, sao bị một công chúa Hán dẫn dụ được? Dù có nghiêng nước nghiêng thành đi nữa...

Tất Sa trêu: "Vậy cậu đang sợ chuyện gì?"

Bát Nhã ngơ ra.

...

Dao Anh cầm hộp quý về viện tử, ngồi trong góc khuất hành lang nhìn viên Dạ quang bích bên trong đến ngơ ngẩn.
Tạ Thanh đang luyện quyền trong đình thấy đôi mắt nàng đỏ bừng, bèn bước lên thềm đá, chau mày: "Công chúa, ai làm khó ngài?"

Dao Anh lấy lại tinh thần, cười cười, chùi khóe mắt: "Không có, ta nhớ anh ta." Viên Dạ quang bích của Vương Đình màu sắc trơn bóng, còn muốn lớn hơn viên anh cho nàng nhưng nàng vẫn thích viên kia nhất. Giờ, không rõ nó rơi vào tay ai rồi.

Như thường lệ, mặt Tạ Thanh không lộ cảm xúc an ủi Dao Anh: "Chắc chắn người sẽ bình an về lại Trung Nguyên, đoàn tụ với Tần Vương."

"Giờ anh không còn là Tần Vương, là Vệ Quốc Công rồi." Chắc chắn anh rất lo cho nàng, nàng cần về sớm chút. Dao Anh thở ra một hơi thật dài, thu nỗi muộn phiền, tự phấn chấn tinh thần triệu tập thân binh, căn dặn: "Chờ Pháp hội kết thúc, Tạ Bằng, Tạ Xung và A Thanh theo ta đi Cao Xương."
Các thân binh đáp vâng, Tạ Thanh hỏi: "Vương của Cao Xương sẽ giúp công chúa ạ?"

Dao Anh nói: "Đi mới biết được."

Mấy thân binh im lặng. Dao Anh nhìn qua đám thân binh ủ rũ cúi đầu, cất cao giọng: "Ban Siêu* đời Hán đi sứ Tây Vực, chỉ mang ba mươi sáu người, không mất một binh một tốt của triều đình mà thu phục hơn sáu mươi nước Tây Vực."

"Vương Huyền Sách** đời Đường đi sứ Thiên Trúc, sứ đoàn bị bắt, ngài may mắn trốn thoát, mượn binh Thổ Phiên dẫn quân đánh Thiên Trúc, chém đầu hàng ngàn, bắt sống Quốc vương Thiên Trúc A La Na và bộ hạ, tiếng tăm khắp nơi, hơn năm trăm tòa thành Thiên Trúc quy hàng."

*nhà quân sự, ngoại giao, sử học nổi tiếng Đông Hán, phụng mệnh đi sứ Tây Vực, trong 31 năm thu phục hơn 50 nước Tây Vực, có nhiều cống hiến lớn, phong Định Viễn Hầu.
**người Lạc Dương, quan triều Đường, nhà ngoại giao, mấy lần đi sứ Ấn Độ. Lần thứ hai bị vua mới lên của Thiên Trúc cho người cướp sứ đoàn.

Nàng dừng lại, ánh mắt lướt qua từng gương mặt thân binh, "Trước mắt chúng ta dù đang chịu nạn ở Tây Vực cũng chưa hẳn không thể thoát, triều đình vẫn luôn hy vọng có thể khôi phục lại con đường nối kết với Tây Vực mà chư quốc Tây Vực cũng ngóng có ngày thuộc Đông, đi sứ Cao Xương, chính là thời cơ tốt cho các ngươi thi thố tài năng!"

Thân đang ở ngoại vực xa xôi, con đường phía trước xa vời, ngôn ngữ không hiểu, đám thân binh sĩ khí đang não nề, nghe xong đột nhiên cảm thấy tầm mắt được khai sáng, nhiệt huyết sôi trào, nếu họ cũng học Ban Siêu, Vương Huyền Sách giúp triều đình thu phục Tây Vực, chẳng phải sẽ có thể vang danh sử sách, vinh quang gia tộc ư?
Họ nhìn công chúa, trong mắt dần cháy lên hai ngọn lửa đỏ rực.

Dao Anh đứng trước bậc vẻ rất trịnh trọng: "Bắc Nhung đang dòm ngó Trung Nguyên, sớm muộn gì chúng ta cũng phải dùng vũ lực với họ. Lần này đi Cao Xương, nếu không thể đạt được bất kỳ trợ giúp từ Vương của Cao Xương thì chí ít cũng nhiều ít thám thính được quân tình, biết người biết ta, mới thêm một phần thắng."

Đám người cao giọng đã rõ, khí thế ngùn ngụt, hận không thể lập tức xuất phát.

Dao Anh thấy họ kích động mà cười cười. Thân binh nửa năm bị cầm tù của nàng đang suy sụp, tinh thần sa sút, giờ lại thấy vài phần nhiệt huyết hào hùng nam nhi sao không mang ngô câu*, dù họ có lập được chiến công xuất thế hay không, khí phách và khát vọng trước mắt này, là họ đã nhặt lại lòng tin, bình tĩnh ứng đối mọi nguy hiểm.
*Ngô Câu là một loại loan đao thời Xuân Thu, đúc bằng đồng thau, là vũ khí rất điển hình, tràn ngập vẻ truyền kỳ, sau được các văn nhân lớn đưa vào thơ, trở thành vật tượng trưng cho tinh thần xông pha chiến trường, dốc lòng báo quốc.

Càng trong lúc bị vây hãm, càng không thể mất ý chí chiến đấu.

"Vương Đình có thể nhiều lần ngăn cản đại quân Bắc Nhung, hẳn họ có cách chiến thắng, trên đường đi Cao Xương, các ngươi phải chú ý quan sát Trung quân Vương Đình, học tập sở trường của họ."

Mấy thân binh đồng thanh vâng lời, đưa mắt nhìn Dao Anh về phòng, nháy mắt với Tạ Thanh vẫn một vẻ bộc trực: "Sao cô không đi theo?"

Tạ Thanh ngơ ngác. Tạ Xung ầy một tiếng, nói: "Công chúa nhớ Vệ Quốc Công, tâm tình không tốt, cô theo mà an ủi công chúa, đừng để người thương tâm khổ sở, bọn ta chắc chắn sẽ đưa người về nhà!"
Tạ Thanh xụ mặt: "Sao lại nghĩ ta phải đi an ủi công chúa?"

Đám thân binh cũng chả rõ tự dưng nàng nổi đóa, nhìn nhau.

Tạ Thanh chụp lấy thanh kiếm gỗ luyện võ, khẽ xoay cổ tay chĩa mũi kiếm về đám thân binh. "Là vì các ngươi cho ta là con gái nên khi công chúa buồn rầu thì cứ phải bảo ta đi dỗ à, vậy ta có cần thay đồ con gái, ngồi thêu hoa cùng, uống trà khóc lóc cùng với người để người bớt buồn không?"

Đám thân binh đau đớn hét rầm, vừa ôm đầu né vừa xin tha "Đại ca! Đại tỷ! Đại nương! Tụi tôi sai rồi! Tụi tôi sai rồi!"

Tạ Thanh tiếp tục đuổi đánh, cười lạnh: "Vốn các ngươi chẳng thấy có lỗi!"

"Ta nói này, dù ta có là thân gái, vẫn là hộ vệ của công chúa! Là đội trưởng của các ngươi! Có thể đánh bọn ngốc các ngươi không còn sức chống đỡ đó!"

Đám thân binh bị dồn vào góc tường hết chỗ trốn, dứt khoát ngã xuống đất, kêu rên liên tục, khóc xin tha: "Vâng! Phải rồi! Chúng ta là đồ ngốc!"
Tạ Thanh chém xuống, kiếm gỗ gọt sạch sợi tóc của tên thân binh. Tạ Bằng Tạ Xung ôm nhau một chỗ run lẩy bẩy.

Tạ Thanh xách kiếm, đá tên thân binh nhào vào ôm chân mình một cái bay tưng: "Dù ta là nam hay nữ, công chúa xem ta là hộ vệ của người, còn người là chúa công, các ngươi nhớ kỹ, ta là đội trưởng của các ngươi, không phải thị nữ của công chúa! Ta trung thành phụng dưỡng công chúa thế nào, không tới phiên các ngươi chỉ điểm!"

Cả đám mặt mũi bầm dập, lòng đầy ấm ức.

Tạ Xung khóc ròng: "Đại ca! Đại gia! Tổ tông! Tụi tôi thật sự đâu có ý xem nhẹ chọc ghẹo gì cô! Xưa nay thấy cô gần gũi với công chúa nên mới bảo cô đi an ủi người, công chúa tôn quý, mấy tên thô lậu tụi tôi vừa thấy đã không nói ra lời, khuyên là khuyên làm sao..."

Đám kia vội vàng phụ họa.
Tạ Thanh dịu cơn giận chút, thu kiếm gỗ, "Từ rày bớt chỉ huy ta đi!"

Đám người nằm rạp trên mặt đất, gật đầu như giã tỏi.

Chờ tiếng kêu la xin tha ngoài kia lắng xuống, Dao Anh nhô nửa người ra hành lang nhìn lướt, cười nhẹ nhàng, nheo khóe mắt, thật dễ thương.

Tạ Thanh lầm lì, vóc người cao lớn, mặt gãy gọn, nhìn góc nào cũng không giống con gái. Dao Anh nhẹ giọng gọi nàng: "A Thanh, đừng nóng giận."

Tạ Thanh không nói.

Dao Anh ghé vào trước cửa sổ, khẽ nói: "Đám Tạ Bằng ỉu xìu suốt, cô đánh họ một trận cũng hay, ta thấy tinh thần họ lên gân nhiều đó." Thấy nàng không có ý trách tội, mặt Tạ Thanh vẫn bơ bơ, chỉ yên lặng ưỡn ngực thẳng tắp.

Đám thân binh hết bị đánh, thấy mất mặt trước Dao Anh, nóng lòng biểu hiện, đột nhiên phấn khởi như được ăn tiên đan, trời chưa sáng đã rời giường luyện võ.
Dao Anh bị đánh thức mỗi sớm: ...

Nàng thật thèm cảm giác ngủ say sưa.

Lễ hành tượng đã gần đến, không khí chào mừng trong thành ngày càng đậm, mấy thân binh tinh lực cả người không biết xài vào đâu, tò mò muốn xem Pháp hội Phật quốc náo nhiệt.

Tạ Xung đến xin Dao Anh: "Công chúa cùng đi với tụi tôi xem tí đi."

Công chúa cành vàng lá ngọc bị nhốt ở doanh địa của Hải Đô A Lăng gần nửa năm thế nào, họ nhìn rất đau lòng, giờ ở Vương Đình cả, người Bắc Nhung không dám làm loạn, công chúa có thể ra ngoài hít không khí.

Dao Anh cũng ngại cả ngày ở mãi một góc trong cung, nhưng đang ăn nhờ ở đậu nàng không muốn ra ngoài nhỡ đụng phải Tiết Duyên Na ngoài cung, cười nói: "Các ngươi đi chơi đi."

Nàng cho Tạ Thanh phát mỗi người vài đồng bạc có thể lưu thông ở Tây Vực, một đồng có thể mua không ít thứ.
Tạ Thanh căn dặn thân binh: "Luôn phải tỉnh táo đừng chuốc thêm phiền cho công chúa."

Thân binh cười hì hì nhận tiền, cam đoan luôn miệng, cặp kè ra cung, trong đêm quay về ôm theo một đống đồ chơi mới lạ chưa thấy bao giờ cho Dao Anh giải buồn.

Hôm nay, đám thân binh tiếp tục dậy luyện quyền lúc trời còn chưa sáng, ăn xong ra cung xem náo nhiệt.

Dao Anh đang chuẩn bị để đi Cao Xương, gói ghém hành lý, kiểm kê sổ sách, bận đến chiều, bỗng Tạ Xung từ ngoài chạy xông vào viện: "Công chúa, mấy đứa Tạ Bằng bị bắt!"

Tạ Thanh ra đón: "Xảy ra chuyện gì? Ai bắt? Các ngươi gây tai hoạ gì rồi?"

Quần áo Tạ Xung lộn xộn, cả người thương tích, cúi đầu trước Dao Anh mới bước ra khỏi phòng, áy náy nói: "Công chúa, đám Tạ Bằng không cẩn thận phạm luật của Vương Đình, bị dẫn đến chỗ Nhϊếp Chính Vương."
Dao Anh biến sắc.

Phật tử Đàm Ma La Già lấy nhân đức được vạn dân kính ngưỡng, còn Nhϊếp Chính Vương Tô Đan Cổ thì trấn áp lòng người bằng gϊếŧ chóc, hắn tàn nhẫn vô tình, chấp chưởng quyền sinh sát, tự mình xử tử Vương công đại thần hết người này đến người khác, đại thần trong triều nghe đến tên hắn liền đau tim, nghe tin đã sợ mất mật, còn dân chúng sợ hắn như hổ sói.

Ngay cả mấy người trung thành với Đàm Ma La Già như Bát Nhã, Duyên Giác cũng rất sợ Tô Đan Cổ, thấy hắn máu lạnh gϊếŧ chóc, tội nghiệt quá nặng, dù họ thường xuyên dùng Tô Đan Cổ dọa Tiết Duyên Na nhưng bình thường kiệm lời chẳng muốn nhắc đến hắn.

Trên dưới Vương Đình không ai dám đi gần Tô Đan Cổ. Chỉ đến khi cần hù người mới nhắc đến cái tên này.

Mấy đứa Tạ Bằng rơi vào tay Tô Đan Cổ, dữ nhiều lành ít.
Năm đó chú của Tiết Duyên Na định phát động phản loạn, ép đại thần ủng hộ hắn lên ngôi, vị Nhϊếp Chính Vương này đến một tên hộ vệ cũng không đem, một mình một đao gϊếŧ vào triều đình Vương Đình, ngay trước mặt văn võ quần thần chém đầu chú Tiết Duyên Na, vác ra trước cửa cung, thét lớn lệnh thống lĩnh Tả quân Tiết gia đầu hàng, hung tợn ngập trời như Tu La.

Tiết Duyên Na sợ đến mềm nhũn chân tay, từ đó về sau, chỉ cần nghe cái tên Tô Đan Cổ đã túa mồ hôi lạnh ướt sũng cả người.

Tạ Bằng phạm luật Vương Đình gì mà bị bắt vào trong tay Tô Đan Cổ nhỉ? Dao Anh ổn định tinh thần, hỏi Tạ Xung: "Rốt cuộc đám Tạ Bằng phạm vào tội gì?"

Mỗi một thân binh đều trung thành tuyệt đối trải qua long đong cùng nàng, nàng không thể đứng nhìn họ bị Tô Đan Cổ xử quyết. Nhưng hiện đang ở Vương Đình phải nên nhập gia tùy tục, đúng là đám Tạ Bằng đã làm sai trước. Phải hỏi rõ ràng trước thì mới có cách giải quyết.

Tạ Xung nghiến răng nghiến lợi, cả giận nói: "Gần đây trong thành rất náo nhiệt, có rất nhiều đội buôn sẵn dịp lễ vào thành bán hàng, tụi tôi nghe nói thương lái Thành Nam bán ngựa tốt nên qua tìm thử, ai ngờ nơi đó không chỉ bán ngựa..."

Hai mắt cậu đỏ rực, "Chúng còn bán người! Bán toàn là người Hán!"

Dao Anh khẽ thầm thở dài.

Buôn bán người là một trong những mối buôn bán kiêm lợi nhiều nhất ở Tây Vực, gần như tất cả nhà buôn ở Tây Vực đều buôn bán nữ nô. Thường ngày bán ở Trung Nguyên phần lớn là gái Hồ có khuôn mặt xinh đẹp, còn ở Tây Vực này, là tù binh bị mấy bộ lạc cướp bóc lẫn nhau trói bằng dây cỏ như súc vật, trong đó có một lượng lớn là người Hán.

Vương triều Trung Nguyên suy sụp, địa vị người Hán ở Tây Vực rớt xuống ngàn trượng, biến thành dân đen, bị ép cắt đứt mọi liên hệ với Trung Nguyên, nói tiếng Hồ, theo tục lệ người Hồ, tết tóc, mặc áo cài bên trái, mặc cho mua bán.
Tạ Xung quỳ trước mặt Dao Anh, mắt cọp rưng rưng: "Công chúa, tôi với Tạ Bằng cũng hiểu tình cảnh của chúng ta bây giờ, không muốn đụng tới, ban đầu định lặng lẽ lùi ra... nhưng có một lão giả nghe tụi tôi nói thì tự nhiên khóc xông ra..."

Lão giả tóc trắng xoá, gầy như một bộ khung xương khoác tấm da người, té nhào xuống dưới chân Tạ Bằng, ngón tay khô đét nắm chặt vạt áo cậu ấy, mở miệng, bằng tiếng phổ thông chính gốc: "Ông trời có mắt! Ông trời có mắt mà! Trương Tùng ta trước khi lâm chung có thể nghe được giọng quê nhà!"

Tạ Xung với Tạ Bằng đỡ lão dậy. Lão hỏi thăm thì biết họ từ Trung Nguyên đến, sửng sốt mãi rồi đột nhiên bật khóc. "Hoàng đế Trung Nguyên còn nhớ những người dân bọn ta này hay không? Bọn ta khổ sở đợi chờ vương sư thu phục non sông, chờ đã mấy chục năm rồi đó!"
Hai người Tạ Xung đỏ mắt, không nói nên lời. Lúc Chu thị tiền triều lập quốc đã từng nghĩ đến việc thu phục Tây Vực, nhưng binh lực chưa đủ, mâu thuẫn trong triều lớn, chưa đến mấy đời đã mất nước. Hoàng đế bản triều Lý Đức và Thái tử Lý Huyền Trinh đều muốn thu phục Hà Lũng nhưng Đại Ngụy mới dựng nước một thời gian ngắn lại đứng trước loạn trong giặc ngoài, không hiểu rõ tình thế ở Tây Vực, tạm thời không dám tùy tiện phát binh.

Hai người không biết trả lời sao, lão giả cũng không nghĩ sẽ nghe được một câu khẳng định, tuyệt vọng khóc rống.

Đúng lúc này, tên buôn người Hán mới một roi đánh tới, lão giả bị đánh ngã ngửa.

Tạ Bằng không đành lòng nhìn lão giả chịu nhục mới dùng tiền mua nhưng tên buôn người lại cố ý khó dễ vì họ là người Hán nên đánh chết tươi lão giả trước mặt hai người!
Một ông lão xuất thân từ vọng tộc Hà Tây, lúc còn trẻ bị bắt cóc đến Tây Vực, làm nô ɭệ mấy mươi năm vẫn chưa quên giọng nói quê hương, chỉ mong đến ngày binh đoàn đánh đến, cứ thế đã bị đánh chết tươi!

Nói đến đây, hai tay Tạ Xung nắm chặt, run cả người, cố nén phẫn nộ và bi thương, nói: "Tạ Bằng muốn cứu lão giả nên đã xung đột với tên buôn người, không cẩn thận đả thương gã, binh sĩ Phường thị đã bắt đi, bảo họ phạm giới luật, theo luật chém! Rồi bị giải đến chỗ Nhϊếp Chính Vương!"

Dao Anh thở dài. Họ quá manh động rồi.

Nàng tính toán thật nhanh, gọi mấy thân binh khác tới dặn: "Các ngươi nhanh tới khố phòng, lựa ít vải vóc tơ lụa, châu báu ngọc thạch, đưa đến nhà gã buôn người kia nói chuyện. Hỏi thăm ở chỗ Phường thị xem có dùng tiền chịu tội thay được không."
Thân binh đáp lời, chia ra làm việc.

Dao Anh đem theo Tạ Thanh nhanh chân đi chính điện, lúc sắp đến hành lang thì dừng lại.

Đàm Ma La Già cao quý thuần khiết vậy sẽ rảnh rỗi đi giải quyết mấy việc này chăng? Mấy hôm nay ngài bận rộn chuẩn bị biện kinh ở Pháp hội, nghe nói đã bế quan, ai cũng không gặp.

Dao Anh chần chừ một lát, quay lại viện tử, nghe ngóng chỗ thủ vệ: "Hôm nay Tướng quân A Sử Na có trực ở đây không?"

Vệ sĩ lập tức nói: "Công chúa chờ chút, tôi đi mời Tướng quân A Sử Na."

Dao Anh sửng sốt. Một người khác giải thích: "Tướng quân A Sử Na đã dặn kỹ, nếu công chúa có đến hỏi ngài thì dù có trực hay không cũng phải lập tức thông báo."

Bóng dáng cao lớn khỏe mạnh của A Sử Na Tất Sa rất nhanh hiện ở cửa sân, nắng chiếu trên mái tóc tết bím vàng óng ánh như muốn lu mờ mấy phần.
"Công chúa tìm tôi à?" Anh ta cười hì hì hỏi.

Dao Anh bước tới nói qua chuyện Tạ Bằng đánh người: "Thân binh của ta vi phạm luật của quý quốc, lẽ ra phải chịu phạt theo luật nhưng vì họ trung thành tuyệt đối, cùng trải qua bao trắc trở với ta nên thực sự ta không đành lòng nhìn họ bỏ mình phương xa, mới cả họ cũng chưa làm tổn thương tới tính mệnh, thực sự tội không đáng chết, không biết có cách gì cứu vãn không nhỉ?"

Tất Sa thu vẻ đùa giỡn, khẽ cau mày: "Họ được đưa qua chỗ Tô Đan Cổ à?"

Tạ Xung đứng một bên gật đầu.

Tất Sa thở dài, cười khổ nói: "Tính tình của Nhϊếp Chính Vương... E không dễ."

Tim Dao Anh siết chặt.

Tất Sa cúi nhìn nàng, thấy cặp lông mày nhẹ nhăn, mặt tái đi, đôi mắt sáng long lanh yên lặng nhìn mình, khuôn mặt thanh tú như vẽ, thấy cả người mềm nhũn ra, gãi gãi đầu, giọng cũng mềm nhũn theo: "Cũng không ảnh hưởng tính mạng hay thương tổn gì, thật ra không phải chuyện gì lớn, công chúa đi theo tôi, tôi đi xin Nhϊếp Chính Vương."
Nói xong, sợ Dao Anh lo, bổ sung, "Công chúa đừng sợ, có tôi đây rồi!"

Dao Anh lặng lẽ thở phào, cảm ơn trước rồi theo ra Vương cung.

Chỗ xử quyết phạm nhân ở cửa thành, là khu vực tất cả thương nhân ra vào Thánh Thành phải đi qua, người đến người đi, ngựa xe như nước, mỗi khi Nhϊếp Chính Vương xử quyết phạm nhân, dưới cửa thành chật cả người.

Hôm nay Tô Đan Cổ giám sát xử trảm một đám cướp tàn nhẫn gϊếŧ chết cả một bộ lạc, bố cáo đã dán từ lâu, đường cái ngay cửa thành đã chật ních dân chúng vây xem, tiếng người ồn ã.

Dao Anh đi theo sau Tất Sa, cưỡi ngựa ra Vương cung. Thủ vệ cửa thành nhận ra Tất Sa, trò chuyện với anh ta mấy câu rồi để họ qua cửa.

Trước cửa thành một đám phạm nhân bị trói gô ngồi xổm, bên cạnh có binh sĩ canh giữ.

Một tiếng hô lớn, ngoài cửa thành đột nhiên im ắng lại, hai binh sĩ bước tới, lôi hai kẻ cao lớn vạm vỡ trong đám tòng phạm lên thành lâu.
Bầu không khí nặng nề nghiêm trọng, sau chốc lát, lại vang lên tiếng hô từ cổng tò vò.

Hai tên cướp bị xử tử.

Tim Dao Anh đập thình thịch, nhìn quanh một vòng tìm thấy bóng Tạ Bằng trong đám người, mặt tái nhợt. Tạ Bằng cũng nhìn thấy nàng, lập tức sắc mặt thay đổi rõ, bờ môi ngập ngừng mấy lần, đầy xấu hổ cúi đầu. Rồi bỗng ngẩng đầu, lắc đầu với nàng.

Công chúa, đừng cứu tôi.

Dao Anh không tiến lên, ổn định lại mình rồi vội vàng đi theo Tất Sa lên cầu thang. Mấy thân binh chặn lại lại, rung trường đao trong tay, nghiêm nghị quát: "Là ai?"

Tất Sa ngẩng đầu: "Là ta, ta muốn gặp Nhϊếp Chính Vương."

Giọng thân binh lạnh lùng: "Nhϊếp Chính Vương đang xử quyết phạm nhân! Sau nửa canh giờ tướng quân hãy quay lại!"

Tất Sa cười xuề xòa, "Ngươi cứ đi thông báo một tiếng, bảo Tất Sa đến có việc rất quan trọng cần báo cáo, hẳn Nhϊếp Chính Vương sẽ gặp ta."
Thân binh do dự rồi xoay người thông báo, lát sau quay lại, tránh đường, chắp tay mời.

Tất Sa vội dẫn Dao Anh lên thành lâu, chuyển qua tháp canh, một cơn gió đậm mùi tanh tưởi đánh thẳng vào mặt.

Dao Anh nghẹn thở, cố nén cơn buồn nôn tiếp tục đi.

Roạt, có thứ gì tung tóe bắn ra tưới lên khăn che mặt, quần áo, trên váy nàng, thấm ướt rồi từ từ nhỏ xuống tóc tóc.

Hơi lạnh từ sống lưng mà vọt lên, Dao Anh cứng cả người, cúi nhìn dưới chân mình.

Một cái đầu người trơ trọi lăn đến cạnh giày nàng, tóc dài rối tung, mặt mũi dữ tợn, đầu lưỡi thè ra, máu nhuốm đỏ đầy đất.

Sau yên ắng như vũng nước đọng, dưới cổng thành vỡ lên tiếng la như sấm sét, dân chúng đang vỗ tay reo hò. Tô Đan Cổ vừa mới xử tử một tên cướp.

Tất Sa giật mình, quay lại nhìn, cả người Dao Anh dính đầy máu, mạng che mặt còn bị nhuộm đỏ, vừa điên người, vừa xót vừa áy náy, vội vươn tay đỡ nàng, vừa quay sang trách Tô Đan Cổ: "Nhϊếp Chính Vương, ngài dọa Văn Chiêu công chúa rồi!"
Tay chân Dao Anh mềm oặt đi, nhờ Tất Sa đỡ từ từ bước qua.

Trước thành lâu, một người đàn ông mặc cẩm bào màu đen xách cây đao đứng đó, dáng cao ngất thon gầy, còn gầy hơn cả Tất Sa, nhưng cả người như một cây cung kéo căng, tràn đầy sức lực bàng bạc, khí thế lạnh lẽo hung hãn, hai tay thon dài, thắt lưng gấm siết eo, vẽ nên đường cong của cơ bắp, nhìn là biết thành thạo cung ngựa.

Chính là chấp chưởng đại quyền quân chính của Vương Đình Nhϊếp Chính Vương Tô Đan Cổ, là ác quỷ Dạ Xoa đến từ quỷ vực Tu La gϊếŧ người như ngóe trong miệng người dân.

Tay hắn xách trường đao, liếc qua Tất Sa và Dao Anh, cặp mắt thật lạnh trống rỗng, như sương mù mờ mịt sớm mùa đông, mà nắng mùa hạ chói chang chiếu cũng không thấu không tan.

Một vạt nắng cắt qua khuôn mặt hắn, chiếu sáng gương mặt, như trong truyền thuyết, xấu xí kinh khủng, sẹo bò đầy dữ tợn, nhìn không ra nét mặt thật sự.
Dạ Xoa sống.

Dao Anh không khỏi run rẩy nhẹ.

Tất Sa cảm giác được sự sợ hãi của nàng, cởϊ áσ choàng choàng qua đầu vai nàng, nhẹ nhàng nắm chặt hai vai nàng, không biết an ủi sao, bối rối nói: "Công chúa, người đừng sợ! Nhϊếp Chính Vương chưa từng gϊếŧ người vô tội, kẻ ngài gϊếŧ là tên cướp tội ác chồng chất..."

Dao Anh ổn định lại, khẽ nói: "Không, là ta lỗ mãng."

Tất Sa giật mình, nhẹ thở dài, vịn Dao Anh đi đến cạnh tháp canh, "Phải trách tôi, là tôi quá sơ ý! Không nên dẫn công chúa tới đây. Công chúa chờ một lát, tôi đi giải thích với Nhϊếp Chính Vương rõ ràng."

Dao Anh ngẩng nhìn anh ta, cảm kích nói: "Đa tạ Tướng quân."

Mặt Tất Sa ửng đỏ, cười cười, quay người, căm ghét liếc đầu người dưới chân, mấy bước nhảy đến cạnh Tô Đan Cổ.

"Nhϊếp Chính Vương." Anh chỉ vào đám người bị trói gô dưới cổng thành, "Trong đó có mấy người Hán cãi nhau với Hồ thương rồi ẩu đả, đả thương người, tội không đáng chết, nhưng Hồ thương và Công sở Phường thị cấu kết, cố ý đưa họ tới, Nhϊếp Chính Vương đừng gϊếŧ lầm người."
Tô Đan Cổ không để ý đến Tất Sa, tra đao vào vỏ, qua tháp canh bên kia đi xuống thành lâu, bóng lưng cứng cáp, dáng như núi cao sừng sững cạnh vực sâu.

Tất Sa vội vàng đuổi theo, la một tràng: "Nhϊếp Chính Vương, họ thật không có gϊếŧ người!"

Tô Đan Cổ không quay lại, nói: "Theo luật xử lý." Giọng đè trầm thấp.

Dao Anh nghiêng tai lắng nghe, nghe xong câu này, thấp thỏm bất an cuối cùng đã ổn. Theo luật xử lý, là chỉ cần nộp tiền phạt.

Tất Sa cũng thở phào, dẫn Dao Anh xuống, tìm tới chỗ binh sĩ giữ người giải thích rõ ràng.

Binh sĩ tìm văn thư bên Công sở Phường thị gửi đến, à một tiếng, nói: "Tướng quân không cần hoảng, dù họ có bị định tội chết thì cũng phải được Nhϊếp Chính Vương xác nhận xong mới dẫn tới chỗ xử quyết ở cổng thành, hôm nay kéo họ tới là chỉ để họ mở tầm mắt."
Nói cách khác, hôm nay chỉ xử quyết mấy tên cướp, mọi vụ án có định tội chết đều phải được đích thân Tô Đan Cổ xem qua, đám Tạ Bằng tội không đáng chết, Tô Đan Cổ sẽ không vì lời một phía Công sở mà định tội chết cho họ.

Dao Anh đã hoàn toàn yên tâm, liên tục cám ơn Tất Sa. Tất Sa thấy nàng bị máu nhuộm đỏ, áy náy vô cùng, đưa nàng về Vương cung, hòa nhã nói: "Để mấy việc còn lại cho tôi xử lý, công chúa cứ yên tâm ngồi chờ, đám Tạ Bằng vài ngày nữa sẽ nguyên vẹn trở về."

Dao Anh lắc đầu, nói: "Là mấy người Tạ Bằng xúc động lỗ mãng gây ra, ta thân là công chúa, lơ là dạy dỗ, không dám để tướng quân vất vả."

Tất Sa nghiêm mặt nói: "Công chúa không cần khách khí với tôi, công chúa tha hương nơi xa không ai chăm sóc, nếu gặp chuyện luôn có thể đến tìm tôi không cần kiêng kị, tôi chỉ buồn nếu không có cơ hội vất vả vì công chúa thôi." Câu cuối cùng cố gắng buông giọng rất nhẹ, rất dịu dàng.
Dao Anh giật mình.

Tất Sa cười cười, "Bữa nay công chúa sợ hãi rồi, nghỉ ngơi sớm đã, mai ta lại đến chào công chúa."

Dao Anh đưa mắt nhìn bóng cao lớn của anh ta đi xa, nhớ tới chiếc áo choàng còn khoác trên người, lắc đầu, quay người về phòng.

Mấy thân binh lần lượt về chờ lệnh, họ đã đưa châu báu ngọc thạch đút lót cho Công sở phường thị, Công sở đồng ý mai sẽ rút cáo trạng, còn gã buôn người Hồ thấy tơ lụa đưa qua đã bắt chẹt thêm ít tiền, đồng ý hoà giải.

Hôm sau, quả nhiên Tất Sa đến giúp Dao Anh xử lý mấy việc còn lại, đám Tạ Bằng nhận tội thái độ rất tốt, Dao Anh đưa ra thư hoà giải, họ nhanh chóng được thả. Tạ Thanh phạt mỗi ngày họ phải ngồi trên ngựa tập trong sân, cả đám biết chỉ một xíu nữa đã thành sai lầm lớn liên lụy Dao Anh, không dám cãi lại, thành thành thật thật nhận phạt.
Dao Anh không quở trách Tạ Bằng, sai người tìm đến Hồ thương kia mua lại toàn bộ người Hán, sắp xếp một chỗ ở ngoại thành. Còn lão giả bị chết hôm đó, nàng cho người tìm xác bị ném ra ngoài thành của ông, xử lý hậu sự.

Tạ Bằng nghe nói, lau nước mắt, tiếp tục ngồi trên ngựa.

Xử lý xong chuyện Tạ Bằng, cuối cùng Dao Anh có thể ngủ một giấc ngon.

Đêm đấy, nàng mơ thấy mình đứng ở thành lâu, một luồng máu nóng bỏng phụt ra tung tóe đầy người nàng, máu tươi theo mép váy nhỏ tóc tóc, từng tiếng từng tiếng.

Một bóng người đứng trước mặt nàng, trong tay cầm cây đao nhuốm máu.

Dao Anh không dám cử động, bỗng người kia quay đầu, một khuôn mặt Dạ Xoa, chỉ có một đôi mắt yên tĩnh, xanh như nước hồ.

Nàng giật mình tỉnh lại, đầy mồ hôi lạnh.

-----------CHƯƠNG 48---------------
Trước lễ hành tượng một ngày, A Sử Na Tất Sa dẫn Dao Anh qua chỗ gã buôn người Hồ để bồi thường châu báu ngọc thạch rồi quay về.

"Họ vô cớ đánh chết nô ɭệ cũng có phần sai, Công sở Phường thị đã tra rõ nguyên nhân nhưng chuyện Tạ Bằng đánh người bị thương thì tiền phạt cũng không trả được."

Dao Anh hơi bất ngờ, cám ơn Tất Sa.

Tất Sa nhún vai nói: "Luật Vương Đình không nghiêm khắc chi tiết như Trung Nguyên, thương nhân có thể tùy ý đánh chết nô tỳ, Vương có hạ lệnh cấm mấy lần vẫn không chặn được tội ác này, mãi đến khi Nhϊếp Chính Vương gϊếŧ một lượt đám quý tộc lấy ngược sát nô ɭệ làm thú vui thì họ mới bớt phóng túng đi chút. Đây là ở Vương Đình, có Vương nhắc nhở, ở mấy thành bang khác, mạng người còn không bằng một con dê."

Dao Anh nhẹ thở dài. Trong thời loạn thì dù Trung Nguyên hay ngoại vực thì mạng người cũng như cỏ rác thôi. Ở Tây Vực, không chỉ người Hán bị sỉ nhục, giữa các bộ tộc chiếm đoạt nhau, rất nhiều bộ tộc bị bộ tộc khác ép thành nô dịch, sống không bằng heo chó.
Trung Nguyên cần một Vương triều lớn mạnh để thống nhất, Tây Vực cũng vậy.

Tất Sa vỗ vỗ tay, hai thị nữ đáp lời đi vào viện tử, trong tay nâng chiếc tráp.

"Hôm ấy là tôi suy nghĩ không chu toàn, y phục công chúa bị vấy bẩn, đây là tôi đặc biệt chuẩn bị cho người." Tất Sa chỉ chiếc tráp, cười híp mắt nói.

Dao Anh từ chối: "Tướng quân vất vả vì ta, ta còn chưa đa tạ Tướng quân, không dám làm Tướng quân tốn kém."

Tất Sa phất tay, ngắt lời: "Nếu công chúa muốn đa tạ thì mai là lễ hành tượng, nam nữ già trẻ trong thành đều mặc đẹp tham gia bái Phật, Công chúa giúp tôi đi Phật tự dự Pháp hội nhé? Người còn chưa từng đi dạo Thánh Thành nhỉ? Vừa vặn cho tôi một cơ hội làm người chủ nhà tận tình vậy."

Dao Anh chần chừ ít lâu, mấy hôm nay A Sử Na Tất Sa tất tả giúp đỡ nàng, cũng nên cảm tạ, sau Pháp hội còn cùng đi Cao Xương nữa, bèn gật đầu đồng ý. Nàng không tiện ra ngoài đi lại nhưng nếu có quý tộc Vương Đình đi cạnh như Tất Sa, hẳn gã Tiết Duyên Na không dám đến khiêu khích.
Tất Sa cười đầy rạng rỡ: "Tôi sẽ bảo sử nữ* giúp công chúa chuẩn bị y phục đẹp cho Lễ hội, công chúa thử thay đổi, nếu không vừa, bảo mấy cô ấy chỉnh lại."

*hầu gái, thị nữ

Nói xong, lại tiếp, "Đã áng theo cỡ người của công chúa mà cắt may, công chúa tuyệt đối đừng khách khí nhé, công chúa là khách của Vương cũng chính là khách của tôi."

Thấy Dao Anh cụp mắt như định tìm lý do từ chối, anh ta hất mày rậm, cố tạo vẻ nghiêm nghị cứng rắn: "Công chúa thật tình muốn thấy tôi buồn khổ à?"

Dao Anh cười cười, đa tạ xong ra hiệu thân binh tiếp nhận tráp, nhưng không về phòng ngay để thay mà hỏi một chuyện. "Người hôm đó trên Thành lâu là Nhϊếp Chính Vương Tô Đan Cổ, hầu cận của Phật tử nhỉ?"

Ánh mắt Tất Sa hơi lóe, gật đầu, lại cười nói: "Nhϊếp Chính Vương đã dọa công chúa rồi nhỉ? Công chúa không cần sợ ngài ấy, ngài thưởng phạt phân minh, hơn nữa lại rất trung thành với Vương."
Dao Anh quả thật đã bị Tô Đan Cổ dọa, mấy đêm nay toàn mơ cảnh hắn chặt đứt đầu tên cướp, bóng lưng cao lớn gầy gò thẳng tắp kia vô cùng dứt khoát, sát khí lẫm liệt, như Dạ Xoa. Trong mộng bừng tỉnh, trong đầu nàng hiện lên một nghi vấn: sau khi Đàm Ma La Già chết bệnh, Vương Đình hủy diệt, Tô Đan Cổ thân là Nhϊếp Chính Vương đi đâu? Hắn chấp chưởng đại quyền quân chính, sao biến mất không một dấu vết?

Chả nhẽ hắn bị Vương công đại thần ám sát?

Dao Anh trăm mối không có lời giải.

Tô Đan Cổ quá thần bí, hành tung bí hiểm, rất ít khi ra mặt, khi mà khuôn mặt xấu xí dữ tợn kia xuất hiện trước đám đông cũng chính là lúc hắn đại khai sát giới.

Nàng thử thăm dò: "Nhϊếp Chính Vương bao nhiêu tuổi nhỉ?"

Ngón tay Tất Sa sờ sờ cằm, nghĩ một lát rồi nói: "Nhϊếp Chính Vương lớn hơn tôi với Vương mấy tuổi, hắn là sư huynh bọn tôi."

Thì ra Tô Đan Cổ là sư huynh của Đàm Ma La Già.

Dao Anh như có điều suy nghĩ, nghe xong nửa câu, kinh ngạc nói: "Tướng quân và Phật tử từng là sư huynh đệ à? Tướng quân cũng là người theo Phật?"

A Sử Na Tất Sa là hậu duệ của Vương tộc Đột Quyết, tên anh ta Tất Sa lấy từ tiếng Túc Đặc*, nghĩa là người rực rỡ, mẹ anh ta thờ phụng Hỏa giáo, sao lại không theo Hỏa giáo giống mẹ?

*Tiếng Suguda, xuất hiện khoảng thế kỷ VI TCN, dùng 3 loại chữ viết, một là chữ Suguda, sau phát triển dùng để viết kinh Phật; hai là chữ Mani, sau thành tiếng Ba Liệt, Hồi Hột; ba là chữ Syria, cũng dùng để viết tiếng Ba Liệt, Syria, Đột Quyết. Đều là biến thể từ chữ Aramaic, viết ngang từ phải sang trái, cũng có một số ít từ trên xuống dưới.

Tất Sa cười cười, buông lỏng tay, nhìn vẻ lãng tử: "Nhìn tôi không giống con cháu cửa Phật à? Thật ra lúc bé tôi cũng được đưa đi học Phật pháp, con em quý tộc Vương Đình đều vậy, từ nhỏ đã đi theo trưởng bối nghiên cứu kinh thư, chỉ có những người thông minh nhất, có tuệ căn nhất mới có tư cách tiếp tục theo sư tôn tu hành, Vương là người thông minh nhất, thiên tư bất phàm, sư tôn nói, tụi tôi so với ngài chỉ là một đám dê con suốt ngày be be."
Nói đến đây, Tất Sa cười khẽ. "Vương học gì cũng nhanh, lúc ngài nói bốn thứ tiếng thì tụi tôi mới bắt đầu học tiếng Túc Đặc thôi. Lúc ngài nghiên cứu thảo luận Phật lý với sư tôn, bọn tôi nghe như là thiên thư."

Dao Anh nhớ đến truyền thuyết bữa giờ nghe được, "Ta nghe tiểu sa di nói, lúc Phật Tử ra đời, trên trời Thánh Thành có hiện tượng lạ, dân chúng cả thành đều thấy."

Tất Sa thoáng lặng thinh trong chớp mắt, kéo khóe miệng: "Phải, hôm đó mây ngũ sắc đầy trời, trên đầu Vương cung cứ như có ánh Phật quang bao phủ nên hình ảnh Phật, còn có cả tiếng Phật niệm kinh. Sư tôn nói, là vì thế gian loạn lạc nên thần Phật chuyển thế đầu thai trong thân xác phàm, xuống trần lịch kiếp, cảm hóa vạn dân, phổ độ chúng sinh."

Dao Anh cười cười. Dù lời Tất Sa là thật hay giả, dân chúng Vương Đình hẳn rất tin tưởng.
Đêm đến, Dao Anh thử đồ Tất Sa đưa tới, quả nhiên là lấy cỡ người nàng mà may cắt, rất vừa vặn, không biết Tất Sa thăm dò số đo nàng từ đâu nữa.

Đến nửa đêm, đang ngủ mơ mơ màng màng, ngoài cửa sổ có tiếng người đi lại ồn ào, nàng hoảng sợ thức dậy. Tạ Thanh từ ngoài vào, nhỏ giọng: "Công chúa, là phía chính điện, Phật Tử dọn đi Phật Tự."

Bình thường Đàm Ma La Già ở Phật Tự, lần này không biết tại sao luôn ở lại Vương cung dưỡng bệnh, ngày mai trong chùa cử hành Pháp hội, chàng phải chuyển về.

Dao Anh nằm xuống ngủ tiếp, nghĩ thầm: hình như hòa thượng cứ luôn dọn nhà lúc nửa đêm nhỉ.

Sáng sớm hôm sau, Tất Sa mặc một bộ y phục mới lộng lẫy, thắt lưng gấm, bừng bừng phấn chấn, cầm một bó hoa tươi lớn đến, đứng trước cửa sân, tóc vàng lấp lánh.
Dao Anh đã thay trang phục nữ tử Vương Đình, tóc đen chải thành bím, quấn dây lụa rực rỡ và đá quý, một bộ cẩm bào áo cổ bẻ đoàn khoa hình cây cối và hươu nai, ống tay áo điểm vòng châu, dưới chân giày cổ cao thêu chỉ vàng, cũng học dáng vẻ người địa phương, bên hông đeo chủy thủ khảm đầy đá quý, bước xuống thềm đá, ngẩng mặt mỉm cười.

Giống như toàn bộ tia nắng chói chang từ cao cao chiếu xuống đang lồng lên người nàng.

Tất Sa trố mắt rớt miệng nhìn Dao Anh, ngẩn ngơ mãi, đến khi nàng đến trước mặt quơ quơ tay mới lấy lại tinh thần.

"Công chúa thật đẹp." Moi ruột gan cũng không nghĩ ra nên ca ngợi thế nào, trở nên ấp úng vụng về.

Dao Anh nhẹ cong khóe môi, mạng che bịt kín gương mặt, nhìn Tất Sa bối rối trước mặt chợt nhớ tới đám thiếu niên lang ăn chơi Trường An kia suốt ngày giục ngựa chạy theo nàng.
Giờ đây nhớ lại những năm tháng ở Trường An, dường như đã qua mấy đời.

Lễ hành tượng bắt đầu từ sáng sớm, các con đường trong thành được chùi rửa, cửa thành, cửa Lâu chăng màn, trang trí khắp nơi đổi mới toàn bộ.

Tượng Phật sắc sảo được đặt trên chiếc xe hai mươi chỗ bốn bánh lớn, cao ba bốn trượng, di chuyển quanh mấy đường chính trong thành. Mỗi vòng bốn bánh đều rất lộng lẫy, trang trí vàng bạc, ngọc lưu ly, pha lê, mưu sa lạc yết lạp bà, trân châu đỏ, a thấp ma yết lạp bà*, màn chướng rủ xuống, dù che đi theo, như một tòa cung điện cỡ nhỏ di động. Bức tượng Phật có hoa văn trang sức vàng bạc, chuỗi ngọc rủ xuống ngực, duyên dáng xinh đẹp, tư thái trang nghiêm.

*thất bảo, phiên âm theo tiếng Phạn: kim, ngân, phệ lưu ly, pha chi già, mưu sa lạc yết lạp bà, xích chân châu, a thấp ma yết lạp bà. Mai: tả lễ hành tượng tham khảo truyện Pháp hiển.
Dân chúng trong thành đổ xô ra, nam nữ già trẻ, tóc bạc tóc trái đào, ai cũng thay y phục mới tinh, nhảy cẫng reo hò sát đoàn xe về hướng cửa thành, miệng niệm tụng Phật hiệu.

Tất Sa đưa Dao Anh ra Vương cung, người trên đường lớn như sóng, chen vai sát cánh.

Tạ Thanh Tạ Xung chau mày, sợ bị đám người tách ra, theo thật sát bên cạnh Dao Anh.

Trên đường, A Sử Na Tất Sa giải thích mỗi một nghi thức cho Dao Anh, quan tâm chu đáo, kiên nhẫn nhiệt tình, trong đám đông thỉnh thoảng có người chào hỏi, anh ta cười đáp lại, rất có duyên.

Bị lây tâm tình của anh, Dao Anh tạm thời thả lỏng, cảm nhận lễ hội náo nhiệt của Vương Đình.

Dưới cửa thành thảm nỉ trải dài, dài trải chiên thảm, chiếc xe lớn chậm rãi đến trước cửa lâu bên dưới đài cao. Trên đài cao đặt hương án, trang trí đầy ngọc châu tơ lụa, ánh vàng óng ánh, đám Vương công đại thần mặc hoa phục đi xuống đài, cởi mũ mềm, chân trần tiến lên đón.
Một bản nhạc réo rắt nhẹ nhàng từ phía Nam đến, đám người đang sục sôi bỗng yên ắng lại, tất cả như nín thở, tự giác lùi qua hai bên đường, ngẩng đầu chăm chú nhìn qua bên kia con phố dài, vẻ đầy cung kính, trong mắt mang cuồng nhiệt.

Dao Anh nhìn theo .

Hai nhóm nhà sư mặc Pháp y, tay cầm lư hương dẫn đường, một con voi phủ tấm che đính đầy châu báu, trang trí hoa lệ từ phía Nam chậm rãi đi tới, trên lưng voi đặt bảo tọa, có người ngồi ngay ngắn trên đó, mặt như trăng lạnh, mắt như hoa sen, một tay cầm nhánh sen, một tay nâng hoa sen, người mặc áo cà sa rộng rãi màu trắng thêu chỉ vàng, đôi mắt cụp xuống như đang thiền định, quanh người như có ánh Phật quang mờ nhạt bao phủ, thoảng như vị thần.

Đàm Ma La Già tới.

Chàng nhẹ nhàng liếc qua đám đông, thế gian vạn vật như không lưu vào đáy mắt.
Đám người đang rộn rộn ràng ràng yên tĩnh được một lát rồi vỡ ra tiếng reo hò vang tận mây xanh, tất cả ngước nhìn chàng, đầy kích động, mặt đỏ ửng, tranh nhau rải hoa về phía chàng, còn có người muốn tiến lên chạm vào góc áo chàng, bị kỵ sĩ Trung quân áo lam ngăn lại.

Tiếng nhạc uyển chuyển mượt mà, hoa tươi bay xuống như mưa.

Voi đi đến trước đài cao, hiền lành ngoan ngoãn uốn gối, Vương công đại thần tiến lên mấy bước, quỳ cạnh chân voi, Đàm Ma La Già buông chân, đạp trên tay và vai đại thần bước lên đài cao.

Tạ Thanh Tạ Hướng hơi sửng sốt, nhỏ giọng hỏi: "Công chúa, quy củ gì thế? Vương họ giẫm lên cả vai của đại thần ạ!"

Dao Anh giải thích: "Đây là lễ thăng tọa, rất phổ biến ở Thiên Trúc và Tây Vực."

Ánh mắt nàng tập trung vào đám đại thần, đám Khang Mạc Già đứng nghiêm túc dưới đài cao, thần thái cung kính, trên mặt không chút vẻ oán giận — nhìn uy tín Đàm Ma La Già như rồng cuốn, họ nào dám ko nghiêm túc?
Một giọng nói tinh khiết nhẹ nhàng bắt đầu vang trên đài cao, Đàm Ma La Già bắt đầu tuyên giảng, dùng tiếng Hồ mà dân phổ thông đều có thể nghe hiểu. Dao Anh nghe một lúc chỉ hiểu đại khái một điều, ngài đang giảng tích cũ, Phật thấy cuộc sống đau khổ, từ đó chán nản, tham thiền ngộ đạo.

Giọng chàng trong lạnh uyển chuyển, mang theo vần luật trong sáng ung dung, dân chúng nghe như si như say.

Nửa khắc sau đó Dao Anh hoàn toàn hết hiểu, ngẩng nhìn Đàm Ma La Già trên đài, khuôn mặt đẹp khí độ xuất trần, đã hoàn toàn nhìn không ra dấu vết của người mang bệnh nặng.

Dao Anh phát hiện hình như mình chưa từng thấy phong thái của Đàm Ma La Già khi đứng thẳng, vừa rồi ngài ấy giẫm lên vai đại thần lên đài cao, đứng thẳng người, thân hình cao gầy thẳng tắp, có vẻ cao hơn cả Tất Sa một chút.
Rốt cuộc bệnh của ngài ấy là sao thế nhỉ?

Pháp hội kéo dài một canh giờ, A Sử Na Tất Sa nghe được một nửa, đưa Dao Anh lui ra ngoài, dẫn nàng đi Phật Tự.

Phật Tự sẽ cử hành đại hội tranh biện kinh thư, sau khi Đàm Ma La Già tuyên giảng xong, đại hội liền bắt đầu. Nhóm cao tăng đã tới trước, ngoài việc tham quan Pháp hội, những người còn lại chuẩn bị để tranh luận, giữa đình viện chật ních tăng nhân, đám thì ngồi vào bàn nhắm mắt trầm tư mặc tưởng, kẻ thì ngồi cạnh nhau tranh luận lớn tiếng.

Bầu không khí trong chùa khẩn trương mà sinh động, đám tiểu sa di trong chùa ai cũng vẻ mặt đầy mong chờ, chờ xem phong thái Đàm Ma La Già khẩu chiến với một đám sư kia.

Lúc xưa chàng nổi danh vì thắng trong đại hội tranh biện.

Dao Anh đi theo Tất Sa tìm đến chỗ ngồi, buồn bực ngán ngẩm đảo mắt một vòng. Tất Sa cúi đầu kể vài câu chuyện vui khi tu hành lúc bé, đột nhiên một ánh mắt sắc bén quét tới.
Tim Dao Anh giật thót, đón lấy ánh mắt kia.

Trong góc đình viện, một người đàn ông mặc trường bào tay lỡ lười biếng dựa vào cạnh Phật tháp, vừa trò chuyện với vị sư bên cạnh, vừa ngước nhìn nàng, con ngươi màu vàng nhạt lóng lánh dưới ánh mặt trời đủ làm người rét lạnh.

Là Hải Đô A Lăng!

Thấy nàng nhận ra mình, Hải Đô A Lăng khẽ nhếch miệng, hất cằm, đường cong thô kệch cứng cáp.

Dao Anh không muốn chung một chỗ với y, đứng dậy rời đi.

Tất Sa ngơ ngác đứng lên, thấy thần sắc nàng rất không thích hợp bèn nhìn theo hướng nàng ban nãy, đụng phải ánh mắt của Hải Đô A Lăng. Hai bên nhìn nhau một lúc, Hải Đô A Lăng quệt khóe môi, thu tầm mắt, nở nụ cười giễu cợt.

Tất Sa mặt đỏ bừng, cất bước đuổi theo Dao Anh, xấu hổ nói: "Văn Chiêu công chúa, Bắc Nhung cũng phái các sư đến tranh biện với Vương, có điều tôi không biết sứ giả họ phái tới là Vương tử Hải Đô A Lăng!"
"Công chúa không cần sợ, đây là Vương Đình, y không dám làm loạn!"

Dao Anh vội vàng ra khỏi Phật Tự, từ từ trấn an lại, dừng bước quay sang Tất Sa cười cười: "Ta không muốn nhìn thấy y, không thể cùng Tướng quân xem đại hội biện kinh rồi."

Tất Sa vội nói: "Vừa vặn tôi cũng không muốn xem nữa, tôi đưa công chúa về hoàng cung."

Hai người trở về Vương cung, Dao Anh căn dặn thân binh: "Mấy hôm nay không cho phép ai ra cung, người Bắc Nhung đang ở Thánh Thành."

Đám người biết nặng nhẹ, gật đầu nghe lời.

Dao Anh nhớ tới nụ cười vẻ chắc chắn phải được bên môi Hải Đô A Lăng, ăn ngủ không yên. Nàng sẽ không rơi vào tay y lần nữa, nàng phải về được Trung Nguyên.

...

Dao Anh không biết, Trung Nguyên tám ngàn dặm ngoài kia, cũng có người nghĩ đến nàng.

Mấy tháng trước, Trường An.

Một con khoái mã xuất phát từ Bùi gia, chạy cả ngày lẫn đêm, liên tục ba ngày ba đêm, đến kinh thành, không kịp thở mấy hơi đã thẳng đến Đông cung.
Có tiếng thái giám thông báo: "Điện hạ, người phái đi Bùi gia đã về!"

Tiếng bước chân đột ngột vang lên, một người mặc lễ phục Thái tử sải bước đi ra, mắt phượng đỏ quạch.

-----------CHƯƠNG 49---------------

Trường An.

Lý Huyền Trinh xem hết mật báo, sắc mặt âm trầm như nước.

Tần Phi và mấy bộ hạ khác từ thư phòng cùng ra, nhìn bóng lưng Lý Huyền Trinh, đưa mắt nhìn nhau, còn chưa kịp nói gì, bỗng Lý Huyền Trinh run không ngừng, ngã xuống đất.

"Điện hạ!" Tần Phi xông lên, đỡ dậy Lý Huyền Trinh.

Lý Huyền Trinh nắm chặt tin, ho ra một ngụm máu.

Cả bọn quá sợ hãi, trước đây không lâu Bắc Nhung tập kích, Thái tử tử thủ Lương Châu, người bị thương nặng còn chưa khỏi hẳn, thổ huyết không thể coi thường!

Thái giám giật mình, co cẳng chạy, luôn miệng thúc giục hộ vệ đi mời Thái y.
Tần Phi vịn Lý Huyền Trinh về phòng, chỉ sau chốc lát có tiếng bước chân ngoài sảnh, phụ tá, binh tướng đang đợi bên ngoài rối rít tránh qua, Thái tử phi Trịnh Bích Ngọc cùng Thái y tới.

Trịnh Bích Ngọc vào trong phòng, hỏi: "Sao Điện hạ lại bị thổ huyết? Vì luyện võ lại à?"

Tần Phi cụp mày, lùi ra ngoài bình phong đáp: "Điện hạ vừa mới xem xong tin từ Bùi gia."

Trên giường, Lý Huyền Trinh nhắm nghiền mắt, mặt như giấy vàng, trong tay còn siết chặt thư. Trịnh Bích Ngọc ngồi trước giường, gỡ ngón tay hắn ra vội vàng xem thư, trong phút chốc trăm mối cảm xúc ngổn ngang trong lòng, nhẹ thở dài.

Văn Chiêu công chúa đã hương tiêu ngọc vẫn, tra rõ thân thế em ấy thì có ích lợi gì? Thất công chúa thiên kiều bá mị, làm thiếu niên lang Ngũ Lăng trong kinh nhớ mong, cũng sẽ không quay về nữa.
Thái y xem qua vết thương cũ của Lý Huyền Trinh, bôi thuốc một lần, rồi kê toa mới, dặn dò: "Vết thương cũ Điện hạ chưa lành, phải thả lỏng tâm trạng, đừng để tức giận."

Trịnh Bích Ngọc nhìn Lý Huyền Trinh trong cơn mê vẫn nhíu chặt mày rậm, nhớ lại chuyện phát sinh trong mấy tháng qua, mặt nặng nề.

Bảo Lý Huyền Trinh thả lỏng, e là khó đấy!

...

Mấy tháng trước, Bắc Nhung tập kích, Lý Huyền Trinh trấn thủ Lương Châu, dẫn tướng sĩ biên quan huyết chiến mấy ngày, chờ viện binh gấp rút tiếp viện.

Tin tức truyền về Trường An, cả triều chấn kinh, chưa kịp đợi Lý Đức hạ chỉ tăng binh, Tây Bắc có Kim Thành, Tiêu Quan, Thiện Châu, Đông Bắc có Hạ Châu, Tấn Châu, phía Nam có Giang Châu, Thư Châu, và Tây Thục tiếp giáp Lãng Châu đồng thời dấy lên phong hỏa, trong mấy ngày, mấy cổng canh gác lớn cùng với Bắc Nhung, Nam Sở, Tây Thục huyết chiến mấy trận, tử thương vô số.
Cả nước chấn động.

Nghe kỵ binh Bắc Nhung xuôi Nam, Nam Sở thừa cơ tập kích quấy rối, người giàu có ở Trường An nghe tin sợ mất mật, rối rít gom vàng bạc của cải chạy về phía Nam, đại thần trong triều hoang mang lo sợ, cố gắng khuyên nhủ Lý Đức dời đô.

Đang phút giây lòng người bàng hoàng, Lý Huyền Trinh gửi một phong hịch văn đi Trường An, mãnh liệt công kích đám chuột nhắt muốn bỏ thành mà chạy, nói lúc này mà dời đô, lòng dân dao động, biến Đại Ngụy thành trò cười vạn kiếp, ngày sau sao nhất thống thiên hạ được?

Lúc này các nơi Kim Thành, Tấn Châu gửi chiến báo khẩn cấp tám trăm dặm về Trường An, dù trạm gác vội vàng ứng chiến, mất đi vài toà thành trì, nhưng tướng sĩ anh dũng, rất nhanh tập trung lui về giữ quan, dựa vào địa hình dễ thủ khó công cố thủ không ra, giằng co với quân địch, hơn nữa đã nhận được cảnh báo trước, kịp thời gửi thư cầu cứu, quân đóng gần đó đuổi tới cứu viện, nội ứng ngoại hợp cùng với quân tại chỗ, dẹp yên quân địch tập kích, chỉ chờ triều đình tiếp tục phát binh phát lương, họ có thể một trận mà đoạt lại trạm gác.
Ngay sau đó, văn lại của Kim Thành Đỗ Tư Nam ngày đêm chạy tới Giang Châu, dựa vào miệng lưỡi ba tấc không nhão của y, thành công bức lui Đại tướng Nam Sở. Nam Sở, Tây Thục trong vòng một đêm đồng thời lui binh, không đến mấy ngày, tin đổi trữ chấn động triều đình Nam Sở, Mạnh gia Tây Thục trình quốc thư đến Đại Ngụy bảo tất cả đều là hiểu lầm, họ không có ý tiến đánh Đại Ngụy.

Lý Đức ra sức dẹp nghị luận của mọi người, giận dữ mắng mỏ đại thần đề nghị dời đô hại nước hại dân, phát binh tiếp viện mấy vùng Lương Châu, Kim Thành, bổ nhiệm Bùi Đô đốc làm Đại tổng quản hành quân, đoạt lại thành trì đã mất.

Nam Sở, Tây Thục lui binh khiến Đại Ngụy bớt một nỗi lo sau lưng, có thể tập trung binh lực chống cự uy hϊếp đến từ phía Bắc.

Khí thế kỵ binh Bắc Nhung rất dữ nhưng quân số không nhiều, lương thảo không đủ, hơn nữa trong vòng nửa tháng tấn công phòng tuyến phương Bắc không nổi, không cách nào xâm nhập Trung Nguyên, ý thức được Đại Ngụy bắt đầu phát động phản công, cũng không ham chiến, sau khi đánh cướp một vùng Kim Thành quả quyết thu binh.
Đại Ngụy giữ vững.

Nhưng Hà Lũng đã hoàn toàn rơi vào tay Bắc Nhung, Bắc Hán nước láng giềng Đại Ngụy một đêm hủy diệt, Kim Thành tổn thất nặng nề, suýt nữa thất thủ, chỉ cần Bắc Nhung tập trung binh lực phát động một cuộc đột kích sớm nữa, Đại Ngụy sẽ phải không ngừng phái binh liều chết bảo vệ các cửa ải.

Cũng may hiện Bắc Nhung chưa thể tấn công toàn diện, Lý Huyền Trinh giữ vững Lương Châu, Đại Ngụy không đến mức hoàn toàn thua dưới gót sắt Bắc Nhung.

Đại Ngụy đã vượt qua nguy cơ không còn nguy hiểm.

Thời gian đó người người bất an, thời thế biến ảo, làn sóng cổ quái, đủ loại kinh tâm động phách, Trịnh Bích Ngọc một nữ tử khuê các ở sâu trong cung cũng có thể cảm nhận được. Bây giờ nghĩ lại vẫn còn thấy sợ, lạnh run cả người.

Chỉ thiếu một chút, Đại Ngụy đã bị cuốn vào trong chiến hỏa, bốn bề là địch.
Khi Bắc Nhung lui binh, Tây Thục, Nam Sở tạm thời khôi phục quan hệ ngoại giao với Đại Ngụy, cả nước ăn mừng, triều đình bắt đầu luận công ban thưởng, Lý Đức cho gọi Đỗ Tư Nam lập đại công ở chiến dịch Kim Thành, hỏi y ai đã kịp báo tin trước khi Bắc Nhung tập kích, để y kịp thời phát hiện âm mưu Bắc Nhung, không chỉ giữ vững Kim Thành còn khuyên lui Nam Sở.

Đỗ Tư Nam không lập tức cho ra đáp án.

Mấy hôm sau, thành Trường An, phố Chu Tước, dân chúng chen chúc xô ra nghênh đón tướng sĩ khải hoàn.

Lý Đức dẫn đầu văn võ quần thần ra đón.

Một thân binh cả người bị thương đi cà nhắc cà nhắc phía trước cả đội từ phương Bắc về.

"Lương Châu giữ vững, Kim Thành giữ vững, Tiêu Quan giữ vững, Đại Ngụy bình yên vô sự, dân chúng không cần chịu trong biển lửa."

Hắn quỳ rạp dưới cửa thành, ngẩng đầu, hai mắt đỏ như máu: "Bệ hạ, mạt tướng nhận lệnh Văn Chiêu công chúa, về các cửa ải cảnh báo, may mắn không làm nhục mệnh!"
Một khắc này, cả bầu trời ở phố dài yên lặng như tờ.

Giọng cậu ấy quanh quẩn trước cửa cung rất lâu.

Đám người rộn rộn ràng ràng lặng người nhìn thân binh.

Văn võ quần thần người mặc hoa phục kinh ngạc nhìn thân binh.

Hồi lâu không ai nói chuyện, người người lặng yên, trang nghiêm như tờ.

Lý Đức run run mãi lâu, hỏi: "Văn Chiêu công chúa đâu? Nó có công với đất nước, trẫm muốn ban thưởng."

Quần thần phụ họa theo, tiếng ca ngợi bên tai không dứt.

Thân binh nước mắt đầy mặt: "Bộ lạc Diệp Lỗ bị hủy diệt, công chúa ngài... Ngài..." Hắn khóc không thành tiếng, như đã trút hết toàn bộ sức lực.

Trong đám người lặng im bắt đầu có tiếng khóc bi thương, từ kiềm chế nức nở rồi òa lên khóc liên hồi.

Mấy tháng trước, cũng ở chỗ này họ đưa tiễn Thất công chúa, nhìn nàng gả đi tái ngoại, hy vọng nàng có thể cả đời bình an.
Mấy tháng sau, Thất công chúa ở xa liều chết nhắc nhở tướng sĩ giữ ải, Đại Ngụy bình yên không ngại, Thất công chúa lại hương tiêu ngọc vẫn, bỏ mình xa xứ.

Quan viên Lễ Bộ đưa Thất công chúa xuất giá, lúc cả đội ngũ qua khỏi trường thành, hỏi Thất công chúa có câu gì muốn chuyển báo cho Lý Đức.

Thất công chúa nhìn lại thành trì nguy nga xuyên núi sau lưng, cười nhạt: "Nguyện hà thanh hải yến, thương hải ba bình*."

*đại ý là thiên hạ thái bình, trời yên biển lặng

Công chúa hòa thân, chống đỡ trăm vạn binh.

Nam nữ già trẻ quỳ xuống đất dập đầu khóc.

Hôm ấy, Trịnh Bích Ngọc ở trên thành lâu của đường bên hông, nghe tiếng khóc như thủy triều từ bên này truyền tới, hốc mắt cũng không khỏi ươn ướt.

Nàng không tìm được bóng dáng Lý Huyền Trinh trong đội khải hoàn, phái người đi hỏi thăm.
Tần Phi hồi bẩm: "Điện hạ, Thái tử điện hạ... ngài đã mang theo đội phi kỵ đi Hà Lũng."

Trịnh Bích Ngọc vô cùng kinh ngạc: Hà Lũng hiện giờ là địa bàn của Bắc Nhung, Lý Huyền Trinh bị thương nặng chưa khỏi, không muốn sống nữa sao!

"Sao chàng phải đi Hà Lũng?"

Tần Phi thở dài: "Lúc Bắc Nhung tập kích, điện hạ phái một đội đến Diệp Lỗ để đón Văn Chiêu công chúa về kinh, chờ Bắc Nhung lui binh, mấy người đó về phục lệnh báo Diệp Lỗ đã hủy diệt. Họ tìm mấy ngày không tìm được công chúa, bị một đám kỵ binh Bắc Nhung bao vây, không dám chờ lâu đành lui về Lương Châu trước."

Đội quân không đánh mà lui, Lý Huyền Trinh giận tím mặt, xử lý xong quân vụ lệnh trưởng sử ở lại thủ Lương Châu, liều mạng dù bị thương, tự mình dẫn đội phi kỵ đi Diệp Lỗ tìm người.
Lần này tìm hơn một tháng, chẳng những Lý Huyền Trinh không tìm được thứ gì, còn mấy lần bị Bắc Nhung bao vây chặn đánh, thân binh bên cạnh chết một nửa, cửu tử nhất sinh chật vật lui về Lương Châu.

Bắc Lương Châu đã hoàn toàn rơi vào tay Bắc Nhung, họ không còn cách nào khác.

Bộ hạ khổ sở khuyên bảo Lý Huyền Trinh về kinh trị thương trước, Lý Huyền Trinh quả quyết bác bỏ, khăng khăng muốn tìm Văn Chiêu công chúa về, không thể mang binh vượt qua phòng tuyến của Bắc Nhung, hắn ngụy trang thành dân du mục trà trộn!

Tướng thủ Lương Châu bản địa rùng mình: Lý Huyền Trinh đường đường là Thái tử một nước, nếu ngài ấy chết trong tay người Bắc Nhung, họ chết muôn lần cũng không chuộc được tội! Cả đám run sợ, nghĩ trăm phương ngàn kế khuyên can Lý Huyền Trinh, chỉ có Tần Phi không mở miệng nói gì.
Hắn hiểu rõ Thái tử, bình thường Thái tử khiêm tốn nghe can, nhưng khi ngài đã điên lên thì chẳng ai khuyên được. Năm đó Thái tử vì cứu Chu Lục Vân vụиɠ ŧяộʍ trốn ra ngoài, một mình xông trại địch, huyết chiến cả đêm. Giờ Văn Chiêu công chúa tung tích không rõ, trừ phi tìm ra Văn Chiêu công chúa, Thái tử sẽ không hồi kinh.

Tần Phi đành để lại tất cả thân binh, quay về kinh gặp Trịnh Bích Ngọc bẩm báo.

Trịnh Bích Ngọc lòng gấp như lửa đốt, nếu sớm biết Lý Huyền Trinh sẽ nổi điên, nàng không nên gửi thư nói rõ thân thế của Thất công chúa, hẳn chàng đã đọc thư, cảm thấy thẹn với Thất công chúa, mới điên cuồng như vậy.

Nàng lập tức sai thị nữ mài mực bày giấy, chuẩn bị viết thư khuyên Lý Huyền Trinh về kinh, bỗng tùy tùng cầm về một phong thư.

Trịnh Bích Ngọc nhìn bức thư chính mình gửi đi trước đây không lâu, mãi lâu không nói gì.
Tùy tùng giải thích, bức thư không đưa được đến tay Lý Huyền Trinh, khắp Lương Châu đang chiến tranh, người mang tin trên đường xảy ra ngoài ý muốn, tin bị trả lại.

Lạch cạch một tiếng, bút trong tay Trịnh Bích Ngọc rơi xuống đất, mực đầm đìa, theo mép váy nhỏ xuống.

Lý Huyền Trinh không nhận được tin.

Chàng không biết thân thế của Thất công chúa, dù em ấy là con của Tạ Quý phi, dù mấy năm qua giờ giờ phút phút chàng bị thù hận tra tấn, chàng vẫn phải cứu Thất công chúa.

Trịnh Bích Ngọc suy nghĩ bỗng nhiên hiểu ra rất nhiều chuyện.

Hiểu ra vì sao Lý Huyền Trinh căm hận Thất công chúa khuê các như vậy, căm hận đến muốn phái người ngày đêm giám sát Thất công chúa, căm hận đến giữa đêm nằm mộng vẫn nghiến răng nghiến lợi kêu tên Thất công chúa.

Trịnh Bích Ngọc ngồi ngay ngắn trước cửa sổ, nhắm mắt, vẻ mặt như khóc như cười.
Sớm biết hôm nay, sao hôm qua còn vậy!

Chàng ngầm đồng ý Ngụy Minh gài Thất công chúa, tự tay dâng cô em yếu đuối đến giường của Khả Hãn Diệp Lỗ dã man, chàng nói chàng sẽ không hối hận...

Chàng hối hận lâu rồi!

Thảo nào Ngụy Minh luôn nhắm vào Thất công chúa, là quân sư của Lý Huyền Trinh, hẳn đã nhìn ra chuyện giữa hai người không phải tầm thường, đưa Thất công chúa gả thay không chỉ là cứu Chu Lục Vân mà cũng vì để Lý Huyền Trinh tuyệt tình hoàn toàn!

Trịnh Bích Ngọc vò nhăn tờ giấy, không viết thư khuyên Lý Huyền Trinh hồi kinh nữa.

Cùng giường chung gối mấy năm, nàng và Lý Huyền Trinh tương kính như tân, tôn trọng lẫn nhau, trên đời này không ai hiểu rõ Lý Huyền Trinh hơn nàng, nàng khuyên không được.

Trịnh Bích Ngọc bắt đầu mưu đồ cho tương lai, nàng dẫn con trai qua cung Thái Cực, dạy con cách lấy lòng Lý Đức, chẳng bao lâu, Lý Đức ban chỉ, ngài muốn đích thân dạy dỗ Hoàng thái tôn.
Địa vị Đông cung vẫn luôn vững chắc.

Một tháng sau, Lý Huyền Trinh trở về. Vết thương chằng chịt, ngựa còn cưỡi không được, được thân binh khiêng về.

Thân binh còn đem theo tin dữ: Thất công chúa Lý Dao Anh hương tiêu ngọc vẫn, chết trong tay người Bắc Nhung, có người tận mắt nhìn thấy người Bắc Nhung gϊếŧ sạch hộ vệ của công chúa, đến ngựa cũng không tha.

Lý Huyền Trinh tinh thần uể oải, cả ngày lặng thinh.

Trịnh Bích Ngọc lập tràng làm pháp sự cho Lý Dao Anh.

Người người đều biết Thất công chúa dữ nhiều lành ít, nàng ấy trước âm thầm mua hơn chục người Hồ báo tin cho mình, sau lại phái đi mười mấy thân binh, cuối cùng phần lớn là người Hồ thành công báo tin, chỉ còn một thân binh may mắn sống tiếp —— tình thế nguy hiểm đến mức đó, Diệp Lỗ một đêm diệt vong, sao Thất công chúa có thể chạy trốn nổi?
Tin Lý Dao Anh chết truyền khắp Trung Nguyên, dân chúng khóc than không ngừng, tự phát lễ truy điệu cho Lý Dao Anh, vì kỷ niệm nàng, xây miếu ở Kinh Nam, cúng nhiều hoa trái. Lý Đức hạ chỉ truy phong Lý Dao Anh là Trấn Quốc công chúa, Tạ hoàng hậu lại được thưởng phong —— vị hoàng hậu này ở trong Ly cung vốn không biết con gái mình chết ở tái ngoại, cả việc Lý Trọng Kiền dưỡng thương ở Lạc Dương cũng bị giấu diếm.

Nhoáng cái đã qua nửa tháng, thương thế Lý Huyền Trinh ngày càng tốt, nhưng người ngày càng gầy gò.

Trịnh Bích Ngọc đưa Chu Lục Vân đến bên hắn.

Trong lúc Lý Huyền Trinh tử thủ Lương Châu, Đỗ Tư Nam và Trịnh Cảnh dựa vào tình báo từ Lý Dao Anh, đã tra hỏi từng nô bộc cạnh Chu Lục Vân chuyện cô ta cấu kết với Nam Sở, Tây Thục, Bắc Nhung. Theo lời hộ vệ phủ công chúa, kẻ chết dưới đao Lý Huyền Trinh chỉ là một trong mấy tâm phúc mà Trưởng công chúa Nghĩa Khánh phái về Trung Nguyên, còn rất nhiều tùy tùng trung với bà rải rác ở Tây Thục Nam Sở.
Mục đính thực sự của họ chẳng phải thỉnh cầu Vương triều Trung Nguyên phát binh cứu Trưởng công chúa về, mà là lợi dụng thân phận con gái Chu thị của Trưởng công chúa châm ngòi lòng người, thu thập tình báo cho Bắc Nhung, kích động các quốc gia Trung Nguyên chinh chiến với nhau, suy yếu binh lực các nước, khi Trung Nguyên phân loạn, Bắc Nhung sẽ tiến quân thần tốc.

Lần này Bắc Nhung tập kích chỉ là thăm dò của Hải Đô A Lăng.

Lý Đức và đại thần trong triều xem hết lời khai, lòng còn sợ hãi, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng.

Trịnh Cảnh còn thuận tay tra rõ một sự kiện đã khiến quần thần buồn bực đã lâu: vì sao Nam Sở muốn phục kích Lý Trọng Kiền?

Mật thám nói thật từ đầu: thế gia Nam Sở mọc như nấm, hoàng quyền suy yếu, các đại thế gia minh tranh ám đấu vì vị trí Trữ quân, tâm phúc của Hải Đô A Lăng thừa cơ ra tay, khuyên Đại hoàng tử ham tranh công lớn đánh lén Lý Trọng Kiền, dấy lên chiến sự với Đại Ngụy.
Đội đánh lén đó là tinh nhuệ của Nam Sở, nếu không phải Lý Dao Anh giao dịch với Lý Huyền Trinh đi cứu Lý Trọng Kiền, hẳn hắn đã chết chắc.

Đỗ Tư Nam viết một bức thư ngôn từ khẩn thiết mà không thiếu phần cay độc, báo mưu đồ của Hải Đô A Lăng cho bạn cũ ở Nam Sở, mấy vị bạn cũ ở triều đình Nam Sở nắm chức cao, sau khi xác nhận cạnh Đại hoàng tử có mật thám đã cùng nhau lật đổ Đại hoàng tử: mặc dù họ cùng Ngụy triều thế như nước với lửa, nhưng môi hở răng lạnh, nếu Bắc Nhung công chiếm Trung Nguyên, chả nhẽ Nam Sở có thể tự lo thân mình?

Đại hoàng tử và Tây Thục đều vì bảo hổ lột da!

Nam Sở rất nhanh đổi Trữ.

Trịnh Cảnh dâng sớ, đề nghị lấy tội phản quốc bắt Chu Lục Vân, đại thần trong triều kịch liệt tranh cãi, bảo Chu Lục Vân không hề biết đến kế hoạch của Hải Đô A Lăng, cuối cùng miễn tội cho cô ta, gϊếŧ sạch nô bộc bên cạnh.
Chu Lục Vân thấy Lý Huyền Trinh trọng thương trở về, vừa áy náy vừa đau lòng. Lần này Lý Huyền Trinh không giống trước kia nhẹ lời an ủi cô ta nữa, cả ngày ngơ ngơ ngác ngác, Chu Lục Vân ầm ĩ một trận, khóc nói muốn rời khỏi Trường An.

Trịnh Bích Ngọc phiền phức vô cùng, sai người đưa Chu Lục Vân về phòng.

Vài ngày sau, trong lúc vô tình Lý Huyền Trinh nhìn thấy bức thư vốn nên nằm trong tay mình cách đây mấy tháng.

Hắn run cả người, ói một miệng máu, tìm tới Trịnh Bích Ngọc, mắt phượng đỏ rực không chớp nhìn nàng chằm chằm như lệ quỷ: "Sao không báo cho ta biết sớm hơn? Vì sao?!"

Trịnh Bích Ngọc thở dài, thản nhiên nói: "Điện hạ, lúc thϊếp biết tin, chàng đã đưa Văn Chiêu công chúa đi Diệp Lỗ rồi."

Lý Huyền Trinh suýt không kiềm chế nổi cảm xúc, răng nghiến kèn kẹt, lảo đảo lùi mấy bước, ngửa mặt lên trời cười to.

"Đúng nhỉ! Là ta tiễn muội ấy đi!"

"Tự tay ta đẩy muội ấy vào đường chết!"

"Vì sao?! Vì sao muội ấy lại muốn cứu Lý Trọng Kiền? Vì sao không muốn cắt đứt quan hệ với Lý Trọng Kiền?"

"Chỉ cần muội ấy cắt đứt quan hệ với mẹ con Tạ thị... chỉ cần muội gật đầu... Ta cũng không cần hận muội..."

"Vì sao muội ấy không gọi ta Trường Sinh ca ca nữa?"

Hắn đột nhiên ngừng lại, khuôn mặt vặn vẹo: "Ta muốn báo thù cho mẹ... Muốn báo thù cho mẹ... Lý Đức còn chưa có chết, Tạ thị chưa chết... Ta có lỗi với mẹ... Ta có lỗi với mẹ!"

Trịnh Bích Ngọc nhìn người chồng phát cuồng, ánh mắt thương xót.

Chàng hủy hoại mình, cũng hủy hoại Thất công chúa.

...

Sau hôm phát cuồng, Lý Huyền Trinh tỉnh táo lại một cách lạ thường, bắt đầu điều tra lời của Vinh phi là thật hay giả. Hắn phái người đi Kinh Nam nghe ngóng chuyện Tạ gia, nhờ Bùi Đô đốc viết phong thư, mang đến nhà Bùi gia.
Bùi gia Tạ gia cả đời không qua lại, có thể Bùi công biết chút ít ẩn tình nên lúc ấy mới không ngại ngàn dặm xa chạy đến Trường An ra mặt giúp Lý Dao Anh.

Bức thư này giờ đây nằm trong tay Trịnh Bích Ngọc. Thư Bùi công nói, Lý Dao Anh đúng là không phải con gái Tạ Quý phi.

Năm đó Đường thị tự thiêu mà chết, Lý Đức bỏ quân chạy về quận Ngụy, lòng quân tan rã, tiền tuyến thất bại, Tạ Vô Lượng cùng với Bùi công lãnh binh đối địch, trong lúc dọn dẹp chiến trường sau trận chiến vô tình nhìn thấy một đứa trẻ bị vứt bỏ.

Đứa bé trong tã lót quá nhỏ quá yếu ớt, cuộn thành một khối nhỏ xíu, không phát ra chút âm thanh. Binh sĩ nghĩ nó chết rồi định chôn tại chỗ, thì Tạ Vô Lượng xuống ngựa, ôm lấy, sờ mạch đứa bé, nói: "Còn sống."

Bùi công quét mắt một vòng qua đứa bé, lạnh lùng thốt: "Đứa nhỏ này cả người xanh mét, lượm về cũng chẳng sống nổi mấy hôm, không bằng để nó chết thống khoái đi, kiếp sau đầu thai vào một nhà tốt đẹp."
Tạ Vô Lượng cười cười, đầu ngón tay phủi bụi đất trên mặt con bé: "Gì cũng là một mạng người. Lúc cháu ra đời cũng chẳng khác nó mấy, cháu đã sống được, có lẽ nó cũng có thể."

Bùi công thầm nghĩ: Vô Lượng công tử đúng là trời sinh mềm lòng, đáng tiếc, làm vậy cũng chỉ uổng công, đứa bé bị vứt bỏ này chẳng sống được mấy tháng.

Sau này, đứa bé vẫn còn sống, dù thân thể ốm yếu không thể bước đi, nhưng vẫn còn sống.

Tạ Vô Lượng từng gửi cho Bùi công một phong thư, trong thư là một bài thơ.

Trung sinh bạch phù dung, hạm đạm tam bách hành.

Bạch nhật phát quang thải, thanh tiêu tán phương hinh.

Tiết hương ngân nang phá, tả lộ ngọc bàn khuynh.

Ngã tàm trần cấu nhãn, kiến thử quỳnh dao anh.

*Trích Đóa sen trắng chùa Đông Lâm – Bạch Cư Dị.
Bùi công chỉ trả lời một câu: Đặt tên rất hay.

Trịnh Bích Ngọc buông tin xuống, thở thật dài.

Có tiếng bước chân ngoài cửa sổ, một thị nữ vội vàng đi vào nhỏ giọng nói: "Điện hạ, không thấy Phúc Khang công chúa đâu ạ."

Trịnh Bích Ngọc nhẹ chau mày, nhìn Lý Huyền Trinh đang mê man, nói: "Cho người chia ra đi tìm, mấy bữa nay cô ta lộn xộn đòi đi, ở cửa thành chờ là được."

Thị nữ vâng dạ ra ngoài, chỉ sau chốc lát, lại có thị nữ chạy vào.

Trịnh Bích Ngọc nhíu mày hỏi: "Tìm thấy Chu nương tử rồi à?"

Thị nữ lắc đầu, vẻ hoảng sợ: "Điện hạ, Nhị hoàng tử... Không, Vệ Quốc Công đã về!"

Trịnh Bích Ngọc hơi hồi hộp trong lòng.

Lý Trọng Kiền đã biết tin Lý Dao Anh chết.

-----------CHƯƠNG 50---------------

Trước cửa thành rộn rộn ràng ràng, dòng người như dệt.

Trời đang vào xuân gió ấm áp, ngựa tốt xe thơm ra ngoài thành ngắm cảnh nối đuôi không dứt, liếc nhìn lại, hồng trần cuồn cuộn, màn trướng không ngớt.
Cạnh con đường dài, đội xe buôn chờ vào thành tạo thành một đội hình uốn lượn quanh co, không nhìn thấy đuôi.

Cảnh tượng phồn hoa giàu có thái bình.

Lúc xe chở Vệ Quốc Công Lý Trọng Kiền vào hoàng thành, dân trên đường nhận ra cờ của Tạ gia, rối rít dừng xe ngựa nhường đường, dân chúng dừng chân quan sát.

Tất cả hộ vệ cưỡi ngựa mang đao trước xe ngựa đều đốt giấy để tang, người mặc tang phục, vẻ lạnh lùng. Họ đang để tang cho Văn Chiêu công chúa.

Dân chúng châu đầu ghé tai, khẽ bàn tán: Nghe nói Vệ Quốc Công bị trọng thương, võ công bị mất sạch, sau này không còn khả năng ra đánh trận, em gái ruột duy nhất chết ở tái ngoại, thật đáng thương tiếc!

Trong tiếng xì xào, rèm xe gió thổi không lay, luôn thả thấp, vị Nhị Hoàng tử thích cưỡi tuấn mã lao vùn vụt vào thành mỗi lần khải hoàn kia như xấu hổ gặp người, trước sau không hề lộ diện.
Dân chúng đưa mắt nhìn xe ngựa đi xa, nhớ đến vị Nhị hoàng tử luôn phấn chấn rạng rỡ anh hùng, nhìn nhau, lắc đầu thở dài.

Tin tức rất nhanh truyền đến cung Thái Cực, thái giám vào thông báo.

Lý Đức nhíu mày, nói: "Để Thiên Ngưu vệ gặp nó."

Thái giám vâng dạ, truyền xuống Thiên Ngưu vệ, họ không kịp chuẩn bị, vội vàng triệu tập người, luống cuống vọt ra nội thành đón tiếp.

Một canh giờ sau, mấy trăm lính gác cửa mặc nhung trang, tả hữu Thiên Ngưu vệ, tả hữu Kiêu vệ canh giữ trước cửa phủ Vệ Quốc Công, như sẵn sàng đón địch, trong cổng ánh đao lập loè, từ phố dài đến quảng trường, khắp nơi đều có vệ binh mai phục.

Trịnh Cảnh và Tiết Ngũ vội vàng chạy tới, chờ trước thềm cửa phủ. Thiếu niên lang đánh ngựa truy đuổi Thất công chúa ngày xưa giờ đây đã là quan đồng liêu, đều mặt quan bào màu xanh cổ tròn.
Tiết Ngũ ra vẻ khẩn trương, không ngừng lau mồ hôi.

Trịnh Cảnh liếc hắn: "Ngươi sợ gì thế?"

Tiết Ngũ đá lại: "Trịnh Tam, chả nhẽ ngươi không sợ Vệ Quốc Công à? Năm đó là ai suýt tí bị Vệ Quốc Công dọa té ngựa?"

Nghe gã khơi lại chuyện cũ, Trịnh Cảnh giật mình. Đúng vậy, cậu đã từng e ngại Lý Trọng Kiền —— tử đệ quý tộc ngưỡng mộ Văn Chiêu công chúa có ai không sợ Lý Trọng Kiền?

Văn Chiêu công chúa tự nhiên hào phóng, cử chỉ văn nhã, Lý Trọng Kiền là anh cùng mẹ lại bá đạo lỗ mãng, ông trời là lão đại lão nhị thì hắn lão tam, thường xuyên có cử chỉ đáng sợ, xem thường kẻ khác. Hơn hai năm hơn phân nửa đám thế gia công tử muốn cầu thân với Văn Chiêu công chúa bị Lý Trọng Kiền đánh gần chết.

Không nói đâu xa, tỷ như Tiêu Bát Lang nhà Tể tướng, bên ngoài nuôi mấy mỹ cơ, con ba bốn đứa rồi còn dám can đảm cầu hôn Văn Chiêu công chúa, Lý Trọng Kiền đánh cho sưng mấy cục đầy đầu.
Bác Lăng trưởng tôn Thôi gia, thề son thề sắt nói mình không có thϊếp không có ngoại thất càng không có con cái, lại bị tra ra rằng thích Long dương*, Lý Trọng Kiền giận dữ, ngay trước mặt Hoàng đế Lý Đức và văn võ đại thần, sương sương đánh gãy một chân Thôi Đại Lang.

*thích trai

Lúc ấy Trịnh Cảnh cũng có mặt, dư âm tiếng kêu thảm thiết của Thôi Đại Lang còn văng vẳng bên tai, ba ngày không dứt, nghĩ lại còn thấy đau giùm

Cho nên khi Trịnh Cảnh đến Vương phủ cầu thân, mẹ cậu khóc lóc, suýt quỳ xuống xin: Ai cũng biết Lý Trọng Kiền yêu thương Văn Chiêu công chúa cỡ nào, cậu vô công vô danh lại dám đi cầu cưới công chúa, không muốn sống nữa sao?

Trịnh Cảnh tốt không phô, không bao giờ làm chuyện khác người, lần đó lấy hết khí phách cầu hôn cho mình. Cậu cho rằng mình sẽ không sợ, nhưng đến khi cặp mắt phượng kia của Lý Trọng Kiền lạnh lùng liếc qua, cậu vẫn sợ đến hồn phi phách tán, chỉ muốn tìm kẽ đất trốn vào.
Ánh mắt lạnh như băng vẫn ở sâu trong ký ức của Trịnh Cảnh, nhớ tới còn thấy lưng phát lạnh. Khi đó, cậu thực lòng cầu hôn Văn Chiêu công chúa, ánh mắt ông anh lập tức như muốn lập tức chặt đầu cậu.

Giờ thì, Văn Chiêu công chúa chết rồi.

Cô độc chết ngàn dặm xa, trước khi chết không biết bị bao nhiêu tra tấn.

Lý Trọng Kiền đập gãy một chân Thôi Đại Lang có thể bỏ qua sao?

Quan viên trong triều đều biết đáp án: Không thể.

Cung Thái Cực lẫn Đông cung đều tăng cường cảnh giới, thân binh Vương phủ bị chia đều ra cho các nha thự, cạnh Lý Trọng Kiền giờ chỉ còn thân binh của Tạ gia, đám quan chức vẫn không yên lòng, đuổi luôn thân binh Tạ gia, chỉ cho phép Lý Trọng Kiền mang hai mươi người vào thành.

Chỉ có hai mươi người, không lật được trời. Hơn nữa Lý Trọng Kiền đã thành người tàn phế, đến kim chùy còn cầm không được, nếu không thì Lý Đức làm sao dám để hắn hồi kinh?
Trịnh Cảnh từ từ trấn định, Tiết Ngũ vẫn không bình tĩnh nổi. Hắn đi cà nhắc nhìn ra hướng phố dài, thấp giọng nói: "Hai ta vì mới ra làm quan, căn cơ nông cạn, mới bị đẩy ra đón Vệ Quốc Công, mấy người đó đúng là cố tình mà! Lát Vệ Quốc Công đến, tiện tay chặt ngươi ta một đao, chả nhẽ Thánh thượng sẽ trách tội ngài? Tụi mình là để Vệ Quốc Công trút giận đây mà!"

Trịnh Cảnh rủ mắt không nói.

Tiết Ngũ cười, châm chọc: "Trịnh Tam, ngươi chưa nghe chuyện Hạ Lan Dương phải không?"

Trịnh Cảnh lắc đầu.

Tiết Ngũ xích lại gần, hạ giọng: "Năm ngoái lúc Thánh thượng và Nam Sở đoạt Kinh Tương, từng đại bại, mưu thần Hạ Lan Dương đề nghị gả Văn Chiêu công chúa đổi lấy ủng hộ của gia tộc quyền thế Kinh Tương, Vệ Quốc Công đang đánh trận, nghe vậy giận dữ, lĩnh ba ngàn kỵ binh phá vây, giải nguy Kinh Tương, rồi xách đao xông vào đại trướng, ngay trước mặt Thánh thượng chính tay đâm Hạ Lan Dương, một đao chém, đầy trướng đều là máu."
"Từ đó về sau, không ai dám nói vào ra gì chuyện hôn sự của Văn Chiêu công chúa luôn. Không thì, mấy đứa ranh bọn mình làm gì có cơ hội cầu hôn chứ?"

Tiết Ngũ run lên, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng. "Ta không hù ngươi, lần này Vệ Quốc Công hồi kinh, nhất định sẽ gϊếŧ mấy người xả hận, Thánh thượng thẹn với Văn Chiêu công chúa, tuyệt đối sẽ không hỏi tội, ta từng đắc tội Vệ Quốc Công rồi, hôm nay nói không chừng thành vong hồn dưới chùy Vệ Quốc Công mất!"

Gã vừa dứt lời, có tiếng lộc cộc của xe ngựa chạy qua nền gạch phố dài, hộ vệ áo trắng vây quanh một chiếc xe ngựa từ từ chạy đến gần.

Tiết Ngũ sợ đến nhảy lên cao ba thước. Trịnh Cảnh bước ra chào đón.

Tiết Ngũ ngây ra, thầm mắng Trịnh Cảnh không sợ chết, khẽ cắn môi, ra hiệu vệ binh mai phục chung quanh đề cao cảnh giác, cũng đi theo.
Xe ngựa chạy thẳng đến trước thềm đá mới dừng lại, Úy quan Thiên Ngưu vệ bảo thái giám bưng chiếu thư chờ một bên, tay cầm trường đao tiến lên quát: "Thánh chỉ ở đây, Vệ Quốc Công xuống xe nghe chỉ?"

Hộ vệ không nói một lời.

Úy quan chau mày, lớn tiếng lặp lại: "Thánh chỉ ở đây, sao Vệ Quốc Công còn không xuống xe nghe chỉ"

Màn xe không nhúc nhích, hộ vệ cũng không lên tiếng.

Úy quan giận dữ, bước lên vén rèm xe, thấy cảnh bên trong, ngây người vô thức lùi hai bước.

Trịnh Cảnh và Tiết Ngũ nhìn theo.

Một bóng người thon gầy yếu ớt được hộ vệ dìu xuống xe, đứng xuống đất, lắc người mấy lần, ngẩng đầu.

Trước cửa phủ lặng ngắt như tờ.

Ánh mắt Trịnh Cảnh lộ vẻ kinh ngạc, Tiết Ngũ phản ứng càng mãnh liệt hơn, như rớt luôn tròng mắt ra ngoài.

Lý Trọng Kiền dũng mãnh thiện chiến, cao lớn to con xưa kia, không chỉ gầy như một cây sậy, đứng còn không vững, đến ánh mắt sắc bén cũng không thấy, cả người uể oải suy sụp, dáng vẻ nặng nề. Như bị rút hết tinh khí chỉ còn lại một cái xác không hồn.
Cả đám kinh ngạc mãi, trong phút chốc không biết nên nói gì.

Nghe nói Vệ Quốc Công trúng kỳ độc, thành một người tàn phế, thì ra là thật!

Sau một lúc lâu, Thiên Ngưu vệ thu trường đao.

Tiết Ngũ từ trong khϊếp sợ tỉnh táo lại, lặng lẽ thở hắt: Vệ Quốc Công bây giờ đừng nói gϊếŧ người cho hả giận, đi đứng còn phải có người đỡ, gϊếŧ người thế nào được?

Gã tiến lên một bước, thấp giọng nói: "Vệ Quốc Công, Thánh thượng có chỉ."

Lý Trọng Kiền nhướng mày, hững hờ quét qua. "Cút." Giọng không có chút lực.

Tiết Ngũ chần chừ một lát, không biết nên nói gì, Lý Trọng Kiền đi ngang qua gã, bước rất lớn, chưa được mấy bước đã thở hồng hộc, thân binh vội vàng dừng lại, hắn gầm nhẹ, thân binh không dám lên tiếng, đỡ hắn bước lên thềm đá.

Thiên Ngưu vệ nhìn chằm chằm bóng lưng Lý Trọng Kiền run run rẩy rẩy đi xa, cất cao giọng: "Vệ Quốc Công, ngài muốn kháng chỉ à?"
Thái giám bưng lấy chiếu thư ra trước.

Lý Trọng Kiền dừng bước, nhìn thân binh bên cạnh. Thân binh hiểu ý, quay người chạy xuống bậc cấp, rút đao chém cái tráp trong tay thái giám.

Rắc rắc hai tiếng nổ mạnh, tráp vỡ thành hai nửa, rơi xuống đất, chiếu thư trong hộp cũng bị chém rách.

Thái giám hồn vía lên mây, thét lên chói tai rồi lùi lại.

Thiên Ngưu vệ giận dữ: "Vệ Quốc Công, ngươi dám bất kính đối với Thánh thượng à!"

Lý Trọng Kiền không thèm để ý, cũng không quay lại, đi vào cửa phủ.

Cạch, cửa từ bên trong khép lại. Đám người nhìn nhau. Trịnh Cảnh và Tiết Ngũ ngó xong, về cung chờ lệnh.

Mặc dù Vệ Quốc Công đại nghịch bất đạo, cự tuyệt tiếp chỉ, nhưng không làm bị thương ai, đã là vạn hạnh. Tiết Ngũ nói thay cho Lý Trọng Kiền vài câu tốt đẹp.

Thượng quan nhíu mày hỏi: "Vệ Quốc Công thành phế nhân thật à?"
Hai người gật đầu: "Không sai, bọn tôi tận mắt nhìn thấy."

Tiết Ngũ chậc chậc vài tiếng, thở dài: "Ngài không thấy đó thôi, Vệ Quốc Công đã gầy như cây sậy! Gió thổi là ngã, đi mấy bước đã thở như kéo bễ rồi."

Cùng với Thái tử Lý Huyền Trinh nổi danh chiến tướng, cứ thế thành người bỏ đi

Thượng quan gật đầu, vào điện bẩm báo Lý Đức.

Hôm sau, Đông cung.

Thị nữ vào bẩm báo cho Trịnh Bích Ngọc tin tức nghe được: "Tối qua Thánh thượng phái Thái y đi phủ Quốc công bắt mạch cho Vệ Quốc Công, mấy Thái y đều nói Vệ Quốc Công mất đi võ nghệ, cầm đũa còn run. Thánh thượng hạ chỉ ngợi khen Vệ Quốc Công, Vệ Quốc Công cự tuyệt không nghe chỉ, hộ vệ ngài đả thương mấy thái giám, mấy tướng công Chính sự đường đến vấn an cũng bị hộ vệ đuổi đi. Giờ chẳng còn ai dám tới phủ Quốc công nữa."
Trịnh Bích Ngọc thở phào. Nếu Lý Trọng Kiền không bị tổn thương, chắc chắn sẽ đại náo Trường An, như bây giờ, thật ra với ai cũng tốt.

Ngụy Minh không yên lòng, tiếp tục cho người tìm hiểu.

Thám tử về nói chỉ cần có người trong cung đến là Lý Trọng Kiền đã nổi trận lôi đình, thị nữ nhiều lần nhìn thấy hắn muốn vác kim chùy đánh người, chưa nâng nổi đã ngã xuống đất.

Đám thuộc hạ trong Đông cung thầm thấy may mắn: cuối cùng Vị Sát Thần này về sau sẽ không còn uy hϊếp được địa vị Thái tử.

Ngụy Minh báo tin vui cho Lý Huyền Trinh. Vết thương Lý Huyền Trinh còn chưa tốt, nghiêng người dựa vào bằng ỷ, mặt không cảm xúc ừ một tiếng, bảo Ngụy Minh qua dạy Hoàng thái tôn đọc sách.

Ngụy Minh ngẩn người, cười khổ bái lễ với Lý Huyền Trinh lui ra.

Đám người không hiểu ra sao: Thái tử sao vậy? Sao đuổi Ngụy trưởng sử ngài coi trọng nhất?
Có người cầu gặp Trịnh Bích Ngọc, xin nàng cứu vãn cho Ngụy Minh. Trịnh Bích Ngọc nghiêm nghị cự tuyệt, nói mình là phụ nữ trong nhà, không tiện can thiệp việc Đông cung. Họ đành phải an ủi Ngụy Minh: Chờ tử khí tiêu tan, chắc chắn sẽ triệu gã về!

Ngụy Minh có phần nhụt chí, trước khi đi dặn dò đám người: "Nếu có biến cố chuyện Văn Chiêu công chúa, phải báo tin cho ta!"

Cả đám ngoài miệng đồng ý lia lịa, lòng thầm lơ đễnh. Văn Chiêu công chúa đã chết, còn biến cố gì?

Giờ đang phải rầu chuyện khác đây: Chu Lục Vân lén chạy mất, tung tích không rõ, tìm khắp vẫn không thấy đâu. Cũng may Lý Huyền Trinh ngài trọng thương chưa lành, tinh thần hoảng loạn, chưa hỏi tới Chu Lục Vân ấy.

Lý Trọng Kiền hồi kinh khiến văn võ cả triều nơm nớp lo sợ, nhưng hiện tại hắn đã phế đi võ công, cũng không gây sóng to gió lớn, đám người yên lòng.
Hôm sau, đại yến trong cung mừng tướng sĩ khải hoàn. Yến hội diễn ra ở điện Lân Đức, ca múa vang trời, đèn nến rực rỡ.

Lý Huyền Trinh đã lâu không xuất hiện cũng có mặt ở yến hội, sắc mặt tái nhợt u ám.

Quan viên cầm chén rượu đến bắt chuyện, hắn phản ứng hờ hững, không bình dị gần gũi như ngày thường, làm họ ngượng ngùng lui xuống.

Trịnh Cảnh ngồi ở một chiếu hẻo lánh, nhìn Lý Huyền Trinh mấy lần, như có điều suy nghĩ, đứng dậy bước qua.

"Điện hạ." Trịnh Cảnh nâng chén, nhìn quanh một vòng, "Tôi nhớ đêm Văn Chiêu công chúa mời cưới, cũng yến hội thế này, nàng ăn mặc trang trọng, xinh đẹp vô cùng, sứ thần các nước đều hỏi thăm nàng là vị công chúa nào."

Lý Huyền Trinh nhắm mắt, cúi đầu rót cho mình chén rượu.

Trịnh Cảnh không chút ý vị cười cười, quay người mời lại.
Văn võ triều thần ngồi đầy tiệc uống đã ngà say, Lý Đức đứng dậy, móng tay chấm rượu, gảy mấy lần ra không trung, đang muốn mở miệng động viên tướng sĩ, bỗng ngoài cửa điện có tiếng động lớn.

Tiếng nhạc im bặt. Bầu không khí thoáng chốc trở nên nặng nề.

Cả đám ngây người không biết chuyện gì, nhìn ra nơi có tiếng động. Dưới ánh nến chập chờn, một bóng người cao gầy chậm rãi bước lên thềm, từng bước đi đến trong đại điện.

Là võ nghệ bị phế sạch Lý Trọng Kiền.

Hắn một người trường bào trắng, gầy giơ xương, đứng trong điện, mắt phượng dài hẹp âm u liếc nhìn một vòng.

Cả đám không khỏi rùng mình, trong lòng đánh trống, ánh mắt rơi xuống lưng hắn, thấy cả người áo trắng không đeo đao kiếm, cũng không thấy đôi kim chùy nghe tới đã sợ mất mật, lặng lẽ thở ra một hơi.
Một Lý Trọng Kiền đã tàn phế, không đáng để lo.

-----------CHƯƠNG 51---------------

Nước đọng yên lặng. Ánh nến cả phòng chao đảo.

Lý Trọng Kiền đón ánh mắt dò xét của từng người, từng bước một tiến lên, bước đi hơi chao đảo.

Kim Ngô Vệ chần chừ không biết có nên bước tới ngăn hắn, rối rít nhìn Lý Đức ở bàn chủ yến. Lý Đức uống ngà say, khuôn mặt hơi đỏ, đặt chén rượu xuống, nheo mắt nhìn Lý Trọng Kiền sắc mặt trắng bệch, không lên tiếng.

Kim Ngô Vệ liếc nhau, ở nguyên tại chỗ, tay nắm chặt chuôi đao, cảnh giác nhìn Lý Trọng Kiền chằm chằm.

Văn võ đại thần nhìn nhau.

Trịnh Tể tướng trầm ngâm chốc lát, thở dài, đứng dậy rời bàn, xách bình rượu bạc mạ vàng đón Lý Trọng Kiền. Trên mặt nở nụ cười, rót chén rượu đưa cho Lý Trọng Kiền, hạ giọng nói: "Văn Chiêu công chúa có công với đất nước, đáng tiếc trời ghen tỵ hồng nhan, chén rượu này của người, hẳn phải nên để anh trai người uống. Trọng Kiền, trước khi Văn Chiêu công chúa xuất các, không yên tâm nhất chính là ngài." Câu cuối đầy ý nhị, giọng rất thực lòng.

Văn Chiêu công chúa đã chết, nàng dùng một cuộc hôn nhân đổi lấy an ổn cho mẹ và anh trai. Nếu Lý Trọng Kiền si ngốc thì chẳng phải công chúa hy sinh một cách vô ích sao?

Lý Trọng Kiền lại không hề cảm kích, nâng tầm mắt, mắt phượng sắc lạnh liếc Trịnh Tể tướng như đang nhìn một người chết.

Trịnh Tể tướng không khỏi dựng tóc gáy. Lý Trọng Kiền trực tiếp vượt qua ông, lảo đảo đi đến chỗ Lý Huyền Trinh ngồi.

Lý Huyền Trinh ngẩng lên đối mặt với hắn, không nhúc nhích. Hai anh em đều có một đôi mắt phượng, bốn mắt đụng nhau, một bên chết lặng, một bên u ám.

Thuộc thần của Đông cung nhảy dựng, ngăn Lý Trọng Kiền: "Vệ Quốc Công, chỗ ngài không phải ở đây."

Lý Huyền Trinh khoát tay ra hiệu họ lui ra. Cả đám nhíu mày nhìn nhau. Sắc mặt Lý Huyền Trinh lạnh xuống, lạnh lùng nói: "Lui ra!"
Thuộc thần đành phải lui ra.

Da mặt Lý Trọng Kiền giật giật, một chưởng đánh về Lý Huyền Trinh. Vừa nghe, Kim Ngô Vệ bay ra. Bốp bịch, nắm đấm Lý Trọng Kiền sượt qua Lý Huyền Trinh, không thu được thế, ngã xuống chiếu nỉ.

Kim Ngô Vệ đứng chết trân tại chỗ, đám người kinh ngạc đứng lên, nhìn Lý Trọng Kiền giãy dụa bò dậy, lắc đầu thở dài, ánh mắt thương tiếc và đồng tình.

Vừa rồi họ đều nhìn thấy, Lý Huyền Trinh không hề tránh, khoảng cách gần như vậy, Lý Trọng Kiền không làm Lý Huyền Trinh bị thương mà còn tự ngã, xem ra Lý Trọng Kiền hỏng thật rồi —— hắn là Lý Trọng Kiền sắc sảo tài năng, công thành đoạt đất chưa từng lùi bước đó!

Thuộc thần Đông cung lại bước ra. Lý Huyền Trinh liếc mắt cảnh cáo. Hai tay nắm chặt, họ cắn răng lui ra.

Lý Trọng Kiền giãy dụa đứng dậy, nhào về phía Lý Huyền Trinh lần nữa, một quyền đánh tới.
Cú đánh không bao nhiêu lực, Lý Huyền Trinh vẫn không né tránh, bị đụng nhẹ vào đầu. Lý Trọng Kiền tiếp tục vung nắm đấm, hắn vẫn không nhúc nhích, nắm đấm như mưa rơi xuống người.

Lý Đức vẫn để ý đến động tĩnh hai anh em, thấy thế, nhíu mày nhẹ, ra hiệu Kim Ngô Vệ can ra.

Kim Ngô Vệ đẩy ra hai bên, Lý Trọng Kiền võ công mất hết, bị trực tiếp kéo đến chỗ ngồi, mặt Lý Huyền Trinh một chút dấu vết xanh tím còn không có.

Cả đám thở dài: Lý Trọng Kiền thật tự rước lấy nhục.

"Thánh thượng!" đột nhiên Lý Trọng Kiền bị kéo vào ghế lên tiếng hô to, "Năm đó hai nhà Tạ Lý kết minh, ngài đã đồng ý với Cậu tôi chuyện gì?"

Cả điện yên tĩnh.

Văn võ đại thần thầm kêu khổ, muốn cáo lui ra nhưng không dám lên tiếng, chỉ cúi đầu giả như không nghe thấy Lý Trọng Kiền vặn hỏi.
Lý Đức đứng lên, trầm mặt.

Lý Trọng Kiền cười lạnh, giọng khàn khàn bén nhọn: "Lúc Thánh thượng cưới Mẹ tôi, Đường hoàng hậu bước vào hỉ đường, Cậu muốn đưa Mẹ đi, lúc ấy, Thánh thượng nói với Mẹ câu gì?"

Một câu hỏi ra, đại thần trong điện vùi đầu càng thấp hơn. Chỉ có Lý Huyền Trinh ngẩng lên.

Lý Trọng Kiền nhìn Lý Huyền Trinh, bên môi cười châm chọc: "Thánh thượng ngay trước mặt Đường hoàng hậu nhìn Mẹ nói tám chữ: Minh ước đã thành, vĩnh không tướng phụ."

Tám chữ đó, khiến Tạ Mãn Nguyện nghĩ Lý Đức có tình với bà.

Con ngươi Lý Huyền Trinh bỗng co rút, đứng dậy, đi đến trước mặt Lý Trọng Kiền: "Ngươi lặp lại lần nữa."

Kim Ngô Vệ sợ khí thế của hắn, buông Lý Trọng Kiền ra. Lý Trọng Kiền ngã nhào trên đất, cười lạnh mấy tiếng, đón ánh mắt Lý Huyền Trinh, từng chữ nói: "Minh ước đã thành, vĩnh không tướng phụ."
Hai tay Lý Huyền Trinh cứng lại, đầu lông mày tức giận cuồn cuộn, quay nhìn Lý Đức, ánh mắt như đao, nhấc chân định bước đến.

Thuộc thần lập tức níu cánh tay Lý Huyền Trinh, không cho hắn nổi giận.

Lý Đức lạnh lùng nhìn Lý Trọng Kiền, không nói gì, tóc mai hoa râm dưới ánh nến lóe lên mấy tia lạnh buốt, đưa tay ra hiệu.

Đại thần trong điện đang chỉ mong có thế, nhanh chóng đứng dậy, hốt hoảng lui ra.

Lý Huyền Trinh muốn phóng tới nội điện, thuộc thần không dám buông tay, mấy người hợp lực cản lại, khuyên hắn bình tâm rồi kéo hắn rời đi.

Kim Ngô Vệ rút đao ngăn trước mặt Lý Đức, đề phòng Lý Huyền Trinh, mấy Kim Ngô Vệ khác bước tới, nắm lấy Lý Trọng Kiền kéo đến dưới chân Lý Đức.

Lý Đức nhìn xuống Lý Trọng Kiền, bình tĩnh nói: "Văn Chiêu đã chết, ngươi sau này còn phải thừa kế hương khói Tạ gia, đừng để em gái ngươi chết vô ích."
Giọng vẫn lý trí mà ung dung, không hề gợn sóng.

Lý Trọng Kiền tê liệt té xuống đất, nghe vậy, ngẩng đầu, búi tóc ban nãy giãy dụa tóc đã rối loạn, khuôn mặt vặn vẹo.

Trịnh Tể tướng đang cùng những người khác rời khỏi nội điện, xuyên qua ánh nến nhìn thấy Lý Trọng Kiện bị đè vai quỳ xuống đất, chợt nhớ tới ánh mắt lạnh âm u của hắn vừa rồi, trong lòng mãnh liệt run sợ, dừng bước hô to: "Thánh thượng —— "

Một tiếng nhắc nhở vẫn bị chậm.

Biến cố phát sinh.

Lý Trọng Kiền đang nằm trên đất bỗng nhiên bật dậy, lao thẳng về phía Lý Đức, người nhanh như chớp, mang theo thế hùng hồn như sóng thần, nào có vẻ giống như võ công mất sạch?

Tất cả đều nghĩ hắn mất hết võ công, tất cả đều đề phòng Lý Huyền Trinh, trong phút chốc mất cảnh giác, không phòng bị. Lý Huyền Trinh cách quá xa, lại bị thuộc thần cản trở không thể động đậy. Mấy văn võ đại thần khác không dám xen vào việc trong nhà của Hoàng đế, kẻ thông minh đã sớm bôi dầu lòng bàn chân chạy mất dép.
Trong nội điện, ngoại trừ cha con mấy người, chỉ còn lại Kim Ngô Vệ và tùy tùng.

Lý Đức thấy cổ tay bị siết chặt, cả người bị một sức lớn kéo lảo đảo mấy lần, một cánh tay lạnh băng giữ cổ họng ông.

Ngay phút sấm to chớp giật, hậu vệ cách gần nhất kịp phản ứng, giơ đao chém xuống, rất hung mãnh. Lý Trọng Kiền không hề bối rối, đẩy Lý Đức ra đón, ngang nhiên tiếp mấy đao, da tróc thịt bong, máu tươi bắn ra. Hắn như hoàn toàn không thấy đau đớn, đón gió đao mưa kiếm, toàn thân đẫm máu, hai tay tiếp tục giữ cổ họng Lý Đức.

Cận vệ không dám ra tay mạnh, trong lúc bối rối, suýt chém phải cánh tay của Lý Đức, lật đật co lại, thấy điệu bộ Lý Trọng Kiền như vậy, sợ hãi trong lòng, giảm bớt thế công, toàn bộ dừng tay.

Nội điện ngoại điện rất vắng vẻ. Đám người đứng chết trân tại chỗ, lạnh khắp người.
Chẳng ai ngờ Lý Trọng Kiền một mình đến điện Lân Đức, là muốn hành thích!

Dù ngài đã được phong làm con thừa tự của họ ngoại thì vẫn là con ruột của Lý Đức! Chả nhẽ muốn gϊếŧ cha?

Trong điện là Kim Ngô Vệ võ công cao cường, ngoài điện là cận vệ lớp lớp trấn giữ, ngài chỉ một mình, mọc cánh khó thoát, sao dám coi trời bằng vung, gϊếŧ cha hành thích vua?!

Mọi người kinh hãi không thôi.

Lý Trọng Kiền siết ngón tay, vẻ mặt Lý Đức đầy đau đớn.

Lý Trọng Kiền nhìn tên Kim Ngô Vệ đến gần, mắt đỏ như chảy ra máu: "Sao hả, các ngươi muốn nhìn máu thánh nhân văng tại chỗ à?"

Cả đám chưa từng thấy bộ dáng Lý Trọng Kiền điên cuồng như thế, tê rần da đầu, một cử động nhỏ cũng không dám.

"Trọng Kiền!"

"Vệ Quốc Công!"

"Tần Vương!"

"Nhị Lang!"

Đám đại thần đang định rời nội điện rất hoảng sợ, chạy vội vào, điên cuồng la lớn, "Đừng xúc động! Ngài mau thả thánh nhân! Là cha ruột ngài đó!"
Lý Trọng Kiền cười lạnh: "Cha ruột? Ông ta không xứng!"

Cả đám lòng như lửa đốt, nhìn Thái tử Lý Huyền Trinh. Lý Huyền Trinh đứng một bên, trên mặt đã không còn phẫn nộ cũng không bối rối, chỉ một vẻ hờ hững.

Cả đám bị choáng, quay lại chằm chằm nhìn Lý Trọng Kiền, có trực tiếp chửi ầm, có nhẹ lời khuyên bảo.

Lý Trọng Kiền như chẳng thèm nghe thấy.

"Vệ Quốc Công!" Một giọng trẻ tuổi vọng đến, Trịnh Cảnh hốt hoảng chạy tới nội điện, "Vệ Quốc Công, ngài hãy nghĩ tới Tạ Hoàng hậu! Hoàng hậu điện hạ chỉ có đứa con trai ngài để dựa! Ngài muốn Văn Chiêu công chúa dưới cửu tuyền không yên lòng à?"

Lý Trọng Kiền cười lạnh: "Tổ chim bị phá không còn trứng lành, vô tri vô giác mà sống không bằng chết cho rõ ràng."

Mặt Trịnh Cảnh không còn giọt máu.

Tiếng bước chân hỗn loạn, cung thủ từ bốn phương tám hướng tràn vào nội điện, chen đầy ngõ ngách, vô số mũi tên chĩa thẳng vào Lý Trọng Kiền.
Lý Trọng Kiền bóp chặt họng Lý Đức: "Cậu từng dạy tôi, trung thành với quân vương, không thể không chú ý đại cục, không thể quá so đo được mất, có lợi ở thiên hạ ắt có mưu đồ... Tôi cố gắng làm theo, không tranh không đoạt, ra trận gϊếŧ địch, mở rộng bờ cõi cho Đại Ngụy, tôi chỉ mong chăm sóc mẹ và em thật tốt, nhưng ngài vẫn cứ dung túng Lý Huyền Trinh dồn ép tôi."

Lý Trọng Kiền liếc mắt, "Phụ phụ tử tử, Quân quân thần thần, xương thịt thân này vốn là ngài ban cho, ngài muốn gϊếŧ thì gϊếŧ, tôi không còn muốn sống từ lâu rồi... Nhưng vì sao các người lại động vào Minh Nguyệt Nô? Vì cái gì chứ? Nó làm sai chỗ nào?! Lúc nó bị đưa đi, mới mười bốn tuổi thôi!"

"Mười bốn tuổi! Từ nhỏ nó đã không thể dứt uống thuốc, tôi không nỡ để nó khổ một chút, chỉ muốn nó gả cho một tấm chồng tốt, sau này cắt đứt quan hệ với tôi, không bị tôi liên lụy... Tôi chỉ muốn nó bình an vui vẻ... Mà ông ngay cả nó cũng không buông tha! Ngay cả nó cũng không buông tha!"
Không ai trả lời.

Trịnh Cảnh nhìn Lý Trọng Kiền con mắt đỏ ngầu, ý lạnh từ lòng bàn chân chạy lên, ngã ngồi trên đất, trợn mắt: "Ngài điên rồi! Ngài điên rồi! Lý Trọng Kiền, ngài điên rồi!"

Lúc nhìn Lý Trọng Kiền xuống xe ngựa, cậu nghi đối phương cố ý yếu ớt giấu mình. Cậu không vạch trần, lúc bẩm báo lên còn dặm mắm thêm muối tăng thêm bệnh tình, nhưng muôn lần không ngờ mục đích của Lý Trọng Kiền không phải muốn ẩn dật, hắn chỉ muốn một phát liều chết, hắn đã hoàn toàn đánh mất lý trí, mặc kệ tất cả!

"Nhị Lang, ngài điên thật rồi!"

Lý Trọng Kiền câu khóe môi, liếc mắt phượng rất quỷ mị: "Phải, ta điên rồi."

Từ giây phút cả nhà Tạ gia cả nhà hủy diệt hắn đã điên rồi, trong lòng cha hắn chỉ có một đứa con trai là Lý Huyền Trinh, Cậu chết, Mẹ điên, không nhận hắn, trong vòng một đêm hắn mất đi tất cả, quỳ gối trước linh đường, không ăn không uống.
Cậu hắn là anh hùng, anh hùng luôn bị bỏ rơi lãng quên, lòng hắn mù mịt, không biết đi đâu.

Cả ngày Dao Anh ba tuổi quấn lấy hắn, cùng hắn túc trực bên linh sàng Tạ Vô Lượng. Khi đó em ấy còn chưa bước đi được, mỗi ngày ỷ lại cạnh hắn, muốn hắn ôm, nho nhỏ mũm mĩm, cuộn trong ngực hắn, móc một miếng bánh Hồ nướng đút tới môi hắn: "Anh, ăn."

Lý Trọng Kiền cúi nhìn đứa em gái trong lòng và bánh nó giơ trong tay, rơi nước mắt, rưng rưng ăn hết miếng bánh.

Dao Anh gọi thần trí hắn về, cho hắn lý do sống tiếp, anh em nương tựa nhau, mới không thành kẻ điên.

Còn giờ, Tiểu Thất của hắn không còn. Vì hóa giải nguy cơ cứu hắn mà phải bắt buộc giao dịch với Lý Huyền Trinh.

Lá gan Tiểu Thất rất nhỏ, lười biếng yếu đuối, thích làm nũng hắn, lúc hắn hôn mê, mình em ấy lo liệu gánh vác hết cả, gả đi Diệp Lỗ cho lão tù trưởng sáu mươi tuổi, chết trong tay người Bắc Nhung...
Ngày trưởng sử khóc báo lại cho hắn, tựa như cầm một thanh đao rỉ sét từng chút từng chút khoét thịt hắn.

Lý Trọng Kiền đau.

Tim gan bị móc đi, khắp người trên dưới, từ da thịt đến tim phổi, cả người đều rất đau.

Dao Anh có sợ không? Mảnh mai thế kia, rời xa Trung Nguyên... Hắn vốn không có dũng khí tưởng tượng em đã khổ chừng nào!

Lý Trọng Kiền đã từng nghĩ, nếu mình chết, mẹ và Dao Anh sẽ an toàn. Nhưng hắn có Tiểu Thất làm bạn, không nỡ chết! Hắn muốn chăm sóc em thật tốt, xem em lớn lên, đưa em xuất giá, Tiểu Thất của hắn đáng giá những thứ tốt nhất trên đời.

Tiểu Thất không còn. Không còn ai ngăn được hắn nổi điên.

Đáy mắt Lý Trọng Kiền ngày càng đỏ.

Trịnh Cảnh khàn giọng hét: "Vệ Quốc Công! Ngài kế thừa họ Tạ gia! Hôm nay nếu người lỡ tay, chắc chắn sẽ gây hận thiên cổ! Thanh danh trăm năm của Tạ gia hôm nay hủy trong tay ngài! Ngài đặt Đại Ngụy ở đâu! Đặt dân chúng thiên hạ ở đâu?"
Lý Trọng Kiền cười châm chọc. "Dân chúng? Giang sơn? Liên can gì đến ta?"

Hắn đứng trong vòng vây không một kẽ hở, mặt không cảm xúc. "Tiểu Thất của ta mất rồi, ta chẳng cần để ý gì nữa hết."

Hắn không phải Cậu, cũng không phải Dao Anh, hắn không muốn quan tâm chết sống của người khác, chỉ muốn chăm sóc em hắn thôi.

Lý Trọng Kiền cười lạnh, trên tay dùng sức. "Coi như toàn bộ Đại Ngụy chôn cùng Minh Nguyệt Nô đi, thì sao chứ?"

Trịnh Tể tướng nghe xong, biết Lý Trọng Kiền đã hoàn toàn điên, ra hiệu với Kim Ngô Vệ, chậm rãi nhắm mắt, vẻ xót xa.

Cung thủ giương cung, chờ vạn tên cùng bắn, Kim Ngô Vệ nhìn thấy Lý Trọng Kiền không có vũ khí trong người, tìm đúng thời cơ, cùng tiến lên.

Tiếng kêu la quát tháo loạn xị. Cung thủ sợ ngộ thương người, vội vàng lùi ra sau.

Trịnh Tể tướng nhào đến Lý Đức, thấy ông bị ghìm đến hai mắt trắng dã ngất đi, không biết sống chết, run cả người.
Hoàng Thái tử hồn vía lửng lơ, Vệ Quốc Công ngang nhiên gϊếŧ cha, nếu lúc này Thánh thượng băng hà, chắc chắn Đại Ngụy phát loạn!

Đám đại thần ở một bên, lòng như lửa đốt.

Thái y vội vàng chạy tới kiểm tra thương thế, đập vào ngực mấy phát. Từ từ Lý Đức ô ô mấy tiếng tỉnh lại, ánh mắt dần dần khôi phục vẻ tỉnh táo, được Kim Ngô Vệ đỡ ngồi dậy.

Cả đám chưa tỉnh hồn, quỳ dập đầu sơn hô vạn tuế. Có kẻ vui đến phát khóc ra tiếng.

Mặt Lý Đức trầm như nước, đã qua được không ít sóng to gió lớn vậy mà suýt lật thuyền trong mương. Ông không ngờ Lý Trọng Kiền bị thương thế kia còn có gan ra tay trước mặt mọi người.

Một trận sóng gió phát sinh trong chớp mắt, cũng kết thúc trong chớp mắt, quan cấp thấp ngoài điện còn chưa kịp phản ứng, thấy mấy đại thần mới ra khỏi đại điện, chưa kịp nghe ngóng đã thôi sóng gió.

Mấy tên thái y bắt mạch lần nữa cho Lý Trọng Kiền, nhỏ giọng thảo luận mấy câu, bẩm báo Lý Đức: Lý Trọng Kiền đúng là đã mất hết võ công. Vừa rồi không phải hoàn toàn là diễn trò.

Nhóm Tể tướng lặng thinh không nói. Mấy năm nay không ít kẻ ám sát Lý Đức nhưng chưa ai làm Lý Đức bị thương thật sự. Lý Trọng Kiền mất hết võ công lại dám ám sát ngài, dùng cách thức thí mạng cùng chết! Hắn biết rõ thất bại vẫn liều chết thử một lần, khí thế đột nhiên bộc phát, không phải hắn cố ý giấu diếm từ trước mà chỉ bộc phát trong khoảnh khắc, hắn đang liều mạng!

Dù gì Văn Chiêu công chúa cũng là em ruột hắn!

Trịnh Tể tướng thở dài, đưa mắt ra hiệu Kim Ngô Vệ tranh thủ đưa Lý Trọng Kiền ra ngoài. Mấy đại thần khác nhìn với ánh mắt trách cứ: Vệ Quốc Công dám can đảm hành thích quân, ông còn muốn bao che Vệ Quốc Công à?
Trịnh Tể tướng nhìn cả đám, im lặng phun ra hai cái tên.

Tạ Vô Lượng, Lý Dao Anh.

Vì Tạ gia, vì Văn Chiêu công chúa, giữ lại mạng Lý Trọng Kiền đi.

Đám người yên lặng, dời tầm mắt, ngầm cho phép, chuyển sang người Thái tử Lý Huyền Trinh.

Lý Huyền Trinh đứng ở một bên, từ đầu tới đuôi tỏ vẻ không liên quan, như không để ý chút nào đến sống chết của Lý Đức.

Cả đám thở dài, tự suy nghĩ.

...

Lý Đức không xử lý Lý Trọng Kiền tại chỗ. Hắn bị Kim Ngô Vệ mang đi, quăng vào ngục.

Hai ngày sau, Trịnh Cảnh sang thăm: "Trong triều rất nhiều đại thần cầu tình cho ngài."

Tạ gia cả nhà anh liệt, Văn Chiêu công chúa hương tiêu ngọc vẫn, Lý Trọng Kiền vì Đại Ngụy Nam chinh Bắc chiến, mất hết võ công, đại thần khuyên Lý Đức mở một mặt lưới, giải thích vì mất em gái mà hắn nhất thời khống chế, về tình có thể hiểu.
Hiếm thấy Đông cung yên tĩnh như lúc này, không thừa cơ bỏ đá xuống giếng.

Trịnh Cảnh đuổi ngục tốt đi, hỏi nghi vấn trong lòng: "Nhị Lang, lúc đó ngài thật sự muốn ám sát Thánh thượng à?" Kim chùy còn không nâng nổi, trước khi vào cung dự tiệc phải qua kiểm tra, người không có vũ khí, làm sao dám làm ra chuyện như vậy? Cung thủ mà vạn tên cùng bắn, chỉ một chốc đã biến thành cái sàng! Cha Lý Đức lại giỏi võ công, co chân đã đá văng hắn.

Lý Trọng Kiền đang nằm trên đống cỏ khô, mặt vô cảm: "Nếu thành công thì cùng chết."

Giọng rất bình thản, không thèm để ý nếu thật sự thành công sẽ thay đổi kinh thiên thế nào.

Trịnh Cảnh hít sâu một hơi, Lý Trọng Kiền muốn gϊếŧ cha thật! Cậu yên lặng mãi thật lâu, mới nói: "Nhưng ngài thất bại rồi."

Lý Trọng Kiền cười lạnh: "Tam Lang, ngươi cho rằng ta thật sự giấu tài thì họ sẽ buông tha à?"
Mắt Trịnh Cảnh lấp lánh. Nhà Đế vương là vô tình nhất.

Văn Chiêu công chúa đã chết, Lý Đức biết Lý Trọng Kiền không thể bỏ thù hận, cho dù là hắn cố che dấu hay là phát điên như đêm qua, Lý Đức cũng sẽ không giữ lại tai hoạ ngầm này. Quân vương đa nghi, Lý Đức bằng mọi giá sẽ vì Lý Huyền Trinh mà dọn sạch mọi chướng ngại, tránh khi Lý Huyền Trinh đăng cơ thời cuộc rung chuyển.

Lý Trọng Kiền rất rõ lòng nhạt nhẽo của Lý Đức, Lý Đức cũng biết rõ tính hắn, nếu hắn thật sự giấu tài, Lý Đức không chỉ không buông cảnh giác mà ngược lại sẽ càng thêm lo lắng, lập tức ra tay diệt trừ.

Lý Huyền Trinh đến cùng là người giữ chữ tín, không vội vã hãm hại hắn, Lý Đức vẫn không yên lòng, vội vã triệu hắn hồi kinh muốn thăm dò hắn.

Không bằng hắn đánh cược một lần. Kết quả xấu nhất cũng chỉ là trả bằng mạng mình thôi.
Giờ hắn đâu còn thứ không thể mất.

Trịnh Cảnh sâu kín thở dài: "Ngài đã nếm thử rồi, sau này đừng có ý nghĩ vậy nữa, bệ hạ dám thả ngài hồi kinh thì không sợ ngài ám sát đâu. Từ đường của Văn Chiêu công chúa mới vừa vặn dựng lên không lâu, lần này tạm thời bệ hạ không dám lấy tính mạng ngài... Nhị Lang, sau này ngài tính thế nào?"

Lần mạo hiểm này, trái lại Lý Đức sẽ thả lỏng hơn với Lý Trọng Kiền, một hoàng tử không ổn định thì dù sao vẫn dễ đối phó hơn kẻ tâm cơ thâm trầm, nhưng ông ta cũng không thể phớt lờ.

Lý Trọng Kiền nhìn đỉnh tường gạch lao thất ẩm ướt: "Tam Lang, chuẩn bị cho ta lương khô xe ngựa."

Trịnh Cảnh ngơ ngẩn: "Ngài muốn đi đâu đấy?"

Lý Trọng Kiền bình tĩnh nói: "Đi Hà Lũng. Ta sẽ xin đi đòi lại Hà Lũng."

Lý Đức sẽ thuận nước đẩy thuyền đồng ý.
Trịnh Cảnh nhíu mày: "Nhị Lang... Văn Chiêu công chúa đã không còn, người Hồ tận mắt nhìn thấy, giờ Hà Lũng bị Bắc Nhung xâm chiếm, tình thế nghiêm trọng."

Lý Trọng Kiền nói khẽ: "Con bé có chết ta cũng phải đem về, nó nhát gan, luôn sợ hãi, ta muốn đem con bé về nhà. Ta đã đồng ý với con bé, dù nó ở đâu ta cũng sẽ tìm tới."

Trịnh Cảnh thấy Lý Trọng Kiền đúng là vô cùng hão huyền: Ở tái ngoại mênh mông tìm xác một người, sao tìm được? Cậu không biết nên khuyên thế nào, nghĩ đến Thất công chúa chết ở tái ngoại, ngực cậu như bị kim đâm, đau râm ran. Lý Trọng Kiền là anh ruột của Thất công chúa hẳn còn đau đớn hơn nhiều.

Nhưng Lý Trọng Kiền tìm bằng cách nào đây?

"Võ công của ngài..." Trịnh Cảnh muốn nói lại thôi.

Lý Trọng Kiền không đổi sắc: "Cầm không nổi kim chùy thì ta có thể đổi qua cầm trường đao, dùng đoản kiếm, dùng thương... Ta đã từng bỏ võ theo văn, lại bỏ văn theo võ, tổn thương của mấy cây tiễn độc không hủy được ta." Trước khi tìm được Tiểu Thất, hắn sẽ không ngã xuống.
Trịnh Cảnh thở thật dài. Dù cậu khuyên can nhiều ít, Lý Trọng Kiền không nghe vào, cậu không cách nào ngăn cản Lý Trọng Kiền đi tái ngoại.

Thư Lý Trọng Kiền thỉnh tội rất nhanh đến, dân gian bá tánh nghe nói hắn muốn đi Hà Lũng tìm xác Lý Dao Anh, không tới mấy ngày đã tập hợp thư vạn ngôn, xin đồng hành cùng.

Lý Đức triệu Lý Trọng Kiền hồi kinh, vốn để giam cầm đứa con trai này, thấy dân ý sôi trào, cân nhắc lại, bỏ đi ý nghĩ này.

"Nó thật sự muốn đi Hà Lũng?" Lý Đức nửa tin nửa ngờ.

Trịnh Tể tướng trả lời: "Vô cùng chuẩn xác."

Lý Đức nhìn tích ung nghiên* trên bàn, ngẩn một hồi, nói: "Thôi được."

Mấy hôm sau, Lý Trọng Kiền mang theo mấy thân binh, dưới áp giải của binh sĩ rời Trường An.

Trưởng sử tiễn đưa hắn, khóc nói: "Lão nô sẽ chăm sóc tốt cho nương tử, Nhị Lang, ngài mau về nhé! Dù có tìm được Thất Nương hay không ngài cũng phải về! Lão nô luôn chờ ngài!"
Lý Trọng Kiền đuổi Trưởng sử, ghìm ngựa trước đường núi, ngoái nhìn thành cung đồ sộ phía Đông Bắc.

Đáng tiếc thật, hắn chưa khỏi hẳn, nếu không đêm đó đã có thể bóp chết Lý Đức.

Nếu đêm đó không ra tay, tiếp tục ẩn núp, thực ra có thể tìm được thời cơ thích hợp hơn. Nhưng hắn không đợi được lâu như vậy, từ lúc tỉnh lại tới giờ đã trôi qua quá lâu.

Tiểu Thất trơ trọi ngoài kia, hắn muốn đón con bé về nhà trước đã. Đợi tìm được Tiểu Thất, hắn sẽ quay lại báo thù.

Hắn đã đâm thủng cảnh giả tạo phụ từ tử hiếu giữa Lý Đức và Lý Huyền Trinh, trước mắt cứ để họ ngờ vực lẫn nhau, phụ tử tương tàn, đợi khi hắn về, hắn muốn tất cả phải trả giá đắt!

Roi ngựa Lý Trọng Kiền phi qua cầu sông Bá sương khói bóng liễu nhẹ bay, cũng không quay đầu lại đi thẳng về hướng Tây.
Tiểu Thất, đừng sợ, anh tới đón em.

...

Tám ngàn dặm ngoài xa, Vương Đình.

Ban ngày gặp phải Hải Đô A Lăng ở Phật Tự, Dao Anh cả đêm ngủ không ngon.

Trong mơ, một thanh niên mặc ngân giáp, áo khoác ngắn tay mỏng bào trắng phi xuống sườn núi, vì chính nghĩa không lùi bước phóng tới trận địa địch Bắc Nhung đầy giáp đen.

Thanh niên bị bao hãm giữa trùng vây, kiệt lực mà chết, chiến bào rách nát.

Tướng lĩnh đối phương thúc ngựa đi đến trước trận, dưới ánh mặt trời, một đôi mắt dài nhỏ hiện ra ánh màu vàng nhạt.

"Anh à! Đừng đi, đừng đi... Đừng gặp phải Hải Đô A Lăng..."

Dao Anh giật mình tỉnh lại, cả người run rẩy.

Nàng đã thay đổi vận mệnh của Lý Trọng Kiền, hai năm trước, đáng nhẽ anh đã chết dưới tay Hải Đô A Lăng trong lúc đối địch, khi đó, nàng nghĩ cách đưa anh tránh đi tái ngoại.
Giờ đây, anh đang tìm đến mình, không biết anh có cho là mình còn ở doanh địa của Hải Đô A Lăng mà trực tiếp đi Bắc Nhung tìm không?

Dao Anh đứng dậy rửa mặt.

Nàng phải sớm thả tin mình đang ở Vương Đình, sớm trở lại Trung Nguyên.

Ngoài cửa sổ líu ríu tiếng nói chuyện, thân binh lại sáng sớm luyện quyền. Dao Anh nghe tiếng đùa giỡn, cười cười, đẩy cửa sổ.

Tạ Bằng, Tạ Xung lập tức như ong vỡ tổ xông lên hành lang, mồm năm miệng mười nói: "Công chúa, hôm qua ở đại hội tranh biện kinh Phật, Pháp sư thắng!"

Dao Anh đã đoán trước rằng Đàm Ma La Già sẽ thắng, không hề bất ngờ.

Tạ Xung vỗ tay cười nói: "Hải Đô A Lăng Bắc Nhung cố ý mang theo mười cao tăng đến, từ giữa trưa đến tối, mười mấy người thay phiên biện luận với Pháp sư, Pháp sư vẫn là thắng!"

Họ không đi xem biện kinh, chỉ hóng kết quả, lúc này tranh nhau kể lại từng trận cho Dao Anh như đã từng xem. Dao Anh tựa vào cửa sổ, nhìn họ sinh động kể chuyện Pháp hội rầm rộ như thật, dần bình tĩnh lại.
Đây là Vương Đình của Đàm Ma La Già, nàng không cần phải sợ.

Dao Anh tinh thần phấn chấn, hỏi Tạ Xung: "Có ai hỏi tới Pháp y của tăng nhân không?"

Tạ Xung gãi da đầu: "Hổng có."

Tạ Bằng duỗi đầu tới: "Công chúa, hay thay bằng cách khác?"

Dao Anh mỉm cười: "Không vội, Đại hội biện kinh chỉ vừa mới kết thúc mà."

Các thân binh vang dội đáp vâng, đang muốn tiếp tục kể chuyện Pháp hội với Dao Anh, thoáng thấy bóng cao lớn của Tạ Thanh xuất hiện trước hành lang, vo ve mấy tiếng nhảy ra ngoài sân tiếp tục luyện quyền, la đầy sân.

Dao Anh lắc đầu bật cười, hỏi Tạ Thanh: "Hỏi thăm rõ chưa?"

Tạ Thanh gật đầu, nói: "Hải Đô A Lăng là phó sứ của sứ đoàn Bắc Nhung, ở trong dịch quán thành Nam, cả đoàn có ba mươi hai người, chúng tới tham gia đại hội biện kinh. Ban đầu người được chọn làm phó sứ là người khác, đột nhiên đổi người."
Dao Anh nhẹ chau mày. Thảo nào A Sử Na Tất Sa không biết Hải Đô A Lăng sẽ xuất hiện.

Tạ Thanh nói tiếp: "Hải Đô A Lăng ra vào đều có người đi theo, không hề đi đâu một mình, cũng không có cử chỉ gì quái lạ."

Dao Anh mấp máy môi, quyết định trong khoảng thời gian sứ đoàn Bắc Nhung chưa đi sẽ không ra khỏi cửa.

Mỗi ngày Tất Sa tới thăm mời nàng ra ngoài chơi, nàng nói rõ lý do, Tất Sa đành thôi, sau mấy hôm, cao hứng bừng bừng tới: "Người Bắc Nhung đi hết rồi!"

Dao Anh vẫn không yên lòng. Hải Đô A Lăng đến Bắc Nhung một chuyến, chỉ để xem Phật học tạo nghệ của Đàm Ma La Già thôi ư?

Nàng tiếp tục sai Tạ Thanh đi nghe ngóng, mãi đến khi Thánh Thành không còn xuất hiện bóng người Bắc Nhung mới dám ngẫu nhiên cùng A Sử Na Tất Sa xuất cung lộ diện.

Hôm nay, người Dao Anh hi vọng cuối cùng đã tới cửa.
Tạ Xung kích động chân trái vấp chân phải, xông vào sân vườn, lớn tiếng: "Hôm nay có người hỏi thăm Pháp y hôm đó các sư Phật tự mặc này!"

Dao Anh thở hắt ra, "Tốt, trong kho Vương cung còn mấy xe tơ lụa, bán được rồi."

Đại hội biện kinh người như nêm, là một sự kiện lớn ở Thánh Thành, các sư ở Pháp hội mặc Pháp y của nàng tặng, mấy quý khách các thành bang nhìn thấy chói mắt, đẹp đẽ óng ánh, hẳn phải hỏi thăm chỗ cắt may.

Dao Anh chờ chính là hôm nay.

* Mai: Dao Anh: Thật ra mượn La Già quảng cáo hiệu quả còn tốt nữa, ngài mặc thứ gì lập tức bán hết!

Tất Sa: Vậy sao không đi xin Vương hỗ trợ?

Dao Anh: Tà tâm thì có, tặc đảm thì hơm.

Hòa thượng: Lá gan nàng rõ ràng đâu có nhỏ...

-----------CHƯƠNG 52---------------

Ánh bình minh vừa hé rạng, mạ vàng rực rỡ cho núi tuyết trùng điệp nơi chân trời, cánh ưng lướt qua bầu trời xanh thẳm quang đãng, để lại bóng nhạt như mây bay, chuông sớm vừa mới vang lên ba lần, phố chợ phía Nam Thánh Thành đã náo nhiệt, người người nhốn nháo, rộn ràng.
Dao Anh mặc bộ váy sa rực rỡ hoa văn quyển thảo hình thú đối xứng, lụa che trên mặt, cùng A Sử Na Tất Sa đi vào phố chợ.

Đường sá phố chợ không gọi là dài, nhưng khách buôn tụ tập, hai bên cửa hàng chen chúc, san sát nối tiếp nhau, trong màn trướng xanh xanh đỏ đỏ người đứng đầy, thật không tìm được chỗ chen chân, các thương lái lui tới khác biệt màu da, khác biệt ngôn ngữ, y phục cũng khác, đến từ các bộ tộc khác nhau, hàng hóa các nước Tây Vực cùng tụ tập bán ở đây, so với phố chợ Trường An là một loại phồn hoa náo nhiệt rất khác.

Tiếng người ồn ã, trong tiếng rao hàng bằng tiếng Túc Đặc, tiếng Hồ xen lẫn âm lục lạc trong trẻo.

Dao Anh vừa đi, vừa quan sát kỹ, mấy cửa hàng mua bán phần lớn là châu báu, da lông, hương liệu, tơ lụa, thảm nỉ, rực rỡ muôn màu, tất cả đều đẹp sắc sảo, nhìn hoa cả mắt. Có điều nàng phát hiện hàng hóa đến từ Trung Nguyên cũng không nhiều.
A Sử Na Tất Sa giải thích: "Con đường mua bán thông về hướng Trung Nguyên không chỉ núi non trùng điệp, sa mạc trải rộng, đường đi gian nguy, mà còn chiến tranh liên tục mấy năm gần đây, nên nó sớm đã bị bỏ hoang, mấy đội buôn bình thường không dám tùy tiện mạo hiểm. Dân buôn ở đây phần lớn đến từ ba đường, đường phía Bắc vượt qua Thiên Sơn, qua Toái Diệp Thành*, Khang quốc, Sử quốc, Lạp Y, tận cùng là Phật Lâm, phía Tây nửa đường dọc theo sa mạc biên giới phía Tây, từ Quy Tư, Sơ Lặc đến Kiền Đà La, lại lên Khang Quốc phía Bắc hoặc xuống Thiên Trúc phía Nam, đường phía Nam dọc theo sa mạc Nam Duyên, qua Lâu Lan, Lại Mạt, Vu Điền, Sa Xa, đến Sơ Lặc."

"Sau khi đến Thiên Trúc, một số thương nhân xuôi Nam, xuôi theo Nữ Thành, Vương Xá Thành, tới Thổ Phiên, hoặc theo Phiêu Quốc tới Vĩnh Xương, là đến được Nam Cảnh Trung Nguyên. Một số khác theo đường biển, vòng qua Thiên Trúc, trải qua mấy tháng đổi chác với thương nhân Trung Nguyên trên biển, mấy nhà buôn đó phần lớn đến từ phía Nam Trung Nguyên như Quảng Châu, Minh Châu, Dương Châu."
Dao Anh nghe thấy cảm khái không thôi.

Ba tuyến đường Tất Sa vừa nói thật ra hoàn toàn trùng với tuyến đường phía Tây của con đường tơ lụa xưa kia, chỉ là đoạn xuất phát từ Trường An Trung Nguyên đến Đôn Hoàng, Ngọc Môn quan bị cắt đứt, vì Trung Nguyên đã mất khống chế với vùng sông Lũng từ lâu, đoạn đường bị trở ngại không còn lưu thông qua lại.

Mấy nhà buôn không sợ gian nguy, xuyên qua Đại lục Đông Tây mênh mông sa mạc và liên miên núi tuyết, xuyên qua chân trời, lui tới Trung Nguyên và Phật Lâm, đương nhiên không vì đường đi cách trở mà nhụt chí, khi ngành đóng tàu lớn mạnh, càng ngày càng nhiều nhà buôn lựa chọn thuyền có tải trọng lớn, chi phí thấp đi đường biển để trao đổi lưu thông hàng hoá.

Tuyến đường buôn bán trên biển xuất phát từ các bến cảng ở Minh châu, Dương Châu, Tuyền Châu, Quảng Châu Trung Nguyên, qua Nam Hải, qua Ca La Phú Sa La*, đến Tây Thiên Trúc, chuyển sang đường bộ đến Tây Vực, Ba Tư, xa nhất đến Phật Lâm, Jerusalem, được hậu thế gọi là con đường tơ lụa trên biển.
*tên nước cổ, Nam vịnh Thái Lan – đến bán đảo Cara, Kalah Malaysia – đoạn đường với mấy tên địa danh phiên âm mình chịu chết, nhìn bản đồ áng man mán.

Dao Anh nghe Lý Trọng Kiền nhắc qua, hàng từ Trung Nguyên vận chuyển về phía Tây chủ yếu là đồ sứ, trà, tơ lụa, đồ đồng đồ sắt, đem về Trung Nguyên là hương liệu hoa cỏ quý hiếm, bảo vật quý hiếm, mớ hàng đó thường vừa tới bến cảng đã bị thế gia quý tộc Nam Sở giành mua hết sạch, Nam Sở giàu có sung túc cũng là điều dễ hiểu.

Lúc đó Lý Trọng Kiền còn nói đùa, nếu hắn đánh hạ đô thành Nam Sở, chắc chắn sẽ đưa nàng dạo khố phòng hoàng cung Nam Sở.

Dao Anh ngây ra một lúc, tiếp tục quan sát phố chợ Thánh Thành.

Ngõa Hãn Khả Hãn Bắc Nhung muốn nhất thống Tây Vực phải đánh hạ Vương Đình, bảo đảm các chư quốc ven đường phía Bắc phải bị Bắc Nhung khống chế, nhưng chỉ cần Đàm Ma La Già giữ vững Vương Đình, Ngõa Hãn Khả Hãn sẽ không lấy nổi Bắc Tây Vực. Trong lúc hai nước giằng co, mấy nước nhỏ như Cao Xương, Yên Kỳ mới có không gian thở dốc.
Mà sự phồn vinh của Cao Xương phụ thuộc rất lớn vào thông suốt của tuyến đường buôn bán. Từ điểm này có thể thuyết phục Uất Trì Vương tộc Cao Xương đồng ý kết minh.

Hàng hóa ở phố chợ rất đa dạng phong phú.

Dao Anh vừa trầm tư vừa đi dạo, thấy thảm nỉ Ba Tư, đèn lưu ly Phật Lâm, răng Phật Thiên Trúc, rượu nho Cao Xương, còn có kinh thư Ai Cập dùng kim nê* để viết.

*bột vàng trộn với thủy ngân

Tạ Thanh, Tạ Bằng Tạ Xung đi bên cạnh, mắt không theo kịp. Tạ Bằng bắt gặp Dao Anh nhìn chằm chằm một cửa hàng của một nhà Túc Đặc treo màn gấm, lập tức móc tiền ra: "Công chúa muốn mua gì?"

Dao Anh lắc đầu, nói: "Hôm nay không phải tới mua đồ." Tạ Bằng ngơ ngác.

Thời tiết nóng dần, khí hậu Vương Đình rất thích hợp trái cây sinh trưởng, khắp nơi có xe trái cây được người Hồ đẩy đi bán, cả nhóm mua ít trái cây, xuyên qua phố chợ tới một đình viện xây bằng gạch mộc ngoài thành.
Trong viện đám người Hán từ già đến trẻ, tất cả ra đón, quỳ trên mặt đất khóc ròng.

Một lão giả râu ria hoa râm khóc nói: "Ơn cứu mạng của công chúa không thể báo đáp, nguyện làm trâu làm ngựa cho ngài."

Dao Anh ra hiệu Tạ Bằng đỡ lão dậy, nhìn quanh một vòng. Nam nữ già trẻ trong viện đều lộ vẻ chờ đợi nhìn nàng.

Đám người xanh xao vàng vọt, quần áo tơi tả, là nô ɭệ người Hán đợt đó nàng mua lại từ gã buôn người người Hồ. Trong số họ có người nguyên quán Hà Tây, có người sinh ở Tây Vực, hoặc chuyển đến Tây Vực, khi Tây Vực chia năm xẻ bảy, họ thành dân đen, cảnh ngộ bi thảm, bị bắt cóc đến tận đây buôn bán.

Lão giả lau khô nước mắt, hỏi ra kỳ vọng của trong lòng tất cả mọi người: "Công chúa, Hoàng đế Trung Nguyên muốn phát binh thu Hà Tây và Bắc Đình sao?" Mọi người ngẩng nhìn Dao Anh, mắt như có hai ngọn lửa cháy hừng hực.
Dao Anh lắc đầu: "Trước mắt Trung Nguyên không có năng lực đó."

Ánh sáng trong mắt lão giả trong mắt lu mờ trong nháy mắt.

Dao Anh nhìn đám người, cất cao giọng, vẻ nghiêm nghị: "Có điều Trung Nguyên chưa hề quên con dân của mình, văn võ đại thần trong triều đều chờ đợi sớm ngày giành lại đất cũ, Đại Ngụy đã bình định Trung Nguyên, sẵn sàng dùng người tài, chuẩn bị binh mã, nhất định thu phục non sông không xa!"

Nghe đến, lão giả lại kích động: "Công chúa nói đúng lắm, chúng ta đã chờ nhiều năm như vậy, nhất định sẽ chờ được đến ngày về Đông!"

Cả đám rưng rưng gật đầu phụ họa.

Tạ Bằng đem mớ trái cây chia xuống, họ vô cùng cảm tạ, dập đầu trước Dao Anh. Lão giả là người duy nhất trong số họ biết đọc, Tạ Xung đưa danh sách ông viết cho Dao Anh xem qua.

"Công chúa, tất cả chỗ này có 111 người, năm mươi mốt nam, sáu mươi nữ, phần lớn già yếu tàn tật, không kiếm sống được mới bị bán đổ bán tháo."
Dao Anh xem hết danh sách, gật đầu.

Tạ Xung hỏi: "Công chúa, chúng ta thu xếp cho họ sao đây? Cùng đưa về Trung Nguyên ạ?"

Dao Anh đứng trên bục cao, nhìn cả đám ôm thức ăn ăn như hổ đói, nhẹ chau mày. "Chúng ta muốn về Trung Nguyên cũng không thể đưa họ theo cùng mạo hiểm. Sau này hẳn chúng ta còn cứu nhiều người nữa, chúng ta đi đâu, họ đi đó hay sao?"

Tạ Xung gãi đầu, đúng thật khó giải, họ không thể đưa những người Hán này đi theo cùng, hơn một trăm người công chúa còn nuôi nổi, số lượng sau này càng lúc càng tăng, cũng không thể dựa vào một mình công chúa?

Dao Anh chậm rãi nói: "Cho người con cá không bằng cho người cần câu. Hỏi rõ ràng từng người họ ai biết nghề gì, nhuộm, thêu, mộc, hay biết chữ,... Chỉ cần thành thạo một nghề là được, không biết cũng không cần gấp, có thể học từ bây giờ, ai không khỏe thì ở nhà chăm sóc con nít người già."
Tạ Xung vâng lệnh, hỏi: "Công chúa muốn giúp họ tìm công việc ạ?"

Dao Anh lắc đầu: "Giúp họ tìm việc họ vẫn sẽ bị ức hϊếp. Ta đã nhờ Tất Sa hỗ trợ mua hai gian bán hàng tơ lụa, trước tiên giao cửa tiệm cho mấy người này kinh doanh. Hôm nay ta đã nhìn qua phố chợ một vòng, gấm vóc Trung Nguyên ở đây bán hoa văn đã là kiểu dáng mấy năm trước, không mới mẻ sắc sảo như của chúng ta."

Tạ Xung bừng tỉnh: Hèn gì công chúa đưa tơ lụa cho hoà thượng Phật Tự!

Pháp hội qua đi, quý tộc Vương Đình nghe ngóng khắp nơi chỗ mua lụa từ đám Hồ thương, Tất Sa thả ra tin tức, nói gấm vóc tinh xảo ấy đến từ Trung Nguyên, mấy ngày nay dân buôn người Hồ đến đây nghe ngóng hỏi giá nhiều như cá diếc sang sông, một cây lụa trăm tiền đều không đủ bán.

Tạ Xung nghi hoặc hỏi: "Sao công chúa không trực tiếp bán cho quý tộc Vương Đình?"
Trong đồ của công chúa không thiếu lá trà, tơ lụa, châu báu, là những mặt hàng hiếm cực kỳ bán chạy ở Tây Vực, công chúa chỉ tặng một phần sách kinh, tượng Phật vàng ngọc, tơ lụa qua Phật Tự, số còn lại vẫn ở khố phòng. Quý tộc Vương Đình ưng loại tơ lụa này, sao không trực tiếp bán cho quý tộc mà phải mua cửa hàng rồi bán lại?

Dao Anh giải thích cho cậu: "Dù sao chúng ta cũng là kẻ bên ngoài mới đến, trực tiếp bán cho quý tộc, thứ nhất là đắc tội với các nhà buôn ở đây, thứ hai là định giá không tốt, dễ bị người ghen ghét. Nên theo quy củ ở đây, bớt đi thị phi lại có thể tìm chút việc làm cho đám người này sau này có rời đi, họ cũng có kiếm được cơm no bụng."

Đồ cưới quá bắt mắt lại không tiện mang theo, phải nhanh chóng bán đi, nhưng không thể trực tiếp bán ra từ chỗ nàng. Tây Vực khác với Trung Nguyên, quý tộc các nước ở đây lớn mạnh, nắm giữ việc buôn bán, không cẩn thận tí là đắc tội đại quý tộc, đến lúc đó mua bán không thành mà còn chuốc họa, chi bằng hợp tác với họ, lưng tựa gốc đại thụ lớn hóng mát, còn phòng ngừa được tranh chấp, lưu một đường lui về sau.
Đám Tạ Xung, Tạ Bằng nhìn nhau, nói: "Vẫn là công chúa nghĩ chu đáo!" Họ cứ tưởng chỉ cần bán đổi hàng hóa kia thành vàng bạc là được.

Dao Anh gọi lão giả đến hỏi: "Lúc xưa các người làm nghề gì?"

Lão giả cung kính nói: "Hồi công chúa, bọn ta làm mỗi nghề một chút! Trồng cây, nuôi bò dê, quét phân dê, dệt lông cừu, cắt lông dê, bện thừng, dệt gấm!"

Vương Đình mặc dù nằm sâu sa mạc nhưng có nước từ núi băng chảy xuống tưới đều, có mảnh đất lớn màu mỡ và nông trại, trồng cây hoa quả, giống như Cao Xương có vườn nho lớn, dê bò thành đàn trên sườn núi. Lão giả từng là người chăn thả cho chủ, lúc vụ mùa bận rộn còn giúp dệt lông cừu.

Dao Anh nói qua việc mở tiệm tơ lụa, "Ta sẽ mời người Hồ hỗ trợ quản lý cửa hàng, ông chọn ra mấy người biết viết tới hỗ trợ cửa hàng, ai khéo tay đi học nghề rồi mở xưởng, ta mang từ Trung Nguyên đến không ít hoa văn, đủ để các ngươi dùng nhiều năm."
Lão giả từng làm quản sự, nghe qua lập tức hiểu Dao Anh đang tính toán tương lai cho họ, kích động nước mắt tuôn đầy, quỳ xuống dập đầu.

Dao Anh nhìn ra lão giả rất có tiếng nói trong nhóm, cười khẽ: "Hiện chỉ là hai gian cửa hàng, các ngươi theo trông nom, đừng nóng lòng kiếm lời, trước mắt tìm cách sống yên phận đã."

Lão giả khóc gật đầu vâng lời, vẻ càng thêm cung kính.

Dao Anh hỏi: "Các ngươi từ đâu bị bán đến đây? Có bao nhiêu người Hán?"

Lão giả đáp: "Trong đám tụi tôi có người bị bắt từ Hà Tây, Sa Châu, Qua Châu, có người là người địa phương... người Hán mấy chỗ khác cũng giống bọn tôi làm việc cho quý tộc, có người là thuộc hạ của quý tộc, có thế gia đại tộc, thông gia với quý tộc."

Dao Anh trầm ngâm, hỏi: "Có ai trong số họ từng là đại tộc nắm giữ quân đội không?"
Lão giả ngẩn ra, lập tức hiểu ý Dao Anh, thoáng chốc nét mặt trở nên trang nghiêm, bái trước Dao Anh, đầu dập đất, vang ầm ầm.

"Lão hủ Tề Niên, chính là hậu duệ Tề thị Hà Tây, nguyện theo công chúa!"

Dao Anh cười cười, ra hiệu Tạ Xung đỡ lão dậy, không đáp.

Tề Niên không dám hỏi nhiều, khắp khuôn mặt không che giấu được sự phấn chấn cuồng nhiệt, nhỏ giọng nói: "Công chúa, các nơi vẫn có đại tộc lòng hướng về Trung Nguyên, còn có cả gia tộc bí mật huấn luyện nghĩa quân, để chờ khi vương sư đến có thể góp phần nào sức lực, tiếc rằng thực lực bọn họ chưa đủ khởi sự. Vương Đình thái bình thôi chứ các nơi khác đã bị chiếm cứ từ lâu, cách Sa Châu quá xa, tin tức không liên thông."

Dao Anh vẫn bình thường, nói: "Tinh hỏa liêu nguyên*."

*một đốm lửa có thể thiêu cháy thảo nguyên.
Nàng không ngừng chiêu mộ sức người, liên lạc đại tộc các nơi lòng nhớ nước nhà, thu nhận người lưu vong, lấy đồ cưới đổi tiền sung quân phí, mua thương nhân người Hồ, mời chào nhân thủ, lấy hình thức đội buôn lui tới các bộ lạc ở Tây Vực, họ không phải đối thủ của Bắc Nhung nhưng có tác dụng riêng, tỷ như hỗ trợ truyền tin. Dù thu nhận loại người gì, trước tiên, nàng phải chiêu mộ một đội vũ trang cho riêng mình để dựa vào. Chỉ với mấy người Tạ Thanh, khó mà thành sự.

Tề Niên nhìn Dao Anh, lặng yên hồi lâu, trong hai mắt đục ngầu dấy lên hai ngọn lửa, kinh ngạc, kính nể, kích động, hưng phấn từng thứ hiện lên, nhiệt huyết sôi trào khắp người. Ông đã nghe hộ vệ kể về lai lịch của công chúa, ngài lưu lạc Tây Vực, tự bản thân khó đảm bảo, vẫn không quên giải cứu đám dân đen họ, không chỉ thế, còn trù tính cho sau này, công chúa chính là cứu tinh của họ!
Nhất định là họ ngày đêm cầu nguyện cảm động thần Phật, thần Phật mới phái công chúa đến cứu vớt bọn họ.

Tề Niên lại quỳ rạp xuống dưới chân Dao Anh, nước mắt lưng tròng. Trong lòng ông có một dự cảm mãnh liệt: Chắc chắn công chúa có thể dẫn họ về quê hương! Người trong đình viện thấy thế, buông đồ ăn trong tay, đứng lên, từng người theo từng người quỳ xuống, như thuỷ triều, phủ phục quỳ trước mặt Dao Anh.

A Sử Na Tất Sa không giỏi tiếng Hán, từ sau khi vào đình viện, Dao Anh hết dặn dò từng thân binh, trấn an người già yếu, lại nói chuyện với lão giả, anh không tiện ra mặt, xa xa đứng một bên quan sát.

Đến khi tất cả mọi người trong đình viện quỳ lạy Dao Anh, anh ta không khỏi thu hồi vẻ lơ đễnh, thẳng tắp lưng, chăm chú nhìn vị công chúa người Hán lưu lạc đến Vương Đình.
Nàng đứng trước bậc, khóe môi mỉm cười, khí chất hoa lệ cao quý, đâu đấy giống hoa Tuyết Liên trên đỉnh Thiên Sơn.

Cao quý như thế, xa không thể với.

Tất Sa run sợ thật lâu.

Trên đường quay về, Dao Anh nhờ Tất Sa hỗ trợ nghe ngóng chỗ bán đất ở Vương Đình, đám Tề Niên giỏi làm nông, nàng muốn mua miếng đất, để mấy phụ nữ người già có việc làm kiếm ăn, cũng thuận tiện sắp xếp ăn ở.

Tất Sa đồng ý giúp nhưng kiên quyết không lấy thù lao.

Dao Anh cười nói: "Vậy thì không được." Nàng nhờ Tất Sa hỗ trợ, tự nhiên phải gởi thù lao.

Tất Sa bất đắc dĩ chịu thua, nói: "Công chúa thật quá khách khí, sao xa lạ với tôi vậy? Chúng ta là bạn bè, ngài còn là khách của Vương, sao tôi có thể nhận thù lao?"

Dao Anh cười nói: "Nếu đã như vậy, ta cũng không dám phiền Tướng quân hỗ trợ, ta nghe nói trong thành có rất nhiều người Túc Đặc làm chạy vặt."
Tất Sa nhìn khuôn mặt mỉm cười của nàng, tim đập như hươu chạy, không dám từ chối.

Trở lại phố chợ, Dao Anh đã nghe ngóng quy định phố chợ của Vương Đình, giao nộp một khoản tiền mua cửa hàng, thuê hai người Hồ lanh lợi quản lý, cửa hàng sẵn đã bán tơ lụa, cứ tiếp tục kinh doanh.

Nàng thả tin ra, mấy thương nhân tới hỏi luôn: "Tơ lụa của vị công chúa Trung Nguyên thật sự là chia cho tụi ta bán à?"

Chủ cửa hàng cười híp mắt gật đầu, nói: "Nhưng mà chư vị tới không khéo rồi, mớ tơ lụa kia đã bị mấy nhà Khang gia, Tiết gia đặt trước một số, còn lại không nhiều lắm."

Cả đám cả kinh, như ong vỡ tổ tràn vào, sợ chậm một bước bị người khác cướp hết phần tơ lụa. Còn lại một phần rất ít, họ để bán từ từ trong cửa hàng. Không lâu sau, nàng có thể đổi lấy tiền chiêu mộ nhân lực cho mình.
Tất Sa đưa Dao Anh về cung, rồi trực tiếp đi Phật Tự cầu kiến Đàm Ma La Già.

Phật đường yên tĩnh, La Già đang xem một cuốn kinh, bóng lưng thon gầy.

"Vương..." Tất Sa cởi bội đao, quỳ một gối xuống dưới hiên, trịnh trọng nói, "Tôi muốn cầu ngài một việc."

-----------CHƯƠNG 53---------------

Thiền thất được lau chùi sạch sẽ, bốn góc lớn sân vườn có mấy cây táo, cánh hoa trắng bạc đầy cành, từng chùm như hạt châu, ánh nắng trút xuống xuyên tán lá rậm ẩn lên bóng sáng nhè nhẹ.

Đàm Ma La Già không quay lại, ngón tay thon dài trắng trẻo tiếp tục lật sách kinh, người mặc cà sa bóng lưng gầy gò cứng cáp.

"Chuyện gì?" Chàng nhẹ giọng hỏi.

A Sử Na Tất Sa quỳ gối ngoài cửa, chần chừ đôi chút, mặt ửng đỏ, ưỡn ngực ngẩng lên, từng chữ nói: "Vương, tôi thích Văn Chiêu công chúa Đại Ngụy, nàng xinh đẹp, cứng cỏi, lại dũng cảm, tôi ngưỡng mộ nàng ấy, muốn bảo vệ nàng ấy, để nàng mỗi ngày có thể vui cười không lo không nghĩ."
Có cơn gió phớt qua đình viện, cành táo điểm đầy hoa khẽ đung đưa, tỏa hương thoang thoảng.

Đàm Ma La Già lặng thinh một lát, cụp mắt: "Tất Sa, Văn Chiêu công chúa là công chúa Đại Ngụy, không phải công chúa Vương Đình."

Tất Sa cười cười: "Tôi biết, Văn Chiêu công chúa không phải công chúa Vương Đình, Vương, tôi cũng không phải tới xin ngài tứ hôn... Tôi chỉ muốn đến xin được ngài cho phép."

Anh dừng lại một chút, nhìn bóng lưng Đàm Ma La Già, vẻ trịnh trọng. "Vương, ngài cho phép tôi thích Văn Chiêu công chúa chứ?"

Động tác lật sách kinh của Đàm Ma La Già dừng lại.

Tất Sa nói tiếp: "Văn Chiêu công chúa dù sao cũng là lấy lý do noi theo cô gái Ma Đăng Già ở lại Vương Đình, tuy nói Vương là Phật Tử, từ lâu đã thoát thất tình lục dục, sinh tử, đoạn tuyệt ham muốn, sẽ không đả động vì công chúa, nhưng là thần tôn kính Vương, nên vẫn cả gan hỏi một câu... Vương, thần có thể thích công chúa không?"
Ngón tay Đàm Ma La Già di chuyển cầm châu trong tay, nói: "Tất Sa, cậu không nên hỏi ta."

Tất Sa khẽ giật mình, ngay sau đó cười khổ.

Đúng, anh không nên đến hỏi La Già, Văn Chiêu công chúa không phải trân bảo trên kệ, nàng là người sống, nếu thực tình anh thích Văn Chiêu công chúa, dù Vương không đồng ý, anh cũng nên lấy dũng khí theo đuổi.

Anh nhìn Đàm Ma La Già, nói: "Thần hiểu rồi ạ."

Đàm Ma La Già rủ mắt, tiếp tục xem sách kinh: "Văn Chiêu công chúa tuổi còn nhỏ, lưu lạc ở vực ngoại, triều không lự tịch*, Tất Sa, không được tùy tiện với nàng."

*sáng sớm không biết buổi tối sẽ thế nào; hình dung tình thế nguy cấp, khó có thể đoán trước.

Tất Sa lấy lại tinh thần, đầu chạm đất: "Thần lập thệ, tuyệt đối sẽ không bởi vì ngưỡng mộ công chúa mà làm ra chuyện gì xem nhẹ nàng ấy, càng không lợi dụng lúc nàng khó khăn, dùng thân phận ép buộc công chúa, nếu trái này thề, mặc Vương xử lý!"
Anh ta đợi một lúc, cầm bội đao rời thiền phòng, đứng cạnh cánh cửa, quay lại nhìn bóng lưng Đàm Ma La Già.

Trước khi lâm chung Sư tôn từng nói, La Già chưa dứt duyên trần.

Lúc trước Tất Sa không xem lời tiên tri này ra gì, đến chừng nhìn thấy Văn Chiêu công chúa xinh đẹp động lòng người, ở chung với người đó vài ngày, lời dặn dò của Sư tôn lại vang vọng trong đầu anh.

Anh sợ lời sư tôn trở thành sự thật.

Nhất niệm thành Phật, nhất niệm thành ma, La Già không giống kẻ khác, nếu ngài động tâm, biết được tư vị tình yêu...

Mặt Tất Sa nghiêm trọng.

Sau lưng có một chuỗi bước chân, Bát Nhã lén lén lút lút sáp tới: "Tướng quân A Sử Na, ngài thật ngưỡng mộ Văn Chiêu công chúa à?"

Tất Sa gật đầu, giọng vang dội: "Không sai, ta thích công chúa, lòng sáng như nhật nguyệt!" Nói xong, quay đi.
Bát Nhã đưa mắt nhìn bóng lưng cao lớn của anh biến mất sau cây táo, hưng phấn xoa tay: A Sử Na tướng quân phong lưu phóng khoáng, mười ba tuổi đã làm tim mấy cô gái nhà quý tộc rung rinh mơ màng, mấy năm qua chuyện phong lưu của tướng quân chưa từng đứt đoạn. Lần này hay rồi, ngài thích Văn Chiêu công chúa thì cuối cùng Vương cũng thoát được cô ta rồi!

Gió hiu hiu thổi qua hành lang lạnh âm u, tràn vào thiền thất, tốc lên trang sách trên bàn, Đàm Ma La Già cúi đầu đọc kinh văn, cà sa trải qua trường án, sột soạt.

Sau nửa canh giờ, ngoài hành lang lại nghe tiếng bước chân. Duyên Giác đứng trước cửa, ôm quyền: "Vương, bên Sa Thành báo tin về, Vương tử Hải Đô A Lăng không về Bắc Nhung."

Bắc Nhung không có đô thành cố định, doanh trướng Ngõa Hãn Khả Hãn dời đi đâu, nha trướng Bắc Nhung ở đấy. Sau khi Bắc Nhung ký minh ước với Vương Đình, bệnh tình của Ngõa Hãn Khả Hãn chuyển biến tốt đẹp, trong thời gian ngắn dấy lên lời đồn đãi về chuyện trời phạt, danh vọng của Đàm Ma La Già lại tăng một cấp, Ngõa Hãn Khả Hãn quyết định rất nhanh dời về Y Châu tránh cho lòng quân tan rã. Hải Đô A Lăng đi sứ Vương Đình, theo hành trình hẳn giờ đã đến Bắc Nhung, thế mà dân du mục bên đó chưa nhìn thấy bóng dáng hắn.
Khuôn mặt Đàm Ma La Già trầm tĩnh, ngón tay khẽ gảy cầm châu: "Tăng cường cảnh giới các nơi trong Vương cung."

...

Vương Đình ban ngày nóng như thiêu, ban đêm lạnh lẽo, ánh trăng lạnh lùng nghiêng chiếu, như rải đầy sương lạnh trên đất.

Trong phòng dưới ánh nến sáng như hạt đậu, Dao Anh và thân binh ngồi trên thảm thảo luận về chuyện an bài cho dân chúng người Hán ở Sa Châu, Qua Châu.

Mấy hôm trước nàng bảo Tạ Thanh làm sa bàn, xếp ra địa thế đại khái của phía Bắc Tây Vực, giảng giải cho mấy người Tạ Xung: "Tây Vực nhiều hoang mạc, con đường buôn bán dựa vào những khu vực ốc đảo hẹp dài xây lên, ven đường có đặt dịch trạm, vì chiến loạn mà rất nhiều dịch trạm bỏ hoang, dân buôn người Hồ biết đường thường có thể khống chế mua bán, lúc liên hệ với họ phải có tầm nhìn lâu dài chút, thà nhường một ít lợi nhuận cũng phải hợp tác với họ. Nếu có thể đứng vững ở Vương Đình, sau này chúng ta có thể cứu trợ thêm nhiều người."
Mấy người Tạ Xung chăm chú lắng nghe, hỏi: "Công chúa, sau này tụi tôi phải đi theo dân buôn người Hồ làm ăn ạ? Dẫn binh đánh giặc tôi còn khoác lác được mấy câu, chứ làm ăn tôi một chữ không biết đâu..."

Dao Anh liếc cậu nói: "Bây giờ Tây Vực thảm hoạ chiến tranh liên tục, rất nhiều bộ lạc nhỏ phồn vinh dựa vào con đường giao thương này đều suy vong, lúc này mấy đội buôn có thể lui tới các nước đều có vũ trang ủng hộ, các ngươi phải học cách liên hệ với họ. Họ rất nhạy về tin tức, biết đâu có thể giúp chúng ta truyền tin."

Trong chiến loạn đám người buôn bán ở Tây Vực thường có quan hệ mật thiết với từng bộ lạc, dùng vàng bạc của cải lôi kéo đại quý tộc ảnh hưởng thế cục nơi ấy, thuận lợi cho việc mua bán, thậm chí còn điều động được cả quân đội.
Tạ Xung rõ ràng hơn, liên tục gục gặc, cười nói: "Chỉ cần công chúa đừng để tôi quản lý sổ sách là được!"

Tạ Bằng lườm cậu: "Cho ngươi quản lý sổ sách? Đợi chúng ta không có gì ăn đi!"

Mấy người còn lại cười một trận.

Bàn đến nửa đêm, đám người cáo lui. Tạ Thanh ở lại đưa mấy quyển binh thư vài hôm trước Dao Anh cho nàng: "Công chúa, tôi xem hết rồi." Chữ nào cũng cắn nhả rất mạnh, không khó nghe ra vẻ hãnh diện bên trong.

Dao Anh dở khóc dở cười, chuyện này rất đáng hãnh diện sao? "A Thanh, mấy quyển binh thư này là cho cô nghiên cứu cho thật kỹ, giữ lại mà xem vài lần nữa đi, không cần trả."

Tạ Thanh ồ một tiếng, nhận lại sách.

Dao Anh nhỏ giọng: "A Thanh, vừa vặn chúng ta đang ở Vương Đình, chỗ nào cô không hiểu có thể tìm bọn Tất Sa thỉnh giáo, dù binh thư hai nước khác biệt nhưng cũng cùng một đạo lý."
Tạ Thanh gật đầu. Nàng trời sinh có sức mạnh, lúc nhỏ hay luyện võ với anh em trai trong nhà, nhưng vì thân gái, cha chưa từng dạy nàng bài binh bố trận, lúc trước nàng cũng không muốn ra trận, chỉ làm một chức hộ vệ, giờ lưu lạc bên ngoài, thân binh đều nghe nàng chỉ huy, công chúa bảo nàng học binh pháp, nàng sẽ học cho tốt.

Công chúa chưa từng vì nàng là nữ mà nhìn nàng bằng ánh mắt khác, không bất công cũng không hiếu kỳ, như trong mắt công chúa, đây không thể là chuyện bình thường hơn.

Nàng không thể phụ lòng tín nhiệm của công chúa.

Tạ Thanh cất binh thư, nhìn ánh trăng như nước trước cửa sổ, đột nhiên hỏi: "Công chúa, nếu như tin chúng ta đưa về được tới Trung Nguyên, Trung Nguyên sẽ hồi đáp sao?"

Dao Anh gật gật đầu: "Sẽ."

Nàng chắc chắn Trung Nguyên sẽ đáp lại, vì nàng xem Lý Đức, Lý Huyền Trinh và các đại thần trong triều là chính khách, cho dù giữa họ có gút mắc gì, chính khách sẽ không cự tuyệt giao dịch có lợi, vả lại trong triều còn có Trịnh Cảnh nhân tài xuất thân từ thế gia mới nổi, có Đỗ Tư Nam từ hàn tộc dã tâm bừng bừng, nóng lòng kiến công lập nghiệp, vì tiền đồ có thể không từ thủ đoạn, những người này không thiếu tầm mắt lâu dài, yêu nước thương dân, luôn sẽ có người hồi đáp.
Về phần thù riêng cha con anh em bọn họ, sẽ luôn có lúc tính toán cho rõ.

Tạ Thanh nhíu mày: "Về Trung Nguyên rồi sao ạ? Công chúa, ngài phải có dự định cho riêng mình."

"Ta biết." Dao Anh ngáp một cái, giọng nhu mì lười biếng, "Về Trung Nguyên không phải về Trường An, trong lòng ta nắm chắc, A Thanh, những chuyện ta làm, là vì đại cục, trừ họa chiến tranh, cũng có lợi cho chính ta, cô yên tâm."

Tạ Thanh ừm, thấy nàng đầy mệt mỏi, đứng dậy dời ánh đèn: "Công chúa nghỉ sớm đi."

Mí mắt Dao Anh sụp xuống, thay đồ nằm chưa đầy một lát đã ngủ mất, trong mơ mơ màng màng bỗng nhiên cảm giác có gì kỳ lạ, giật mình tỉnh lại, vừa vặn nghe thấy có mấy tiếng chân đạp trên nóc nhà.

Có người đi trên mái nhà!

Dao Anh nghiêng tai lắng nghe, có tiếng trầm đục trong vườn, rồi tiếng người ngã xuống, nghe Tạ Xung kêu lên, không biết bị ai đánh ngất, tiếng la im bặt.
Ngoài hành lang tiếng bước chân hỗn loạn, bóng người di chuyển trước cửa sổ.

Tim Dao Anh đập bình bịch, sờ soạng lôi chủy thủ ra, bò dậy, chân trần bước xuống đất, rón rén trốn đến sau cửa.

Két két, then cửa bị đẩy ra từ ngoài, một đôi tay đẩy cửa ra, mấy bóng đen chui vào phòng, trực tiếp chạy tới giường.

"Công chúa!"

Tiếng Tạ Thanh, Tạ Bằng quát lớn, trong vườn có bóng người cầm đao chợt lóe, thân binh vừa la lớn vừa quấn đấu với người mặc đồ đen, trong trong ngoài ngoài hành lang đầy người.

Dao Anh trốn phía sau cửa, hay tay nắm chặt chủy thủ.

Mấy bóng đen kia chạy vội tới cạnh giường, xốc tấm chăn mỏng, không thấy Dao Anh, lập tức tìm kiếm xung quanh.

Một bóng đen trong đó bỗng híp mắt, xoay người lóe lên trong chớp mắt cơ thể cao lớn mạnh mẽ đã đứng trước mặt Dao Anh, tay dài duỗi ra, một tay nắm chặt cổ tay nàng, hơi dùng sức.
Rắc, hai tay Dao Anh xụi lơ, chủy thủ trong tay rơi xuống đất.

Sau tấm mặt nạ có tiếng cười nhẹ, lộ vẻ không kiềm chế: "Văn Chiêu công chúa, cô luôn thích trốn ở chỗ sau cửa này nhỉ."

Máu khắp người Dao Anh như đông lại, đối mặt với đôi mắt màu vàng nhạt sắc bén, mở to hai mắt: Hải Đô A Lăng!

Hải Đô A Lăng cười nhạo, ngón tay thô ráp bóp cằm Dao Anh, khinh miệt nói: "Ta nói rồi, cô trốn không thoát lòng bàn tay của ta."

Răng Dao Anh nghiến kèn kẹt, muốn tránh thoát hai cánh tay y nhưng tay chân lại cứng ngắc, không động được. Hải Đô A Lăng cười nhẹ, cúi người ôm lấy nàng, ánh mắt lóe lên vẻ tràn đầy du͙🇨 vọиɠ chinh phục con mồi: "Công chúa, chơi bên ngoài chán rồi, phải về thôi."

Y ôm Dao Anh ra hành lang, mấy bước nhảy lên tường rào, mấy nhịp lên xuống nhanh nhẹn, trong nháy mắt đã lướt qua một loạt nóc nhà.
Mấy người Tạ Thanh trơ mắt nhìn Dao Anh bị bắt đi, muốn nứt cả mắt định xách đao đuổi theo nhưng bị mấy người mang mặt nạ quấn lấy, khổ đấu một trận, ngẩng lên chỉ còn một vầng trăng bạc, nào còn bóng hình của Dao Anh?

"Công chúa!" Tạ Xung lo lắng rống to.

Dao Anh bị mang ra Vương cung, không còn nghe được tiếng thân binh vội hô hoán, bên tai chỉ có tiếng gió vù vù và tiếng thở trầm ổn chậm rãi của Hải Đô A Lăng, đôi tay dài rắn chắc có lực ôm chặt nàng như cái vòng sắt, siết chặt khiến nàng không cách nào động đậy.

Nàng nhẹ run rẩy, nhìn thấy Vương cung ngày càng xa, dùng hết sức lực, cắn cổ Hải Đô A Lăng một phát.

Hải Đô A Lăng khẽ cười, nhanh nhẹn tránh đi, bắt lấy cằm nàng, hơi nóng phả lên chóp mũi nàng: "Mấy ngày không gặp, công chúa học được cách cắn người rồi sao?"
Nhưng đúng lúc này, dưới ánh trăng trong lạnh bỗng lóe một vầng sáng màu vàng rực rỡ. Hải Đô A Lăng nhạy bén ngửi được mùi nguy hiểm, con ngươi co rút, ôm chặt Dao Anh, tung người phóng lên.

Vầng sáng còn nhanh hơn y, trong giây lát đã đuổi kịp y, bổ thẳng đứng vào lưng y, móng vuốt sắc nhọn rạch đứt áo giáp.

Áo giáp vừa cứng vừa dẻo dai bị xé đôi, y phục rách hết.

Hải Đô A Lăng rên cả người, bắp thịt cánh tay xoay vần, đánh ra một chưởng xé không, nhẹ lay người, hất bóng đen, nhảy lên đỉnh nóc nhà ngói, quay đầu lạnh lùng nhìn bóng đen kia.

Dao Anh nhìn theo ánh mắt y. Một con báo màu sắc lộng lẫy từ trong bóng tối từ từ bước ra, thân hình mạnh mẽ, vẻ nhẹ nhàng ưu nhã, hai mắt màu vàng lóe lên lân quang kỳ dị.

Hải Đô A Lăng lột mặt nạ, nét mặt dữ tợn, thả Dao Anh xuống, rút đao ra khỏi vỏ, ánh mắt tối tăm: "Tô Đan Cổ, ta đã đoán sẽ sớm gặp ngươi!"
Vài tiếng chấn động nhẹ trên mái, báo đốm nâng đuôi, chạy về hướng Đông.

Ánh trăng trong veo nhè nhẹ, gió đêm gào thét, thấp thoáng lấp lóe dưới ánh trăng, một bóng người cao gầy đứng một chỗ trên nóc nhà, tay cầm trường đao, một thân áo đen, khuôn mặt đáng sợ, trầm tĩnh lạnh nhạt, như hòa vào bóng đêm vô biên vắng vẻ thành một.

Như Tu La đi ra từ quỷ vực, lạnh lẽo túc sát, hung mãnh vô tình.

Hải Đô A Lăng lạnh lùng nhìn hắn, nâng trường đao.

Tô Đan Cổ đón gió mà đứng, không nhúc nhích, y phục màu đen phần phật bay, ôm lấy dáng người thon gầy lại căng chứa đầy lực, cả người tràn đầy sức bật rất mãnh liệt.

Dao Anh kinh ngạc nhìn hắn.

Hải Đô A Lăng tiến lên, quát khẽ lấn lên, Tô Đan Cổ đang đứng bất động bỗng nhiên rút đao tiến tới, động tác mau lẹ, ánh đao lấp lóe, hai bóng người mạnh mẽ quấn đấu.
Dao Anh đứng trên nóc nhà, gió thổi chao đảo, tim đập loạn, không chớp mắt nhìn hai người.

Hải Đô A Lăng nhanh nhẹn uy mãnh, tấn công mạnh mẽ, đao mang lực hung ác.

Tô Đan Cổ ác liệt tàn bạo, khí thế bàng bạc, mỗi đao đều tàn nhẫn vô cùng, ra tay không chút lưu tình, giữa di chuyển lại mang vẻ uy nghi ung dung trầm ổn, mơ hồ có phần thương xót.

Hai người qua hơn một trăm chiêu vẫn chưa rõ cao thấp, hai luồng lực đạo va chạm khuấy động, mái nhà vỡ vụn, bụi rơi lả tả.

Hải Đô A Lăng tâm tình nóng nảy, đánh mãi chưa tới đâu, giận tím mặt, bức Tô Đan Cổ vào góc, một chiêu thanh toán, bắp thịt cả người gồng lên, giơ trường đao chém về phía Tô Đan Cổ.

Một phát như dùng hết toàn lực của gã, như Thái Sơn áp đỉnh, Phật cản gϊếŧ Phật!

Dao Anh khẩn trương nín thở.

Tô Đan Cổ thẳng người, mặt lầm lì, tay trái trường đao quét ngang, khí thế bừng bừng, mang theo vẻ bá đạo tận trời sôi trào mãnh liệt, cứ thế mà bổ vào thế công của Hải Đô A Lăng!
Hải Đô A Lăng lùi về một bước, rên nhẹ, khóe miệng tràn tia máu.

Y quét mắt một vòng sau lưng, phát hiện người của y không đuổi theo, ánh mắt âm u, bỗng lui lại mấy bước, phóng tới cạnh Dao Anh, ôm lấy eo nàng, xoay người bỏ chạy.

"Tô Đan Cổ, sau này gặp trên chiến trận, chúng ta lại so cao thấp!"

Dao Anh còn chưa kịp kêu cứu, sau lưng có luồng đao khí chém tới, trong tiếng áo bào phần phật, Tô Đan Cổ tung người mấy cái đuổi theo, thân ảnh quỷ mị, chém một đao về phía cánh tay phải của Hải Đô A Lăng.

Hải Đô A Lăng sợ hãi, lách mình né tránh, Tô Đan Cổ sấn lên, bắt lấy vai Dao Anh ôm vào trong lòng.

Dao Anh cảm thấy tia đao lóe bên khóe mắt, lớn tiếng nói: "Cẩn thận!"

Một thanh đoản đao từ trong tay áo Hải Đô A Lăng phóng ra, thẳng vào Tô Đan Cổ!

Tô Đan Cổ không rên một tiếng, bóng người cao lớn bay tới, thế như ưng bắt thỏ, tay phải ôm lấy eo Dao Anh, sượt qua người Hải Đô A Lăng, tay trái phóng một chưởng, chưởng phong rất mạnh, thế không thể đỡ.
Hải Đô A Lăng nhắm mắt thu đoản đao, chạy ra sau.

Dao Anh kinh sợ, đổ đầy mồ hôi lạnh, trong lúc bối rối bấu ngay cổ Tô Đan Cổ, người dính sát vào lồng ngực hắn, run nhè nhẹ.

Tô Đan Cổ ôm nàng nhanh chóng lướt qua nóc nhà, dừng lại một chỗ trên tường viện, quay người nhìn Hải Đô A Lăng.

"Văn Chiêu công chúa là Ma Đăng Già của Vương, nếu có lần sau, ta ra tay sẽ không lưu tình." Hắn nhả từng chữ, giọng khàn khàn.

Hải Đô A Lăng mặt trầm như nước, nhìn Dao Anh nép trong ngực Tô Đan Cổ, khóe miệng co giật mấy cái, quay người nghênh ngang rời đi. 

-----------CHƯƠNG 54---------------

Bầu trời cao xa vắng vẻ, ánh trăng tung xuống một mảng sáng lạnh trong lấp lánh như nhũ bạc, gió đêm thổi tới, phất qua da thịt dưới lớp áo mỏng, lạnh buốt như tuyết.

Tô Đan Cổ ôm lấy Dao Anh run lẩy bẩy, thoăn thoắt nhảy vượt giữa Vương cung nguy nga, báo đốm ngay sau lưng bọn họ, động tác tung chân nhẹ nhàng tinh tế.
Dần dần nghe tiếng người ồn ào, vút vút mấy mũi tên nhọn xé không tới, tiếng rít lạnh gần trong gang tấc.

Dao Anh trong lòng rất gấp, ngón tay không khỏi nắm chặt áo bào của Tô Đan Cổ. Hắn không nói không rằng, che nàng trong lòng, ngang tay nâng đao, chém mấy mũi tên, nhảy xuống tường viện, hạ xuống cạnh một gốc cây táo trong vườn.

Cách một bức tường viện, có tiếng la to với đám cung thủ: "Nhìn kỹ đi! Là Nhϊếp Chính Vương!"

Vệ binh bắn tên run lẩy bẩy, lập tức rối loạn, tiếng kêu la tứ phía.

Thu cánh tay kiên cố vòng quanh bờ vai kia về, Dao Anh được đặt xuống, đôi chân trần chạm mặt đất lạnh lẽo, hơi lạnh xông thẳng lên người.

Sau lưng nghe một tiếng kêu rên đè nén. Dao Anh nheo mắt, quay lại nhìn. Tô Đan Cổ che ngực lùi về một bước, áo bào xẹt qua nhánh cây táo, đám hoa màu trắng bạc xào xạc rơi.
"Ngài bị thương à?" Dao Anh giật mình, đưa tay đỡ Tô Đan Cổ, vừa rồi lúc hắn ôm nàng đối địch với Hải Đô A Lăng, Hải Đô A Lăng phóng một thanh đoản đao từ tay áo, hắn sợ nàng bị đâm trúng, lộn vòng người chặn một đao, có lẽ đã bị thương.

Tô Đan Cổ hơi lảo đảo.

Dao Anh xông tới đỡ lấy cánh tay hắn, nghĩ có khi hắn không hiểu tiếng Hán mình nói trong lúc vội, đổi tiếng Hồ hỏi lại: "Ngài bị thương à?"

Tô Đan Cổ lấy lại thăng bằng, hờ hững liếc nàng, vết sẹo trải rộng trên mặt xấu xí dữ tợn, một đôi mắt sâu xanh lục vô tình, như bầu trời mênh mông rực rỡ, lạnh lùng lãnh đạm, không vui không buồn.

Đột nhiên Dao Anh có cảm giác đứng trước mặt không phải là một người, mà là một thanh đao lẫm liệt tỏa đầy sắc lạnh.

Một thanh đao vô tình vô dục, chuyên gϊếŧ chóc mà thành.
Hai người bốn mắt chạm nhau.

Dao Anh nhíu mày nhìn lên Tô Đan Cổ, trên mặt không hề sợ hãi chán ghét, chỉ có chân thành lo lắng và cảm kích, ánh trăng lọt vào đôi mắt trong suốt thon dài của nàng, đáy mắt có ánh lấp lánh, như nước hồ sóng sánh, dịu dàng xinh đẹp.

Ánh mắt Tô Đan Cổ lại như hồ nước tĩnh lặng tịch mịch, không một gợn sóng.

Nhìn nhau trong chớp mắt, Dao Anh tiếp tục nhẹ giọng hỏi: "Tô tướng quân, ngài bị thương chỗ nào?"

Nghe có tiếng bước chân như mưa rơi từ cửa sân, A Sử Na Tất Sa người mặc nhung trang dẫn đám vệ binh chạy tới, xông vào đình viện.

Vệ binh nhìn thấy mũi tên rơi trên đất, liếc qua khuôn mặt dữ tợn của Tô Đan Cổ, nhìn nhau, sợ không dám bước tới.

Tất Sa bước qua mớ tên rơi loạn đầy đất, lo lắng chạy tới, ánh mắt rơi xuống cánh tay Dao Anh dìu lấy Tô Đan Cổ, chau mày. "Hộ vệ trong cung bất lực, làm công chúa bị sợ hãi." Anh cười cười với Dao Anh, quay lại ra hiệu hai tên vệ binh, "Đưa công chúa về nghỉ đi."
Dao Anh đảo mắt một vòng. Trong hành lang chen đứng đầy vệ binh, ai cũng đầy đủ vũ trang, chỉ tính người vác trường cung đã có bảy tám người —— bình thường Đàm Ma La Già không ở Vương cung, trong cung cấm không có thủ nghiêm thế này, hiển nhiên họ đã có chuẩn bị đón địch từ trước.

Tất Sa biết Hải Đô A Lăng sẽ xông vào Vương cung, nên mới thu xếp nhiều người thế này chạy tới cứu nàng.

Dao Anh có vẻ suy nghĩ, nhìn Tô Đan Cổ đã đứng vững vàng, nói: "Đa tạ Tô Tướng quân."

Tô Đan Cổ không lên tiếng, trên gương mặt đáng sợ nhìn không ra cảm xúc gì.

Dao Anh thu tay lại, quay đi.

"Công chúa, chờ tí!"

Tất Sa đuổi theo, cúi nhìn Dao Anh.

Dao Anh nửa đêm tỉnh giấc, không mặc áo ngoài, chỉ một lớp áo trong mỏng manh, có lẽ mang từ Trung Nguyên tới, mỏng như cánh ve, nhẹ nhàng trong suốt, dưới ánh trăng nhẹ lồng xuống, dáng người yểu điệu như ẩn như hiện, lớp vải mỏng lộ ra vòng eo tinh tế mềm mại, vừa rồi lúc giãy dụa cổ áo mở một nửa, một bờ vai óng ánh trắng nõn lộ ra, còn muốn nhẵn mịn trắng dính hơn cả mỡ dê, đâu đấy như có mùi thơm quanh quẩn.
Ánh mắt vệ binh trong viện dao động, tất cả đều đang len lén nhìn nàng. Tất Sa nhìn bờ vai tuyết trắng của Dao Anh, lông mày càng nhíu chặt.

Dao Anh biết mình chật vật, cười cười, ôm lấy vạt áo, động tác tự nhiên không chút xấu hổ. Nàng chân trần nhảy xuống giường trốn, phản ứng đã rất nhanh, đáng tiếc vẫn bị Hải Đô A Lăng bắt rùa trong hũ, y đã coi nàng là con mồi, đã thăm dò thói quen chạy trốn của nàng.

Tất Sa vốn nghĩ Dao Anh sẽ lộ vẻ thẹn thùng xấu hổ, hoặc sợ túa nước mắt sướt mướt, ai ngờ nàng lại cười, mắt lộ vẻ kinh ngạc.

"Công chúa, người đang phát run lên kìa."

Anh cởϊ áσ choàng trắng trên người xuống, choàng qua vai Dao Anh, nắm chặt bờ vai nàng, nhẹ nhàng nói, "Công chúa không cần sợ, cả đêm tôi sẽ canh ở đây."

Đám vệ binh nghẹn họng nhìn anh ta trân trối: Tướng quân quả thật phong lưu phóng khoáng, lúc này vẫn không quên dâng hiến ân tình!
Dao Anh lạnh run, không khách khí, quấn áo choàng, nói: "Đa tạ."

Tất Sa đưa mắt nhìn nàng đi xa, ánh mắt mềm mỏng, mãi khi bóng lưng nàng biến mất sau cửa sân, mới quay nhìn Tô Đan Cổ, khóe miệng nhẹ vểnh.

"Nhϊếp Chính Vương, đa tạ người cứu Văn Chiêu công chúa, ban nãy tôi thật tình sợ nàng ấy bị Hải Đô A Lăng cướp mất." Nghĩ lại mà sợ, vỗ vỗ ngực, anh cất cao giọng nói.

Tô Đan Cổ không nói gì, tra đao vào vỏ, ngẩng lên quét mắt một vòng đình viện.

Cả đám bị ánh mắt quét tới thầm sợ, run run rẩy rẩy quỳ xuống.

Tất Sa cũng quỳ một chân trên đất, cung kính nói: "Nhϊếp Chính Vương, bọn tôi bắt được tám người, gϊếŧ năm, còn hai kẻ tự vận, còn một không chạy thoát!"

Anh dẫn đội mai phục gần chỗ Lý Dao Anh, nghe động tĩnh chạy tới ngay.

Tô Đan Cổ gật đầu, vạt áo đen đảo qua trước mặt mọi người, bóng người cao gầy rắn rỏi đi vào hành lang, tan vào trong bóng đêm.
Báo đốm ngoắt ngoắt cái đuôi đi theo.

Chỉ sau chốc lát, tiếng bước chân biến mất.

Như Tu La quỷ mị, vô tung vô ảnh.

Mấy tên vệ binh vừa rồi trong lúc bối rối đã bắn phải Tô Đan Cổ nhìn nhau, run rẩy: "Nhϊếp Chính Vương có đang tức giận không nhỉ? Không biết có trị tội chúng ta không ta?"

Họ thật không cố ý, nhìn thấy một bóng người ôm công chúa còn tưởng là Hải Đô A Lăng! Ai biết Nhϊếp Chính Vương xuất quỷ nhập thần lại đột nhiên ra mặt?

Nhϊếp Chính Vương tuyệt đối đừng chém đầu họ nghen!

Tất Sa đứng lên, đạp tên vệ binh: "Lần sau tỉnh táo hơn cho ta! Nếu ngộ thương Nhϊếp Chính Vương thì làm thế nào? Đám cung thủ đi Hình đường lãnh phạt hết đi, mỗi người mười côn!"

Cả đám không dám xin khoan dung, dập đầu vâng dạ, chịu mười côn dù sao cũng ngon hơn rơi đầu!
Vệ binh xin chỉ thị Tất Sa: "Tướng quân, có cần phái người đi Phật Tự bẩm với Vương không ạ?"

Là Vương nhắc họ phòng bị, giờ bắt được người, hẳn phải bẩm báo Vương trước.

Tất Sa lắc đầu: "Không cần phái người đi Phật Tự... Nhϊếp Chính Vương sẽ đích thân bẩm báo."

...

Dao Anh trở lại nơi ở.

Tạ Thanh, Tạ Xung lập tức lao đến, họ cùng vệ binh đã khống chế bộ hạ của Hải Đô A Lăng, đang chuẩn bị đi tìm nàng.

Dao Anh về phòng mang giày vào trước —— mấy con đường trong Vương cung phần lớn là đi trên đất, một đường chân trần, lòng bàn chân nàng đã muốn mài hỏng.

Tạ Xung cả giận nói: "Không ngờ Hải Đô A Lăng chưa hết hi vọng, công chúa đã ở trong Vương cung Vương Đình rồi mà y còn dám dấn thân mạo hiểm."

Dao Anh đổi áo choàng dày hơn, nói: "Phật Tử rất ít khi ở Vương cung, ở đây phòng thủ không nghiêm."
Từ lúc Hải Đô A Lăng xuất hiện ở đại hội tranh biện kinh Phật nàng đã biết đối phương không tốt, nên trốn kỹ không ra, không bước ra cửa cung một bước, sau khi sứ đoàn Bắc Nhung rời đi đợi mấy ngày mới dám xuất cung đi lại, không ngờ lần này Hải Đô A Lăng còn kiên nhẫn hơn trước, chờ đến đêm nay mới ra tay.

Dao Anh nhớ đến A Bố con chim ưng Hải Đô A Lăng tự mình thuần dưỡng, gã thích cảm giác chinh phục con mồi, sẽ không dễ dàng buông tha nàng.

"Giờ phải mau chóng nghĩ cách truyền tin về Trung Nguyên..." Dao Anh thì thào, "Cũng không biết vết thương của anh đã lành chưa... Tính anh nóng nảy, ai khuyên cũng không nghe..." Nàng nhớ đến Lý Trọng Kiền, lại sợ Lý Trọng Kiền gặp Hải Đô A Lăng, bi kịch tái diễn.

Dao Anh hà hơi, nửa đêm gió lạnh, sắc mặt trắng bệch, môi tái xanh, người run rẩy nhẹ.
Đám Tạ Xung liếc mắt nhìn nhau, không đành lòng dọa nàng, cười nói: "Công chúa an tâm, Tần Vương chắc chắn sẽ bình yên vô sự! Đêm nay công chúa đã hoảng sợ, nghỉ ngơi sớm đi, Hải Đô A Lăng còn dám đến, tụi tôi chặt tay y."

Dao Anh thu nỗi phiền muộn, cười với mọi người rồi đuổi ra, một mình ngồi lại trong phòng u ám, vừa xoa bàn chân bị đất cát mài đến vết thương chồng chất, vừa lẳng lặng suy tư.

Lúc này Tạ Thanh không dám để Dao Anh lọt ra ngoài tầm mắt, canh giữ ở một góc khuất trong phòng, ngồi xếp bằng, nhắm mắt thϊếp đi.

Ngày hôm sau, A Sử Na Tất Sa tới thăm Dao Anh, liên tục cam đoan, Vương cung đã tăng cường phòng bị, bộ hạ Hải Đô A Lăng kẻ chết, người bị bắt, y tuyệt đối không dám giữa đêm xông vào Vương cung nữa.

Dao Anh cám ơn anh ta đêm qua dẫn binh bảo vệ, trực tiếp hỏi: "Có phải Tướng quân đã biết trước rằng Hải Đô A Lăng sẽ đến?"
Tất Sa ngây người.

Sóng mắt Dao Anh trong trẻo, bình tĩnh nhìn anh ta.

Tất Sa với nàng nhìn nhau một lúc, thu lại vẻ đùa giỡn, gật đầu: "Không sai, Nhϊếp Chính Vương biết Hải Đô A Lăng còn núp chờ ở Thánh Thành, dặn bọn tôi tăng cường phòng bị, tránh Hải Đô A Lăng cướp đi công chúa."

Dao Anh khẽ giật mình. Nàng tưởng người an bài phục binh đêm qua là Tất Sa, ai dè là Tô Đan Cổ? Không hổ là Nhϊếp Chính Vương chấp chưởng quân chính, trấn áp mấy đại quý tộc, quả nhiên tâm tư tỉ mỉ, âm thầm đề phòng Hải Đô A Lăng.

Tất Sa gãi gãi da đầu: "Công chúa, không phải tôi cố ý giấu người, thật ra vì sợ người sợ nên không nhắc nhở trước. Nhϊếp Chính Vương cũng không biết Hải Đô A Lăng có tới không, lại không biết khi nào, sợ báo cho công chúa, khó tránh khỏi ăn ngủ không yên, ngày đêm lo sợ."
Dao Anh không hề lo lắng cười lắc đầu: "Ta không có giận..."

Nàng chuyển đề tài, "Nhưng hi vọng sau này Tướng quân đừng giấu ta, người mà Hải Đô A Lăng muốn cướp là ta, ta chính là mồi nhử tốt nhất, nếu Tướng quân báo ta sớm chút, ta có thể cùng Tướng quân nội ứng ngoại hợp, nói không chừng có thể bắt được Hải Đô A Lăng."

Tất Sa chấn động, lặng thinh rất lâu. Dao Anh nhìn anh ta mỉm cười, mặt mày tỏa sáng.

Tất Sa tránh tầm mắt nàng, hỏi: "Công chúa có nghĩ tới, chúng ta nội ứng ngoại hợp gϊếŧ Hải Đô A Lăng, thì sau công chúa không phải lo nữa."

Dao Anh cười nhạt, ngẩng nhìn bầu trời xanh thẳm trong veo: "Vương Đình và Bắc Nhung ký minh ước, Hải Đô A Lăng là Vương tử Bắc Nhung, lúc này Vương Đình mà gϊếŧ Hải Đô A Lăng, Bắc Nhung chắc chắn sẽ kiếm cớ khai chiến —— tướng quân yên tâm, ta được Vương Đình che chở, phân rõ nặng nhẹ, Hải Đô A Lăng phải chết ngoài đất của Vương Đình, hoặc là ra tay không chừa chút hậu hoạn, không để Bắc Nhung nắm được, hoặc là hai quân đối địch."
"Hải Đô A Lăng không vô duyên vô cớ đi sứ Bắc Nhung, chắc chắn Nhϊếp Chính Vương đã biết nên đêm qua không xuống tay sát thủ."

Tất Sa quay nhìn Dao Anh, trên gương mặt tuấn lãng lướt qua một tia kỳ lạ.

Công chúa nói đúng, Vương Đình không nên khai chiến với Bắc Nhung lúc này. Trung quân đối Đàm Ma La Già trung thành tuyệt đối nhưng Tả quân, Hữu quân, Tiền quân, Hậu quân lại nằm trong tay các đại quý tộc, vừa mới trải qua mấy trận đại chiến, lòng người còn chưa hoàn hồn, lại đến mùa vụ, nguồn chiêu mộ lính không đủ. Sau cuộc chiến, mở Đại Pháp hội hoành tráng để ăn mừng thắng lợi, cũng để trấn an lòng người, uy hϊếp đại thần, ổn định triều chính.

Đêm qua sở dĩ anh ta không báo trước cho Lý Dao Anh chính là vì sợ vị công chúa Đại Nguỵ này sợ hãi làm xáo trộn kế hoạch của họ, kéo toàn bộ Vương Đình vào vũng bùn.
Tất Sa thở dài, ôm quyền, vẻ rất nghiêm túc: "Công chúa, thật xin lỗi." Anh biết Hải Đô A Lăng nhất định phải đoạt được công chúa, lại không thể gϊếŧ y giúp công chúa an giấc, còn mặt mũi nào tự xưng là bạn của công chúa?

Dao Anh đứng dậy, đứng dưới hiên, đáp lễ lại Tất Sa, nói: "Tướng quân, ta được Phật Tử che chở, lại kết minh với Phật Tử, Vương Đình an ổn, ta mới có thể an toàn, ta không thể không để ý đại cục, cũng sẽ không cuồng vọng yêu cầu quý quốc vì ta mà gϊếŧ Vương tử Bắc Nhung."

Kết minh với Cao Xương là dự định cho tương lai về sau, nàng ở Vương Đình luôn có chỗ tốt, nàng không ngây thơ cho rằng Đàm Ma La Già sẽ vì người không liên quan như nàng hạ lệnh gϊếŧ Hải Đô A Lăng.

Mới lại Hải Đô A Lăng là cao thủ bậc nhất của Bắc Nhung, đâu phải dễ gϊếŧ? Đàm Ma La Già cứu được nàng, phái vệ binh bảo vệ nàng, phòng bị Hải Đô A Lăng, nàng đã rất cảm kích.
Tất Sa ngóng nhìn Dao Anh, mắt chớp chớp, thay đổi vẻ khinh cuồng hời hợt trước đó, dáng người cao ngất, nói: "Công chúa cũng không cần quá khách khí, công chúa cứu Vương chính là đã cứu toàn bộ Vương Đình. Dù ngay lúc này tôi không thể gϊếŧ Hải Đô A Lăng, nếu có gặp trên chiến trận sau nay, tôi nhất định gϊếŧ hắn!"

Dao Anh mỉm cười: "Tuy lúc này không thể gϊếŧ Hải Đô A Lăng... nhưng cũng không thể để y cứ vậy yên ổn về Bắc Nhung."

Tất Sa nhếch miệng: "Công chúa yên tâm, Hải Đô A Lăng xông vào Vương cung nửa đêm, bọn tôi không bắt được y, không có chứng cứ, nhưng người của y đã rơi vào trong tay bọn tôi, Nhϊếp Chính Vương căn dặn, đưa chúng đi Bắc Nhung, Ngoả Hãn Khả Hãn chắc chắn sẽ tức giận."

Dao Anh gật đầu.

Đây đúng là một cách, Ngoả Hãn Khả Hãn còn biết nói tình nghĩa hơn Hải Đô A Lăng, vả lại đã thầm xem Đàm Ma La Già như khắc tinh, không dám khai chiến với Vương Đình.
Có điều còn có một cách tốt hơn, độc ác hơn.

Dao Anh ra hiệu thân binh lấy bình thuốc nàng đã sửa soạn đêm qua ra: "Đêm qua ta được Nhϊếp Chính Vương cứu, ta muốn trực tiếp gặp Nhϊếp Chính Vương nói lời cảm tạ."

Ánh mắt Tất Sa lấp lánh, cười nói: "Nhϊếp Chính Vương hành tung bất định, tôi cũng không biết ngài ấy ở đâu."

Dao Anh cũng cười cười: "Vậy xin Tướng quân chuyển lời một câu."

Tất Sa còn chần chừ, chưa kịp há miệng, một vệ binh lộn nhào xông vào đình viện, "Hải Đô A Lăng đến rồi!"

Cả đám kinh hãi, thân binh hộ vệ cuống quít nắm binh khí, thủ thế phòng vệ.

Tất Sa biến sắc, trấn an Dao Anh: "Công chúa không cần sợ, Hải Đô A Lăng chỉ một mình, không dám làm loạn." Nói xong, quay người chạy đi.

Dao Anh trấn định lại, tránh lên lầu hai nấp trong tháp các chờ tin. Chỉ sau chốc lát, vệ binh quay lại báo, Hải Đô A Lăng hiện đang ở Vương cung.
Sau thất bại đêm qua y không trốn mất dạng, mà tìm chỗ chỉnh đốn một đêm, sáng sớm hôm nay nghênh ngang xuất hiện trước cửa dịch quán, nói trên đường mình về Bắc Nhung gặp cướp, thân binh bên cạnh đều đã chết, yêu cầu Vương Đình xuất ngựa lương khô đưa tiễn, còn phái người hộ tống y về nha trướng.

Tạ Xung nghiến răng: "Tên này đúng là gan to bằng trời, không sợ chúng ta gϊếŧ à?"

Dao Anh nhíu mày.

Hải Đô A Lăng không chỉ gan cả người, mà còn biết lấy lui làm tiến, bên cạnh y không còn thân binh hộ vệ, sợ Tô Đan Cổ đuổi gϊếŧ, dứt khoát lộ ra thân phận sứ giả, yêu cầu Vương Đình tiễn mình về Bắc Nhung, từ đây, y sẽ không phải sợ Vương Đình ngầm ra tay. Chuyện đêm qua xông vào Vương cung y có thể liều chết không nhận.

Quả nhiên, vệ binh tới thuật lại, Hải Đô A Lăng là sứ giả Bắc Nhung, đại thần trong triều không muốn sinh sự, chuẩn bị ngựa cho y.
Vệ binh nói: "Công chúa, Vương tử Hải Đô A Lăng nói trước khi đi muốn gặp ngài nói mấy câu. A Sử Na tướng quân nói, ngài có thể đi, cũng có thể không đi."

Đám Tạ Xung nhảy lên, mặt đỏ bừng: "Mơ tưởng!"

Dao Anh trầm ngâm một lát rồi đứng dậy.

Gặp thì gặp, lúc này Hải Đô A Lăng không thể làm gì nàng, nàng muốn biết mục đích thực sự của Hải Đô A Lăng.

Hải Đô A Lăng đã thay đổi y phục, tóc bím áo choàng, một bộ cẩm bào gấm nửa cánh tay, dựa vào cây cột ở hành lang, chân dài hơi cong, cơ bắp đầu vai căng cứng.

Đại thần đứng một bên quan sát, Tất Sa dẫn vệ binh Vương Đình giằng co cùng Hải Đô A Lăng, ánh đao lấp lóe, trường thương như rừng.

Khí thế cả viện đều chĩa vào trên người một mình Hải Đô A Lăng.

Y nhìn thấy Dao Anh, khẽ nhếch miệng đi về phía nàng: "Công chúa thật sự có bản lãnh, thủ đoạn lại cao, Phật Tử cao cao tại thượng đối với cô đặc biệt, ngay cả Tô Đan Cổ giờ cũng tự ra tay cứu cô."
Dao Anh tỏ ra như thường: "Vương tử định nói mấy câu này đó à?"

Con ngươi màu vàng nhạt của Hải Đô A Lăng yên lặng nhìn mặt nàng, rực rỡ động lòng người, thịt da như gió tuyết, lúc cười rực rỡ như hoa xuân, một đôi mắt thon dài tươi tắn, lúc khóe mắt hơi vểnh vô tình toát ra mấy phần mềm mại rung động lòng người, nhưng riêng đối với y luôn lạnh lùng như băng, chưa từng lộ ra vẻ uyển chuyển xinh đẹp trước mặt y.

"Ta thật không rõ." Y nhắm hai mắt, "Ta là dũng sĩ mạnh nhất anh dũng nhất Bắc Nhung, sao cô hết lần này đến lần khác cự tuyệt ta?"

Ở Bắc Nhung, cô gái xinh đẹp nhất thuộc về người đàn ông cường tráng nhất, sao Văn Chiêu công chúa không chịu thần phục y?

Hải Đô A Lăng cười nhạo. "Đêm qua gã quái dị Tô Đan Cổ kia tới cứu cô, cô nép vào người hắn, nép đến thật sát... Chả nhẽ ta còn không bằng một gã quái dị?"
Dao Anh thản nhiên nói: "Đẹp xấu không ở bề ngoài, Tô Tướng quân chinh chiến vì nước, bảo vệ một phương yên ổn, thưởng phạt phân minh, công chính vô tư, ta kính nể Tướng quân. Vương tử dù tuấn lãng phong lưu, trong mắt ta, cũng chỉ bình thường."

Hải Đô A Lăng nhếch miệng cười cười, ánh mắt âm u: "Cha nuôi ta năm đó thích một người, bèn đến cầu thân, tù trưởng bộ lạc đó xem thường, cự tuyệt ông ấy. Cha ta không nhụt chí, một tháng sau, dẫn người tập kích bộ lạc đó, gϊếŧ sạch đàn ông, ngay trước mặt người đó gϊếŧ cha và tám người anh em của bà."

"Cô gái đó chính là mẹ nuôi ta, bà gả cho cha, sinh mười đứa con cho cha, bà kính yêu cha nuôi, ông ấy chính là trời của bà."

Ở Bắc Nhung, đàn ông muốn lấy vợ có thể không từ thủ đoạn, gϊếŧ sạch tất cả ai ngăn cản hắn, dù có là anh em ruột của cô vợ đi chăng nữa. Phụ nữ Bắc Nhung chỉ thần phục người anh dũng, họ sinh ra để giạng chân cho đàn ông chiếm hữu, sinh con dưỡng cái cho người.
"Trên đời này người phụ nữ xinh đẹp nhất hẳn phải thuộc về ta." Mắt Hải Đô A Lăng lóe ra ánh sáng vàng nhạt, "Công chúa, cô trốn không thoát lòng bàn tay của ta đâu."

Y không quan tâm giờ đây Lý Dao Anh thuộc về Đàm Ma La Già hay Tô Đan Cổ, hay là cả hai đều thành thần dưới váy của nàng, đàn ông Bắc Nhung không thèm để ý phụ nữ còn trong trắng, họ cướp đất, chinh phục dị tộc, chiếm hữu người đẹp.

Giờ Văn Chiêu công chúa không thuộc về hắn, sớm muộn vẫn sẽ rơi vào tay hắn.

Dao Anh không nói, Tất Sa kế bên bỗng biến sắc, xách đao định xông lại.

Đột nhiên, một luồng gió tanh lạnh lùng thốc tới, một bóng đen từ trên trời phóng xuống, đôi vuốt đen sắc nhọn thẳng tắp chộp tới mặt Hải Đô A Lăng.

Hải Đô A Lăng không kịp chuẩn bị, vô thức đưa cánh tay lên cản, vẫn chậm một bước, móc sắt như vuốt ưng xẹt qua mặt, lập tức máu me đầm đìa.
Hai tiếng kêu trong trẻo lạnh như băng vang lên, một con ưng to lớn lướt qua trước mắt mọi người, giương cánh bay về không trung.

Đám người rớt miệng. Mấy tên vệ binh kịp phản ứng, đầy kích động: "Đó là ưng của Vương!"

Lời còn chưa dứt, cửa sân mở ra, mấy vị sư mặc Pháp y và binh sĩ áo lam chạy đến, dẫn đầu là thân vệ Đàm Ma La Già Duyên Giác.

Cậu đứng ở hành lang trước, nhìn bộ mặt tức giận của Hải Đô A Lăng, cất cao giọng nói: "Văn Chiêu công chúa là Ma Đăng Già của Vương, được Vương che chở, xin Vương tử chú ý ngôn từ, nếu lại mạo phạm sẽ không dễ tha!"

Đột nhiên trong đình viện yên tĩnh lại, lặng ngắt như tờ, nghe được tiếng kim rơi.

Cả đám nín thở, rất kinh ngạc.

Tất Sa đầy vẻ không dám tin, sắc mặt trắng bệch.

Dao Anh cũng trợn mắt hồi lâu.

Đêm qua Tô Đan Cổ nói với Hải Đô A Lăng câu này chỉ để ép y lui, lúc ấy không có kẻ khác, sẽ không lan truyền.
Giờ trước mặt mọi người Duyên Giác tuyên bố, là nói với sứ giả Bắc Nhung Hải Đô A Lăng, còn không phải tương đương với thừa nhận thân phận nàng?

Nàng tự nói mình nguyện làm theo Ma Đăng Già, thì chẳng là gì cả vì người đời chỉ coi nàng là kẻ ái mộ Đàm Ma La Già đến cuồng nhiệt.

Đàm Ma La Già thừa nhận trước chúng, ý nghĩa không giống!

Máu khắp người Dao Anh ngưng chảy, trong đầu ong ong.

Trong yên lặng nặng nề quỷ dị, gã Bắc Nhung Hải Đô A Lăng này kịp phản ứng nhanh nhất, con ngươi co giật, nhìn Dao Anh, cười lạnh: "Thủ đoạn của công chúa cao thật!"

Nói xong, nghênh ngang rời đi.

Lúc này, chẳng ai còn để ý Hải Đô A Lăng nói gì.

Tất cả mọi người, đại thần, vệ binh, tuỳ tùng, sư sãi, Tất Sa... đều vẹo cổ nhìn Dao Anh, động tác cứng ngắc, ánh mắt kinh hãi. Trong nháy mắt mấy trăm ánh mắt như đao phóng qua, mang theo tiếng gió vèo vèo, quấn trong đầu Dao Anh đến choáng váng.
Nàng miễn cưỡng trấn định lại, nhìn Duyên Giác.

Duyên Giác nhìn nàng, từng chữ từng chữ nói: "Từ hôm nay trở đi, công chúa vào Phật Tự ở, theo các sư trong chùa tu tập Phật pháp."

Dao Anh thầm chấn động, cảm giác ánh mắt rơi vào người mình thật sự biến thành từng thanh từng thanh đao hữu hình, chém nàng đau nhức. 

-----------CHƯƠNG 55---------------

Từ Vương cung đi Phật Tự phải qua đoạn phố thị dài phồn hoa nhất thành, trên đường dòng người như dệt, ngựa xe như nước.

Lúc Dao Anh ngồi xe ngựa giữa đám kỵ sĩ áo lam bào trắng rời Vương cung, dù cách lớp màn nỉ thật dày, nàng vẫn nghe thấy tiếng bàn tán như sóng biển sóng sau xô sóng trước.

Nàng ngồi xếp bằng, trước mắt hiện ra khuôn mặt kinh hoàng muốn chết của Bát Nhã.

Mấy lúc trước chỉ là lời đồn nhảm, giờ thì hay rồi, nàng không chỉ khinh bạc vị thần trong lòng họ, còn muốn ở chung phòng với vị thần dưới cùng một mái hiên.
Không hề giống như nàng dự đoán.

Dao Anh hai tay chống cằm, còn chưa tỉnh táo lại.

Đàm Ma La Già ngầm đồng ý cho nàng ở lại Vương cung, với nàng mà nói đã là che chở tốt nhất, giờ ngài công khai thừa nhận thân phận nàng, đừng nói đám Bát Nhã đau tim kinh sợ, chính nàng cũng bất ngờ.

Tự nàng đơn phương mặt dạn mày dày quấn tới, dân chúng Vương Đình chỉ coi như nàng là oán nữ yêu đương cuồng nhiệt. Còn Đàm Ma La Già cho phép nàng vào ở Phật Tự, ý nghĩa không còn bình thường. Đối với nàng, đương nhiên là chuyện tốt, nhưng đúng là đã tổn hại thanh danh của Đàm Ma La Già —— từ sau ngày hôm qua Duyên Giác tuyên đọc chiếu thư ở dịch quán, sứ thần các nước ở đấy và Vương công đại thần bàn bạc ầm ĩ, Bát Nhã lã chã chực khóc, Tất Sa xưa giờ nhiệt tình độ lượng cũng âm u.

Dao Anh nhớ lại lần cuối thấy Đàm Ma La Già, trên Pháp hội ngài cao khiết xuất trần, làm lu mờ ảm đạm mọi trọc vật thế gian.

Đàm Ma La Già đây là cứu nàng.

Hải Đô A Lăng không chịu từ bỏ ý định, nàng đề phòng ngày đêm. Lần này Hải Đô A Lăng mạo hiểm xông vào ban đêm, làm nàng hiểu Vương Đình cũng không an toàn, đang buồn rầu thì Đàm Ma La Già đến giúp nàng.

Lúc mới gặp, trước vạn quân nàng thỉnh cầu được phép làm theo Ma Đăng Già, Đàm Ma La Già ghìm ngựa trước trận, đôi mắc xanh biếc hờ hững liếc qua nàng, từ chối cho ý kiến.

Giờ ngài cho đáp án. Ngài đã đồng ý.

Tuy trễ mấy tháng nhưng sấm rền gió cuốn, khuya hôm kia Hải Đô A Lăng xông vào cung, hôm qua ngài tuyên bố trước chúng, hôm nay phái người đón nàng đi Phật Tự, không hề dây dưa.

Xe ngựa đến Phật Tự, qua cửa hông vào chùa, kỵ sĩ Trung quân dẫn đường cho Dao Anh.
Lòng bàn chân nàng như xụi lơ, cảm giác không chân thật, như bước lên mây.

Phật Tự Thánh Thành xây dựng lâu đời, lưng tựa vách đá, cổ kính trang nghiêm, đồ sộ hùng vĩ, khắp nơi là hang đá Phật tháp, đền các cao, hương khói thịnh vượng, lao xao tiếng Phạn. Dao Anh theo sau lưng kỵ sĩ, ngang qua hành lang cột, thấy khắp nơi trên tường có bích họa về sự tích kinh Phật, lầu các xuyên sơn, nhảy múa lên trời, ánh vàng lấp lánh, lộng lẫy nhiều màu, chói lọi mượt mà, nét vẽ cứng cáp lưu loát, nhân vật tráng kiện, phong cách hoa lệ không gò bó.

Đình viện sáng sủa thoáng đãng, Phật tháp như rừng. Càng đi vào trong càng u lạnh yên tĩnh, bích họa trên tường điêu khắc càng thêm sắc sảo, từng mảng rực rỡ màu xanh nhũ vàng, muôn hình vạn trạng, bao la phóng khoáng.

Dao Anh nhìn hoa cả mắt.
Trong thuốc màu, màu xanh nhũ vàng, màu đỏ son đều cực kì đắt đỏ, những họa sĩ nổi tiếng bậc nhất Trường An cũng không thể tùy ý thích mà dùng để vẽ, khắp Phật Tự toàn bích họa hai màu này, điểm thêm vàng bạc, cho thấy Vương Đình thật giàu có.

Duyên Giác Bát Nhã hộ tống Dao Anh, sắc mặt hai người một trầm tĩnh, một như cha mẹ chết, dẫn nàng đến trước một viện lạc nho nhỏ yên tĩnh cách xa điện chính, chỉ huy kỵ sĩ giúp chuyển hành lý.

Sân vườn không lớn, trong đình trồng vài cây hoa cỏ rất hiếm thấy ở Vương Đình, đình viện rất sâu, nhà chính xây trên vùng đất cao, bốn phía hành lang quét vôi trắng trong trẻo, viện lạc rộng rãi chỉnh tề, cạnh bức tường gạch mộc đắp bùn có bố trí một giàn cây nho, trên kệ dây leo bò đầy, phủ bóng mát lớn.

Trên vách tường phòng chính cũng quét vôi trắng, trong phòng bày biện đơn giản, thảm nỉ trải trên đất, bố trí giường nằm, bàn ngồi, tủ sách, bình phong, trước giường treo màn, ngoài ra không có vật trang trí khác.
Duyên Giác chỉ nhà chính, nói: "Công chúa, hàng năm xuân hạ giao mùa sẽ có gió lớn tàn phá, ban đêm sẽ lạnh, phòng ở đây không trổ cửa sổ, chỉ mở cửa trước, trong nội viện không có giếng nước, mỗi ngày sẽ có người đưa tới nước sạch cho công chúa. Công chúa xem còn thiếu thứ gì, tôi sẽ bố trí đưa tới."

Lại nói, "Công chúa chỉ tu hành, không cần tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của các sư trong chùa, nhưng cũng không thể không làm gì, lát sẽ có vị sư đưa sách kinh tới, giảng cho công chúa về khóa sớm tối* mỗi ngày."

*Mỗi ngày vào sáng sớm sư hoặc đạo sĩ (tầm từ 3-6g) tụ tập đầy đủ ở đại điện, tụng kinh tuần.

Dao Anh cám ơn cậu ta, nghĩ nghĩ rồi hỏi: "Phật Tử có tiện gặp ta một lần không?"

Bát Nhã kế bên lập tức trợn mắt, hung dữ trừng trộ nàng, bờ môi run run, không dám lên tiếng trách mắng, tự thấy ngột ngạt, nhấc chân bước ra.
Dao Anh là người Đàm Ma La Già cho người tiếp đãi,cậu không dám mở miệng nói độc địa.

Duyên Giác nhẹ gật: "Vương có dặn, đợi công chúa chuyển tới bảo tôi dẫn người đi thiền phòng gặp ngài."

Dao Anh để mấy người Tạ Thanh sắp xếp hành lý, theo Duyên Giác đi gặp Đàm Ma La Già.

Thiền phòng của Đàm Ma La Già lót gạch xanh, tĩnh mịch trang nghiêm, cổng vòm, hành lang mái vòm trên cột đá được vẽ trang trí lá xanh hoa xanh biếc, bốn phía là hoa văn quyển thảo hình cây lựu, hoa sơn trà, cây kim ngân, xinh đẹp thanh nhã ung dung. Trước hành lang tùng bách cứng cáp, bạch dương thẳng tắp, trong đình viện chỗ sâu có cây táo, hoa trắng bạc rơi từng đống, hương thơm ngào ngạt.

Đình viện lặng ngắt như tờ, cận vệ khoanh tay đứng hầu như tượng đất.

Đàm Ma La Già ngồi trước thư án thiền đường đang viết, bóng lưng cao gầy.
Duyên Giác vào thông báo, Dao Anh chờ ở tiền sảnh, ánh mắt rơi vào người Đàm Ma La Già, giật mình.

Đang giữa trưa nóng bức nhất, hôm nay Đàm Ma La Già mặc tăng y lộ trần vai phải, màu da lộ ra như màu mật ong, vân da rõ ràng, ánh lên sáng bóng.

Dao Anh dời ánh mắt, nhìn nhánh hoa chập chờn theo gió trong sân, nhớ đến đêm trước, Tô Đan Cổ lảo đảo lùi về cây táo, hoa trắng bạc rơi đầy. Dưới đêm trăng, trong tích tắc đối mặt với Tô Đan Cổ, đáy lòng nàng bỗng dâng lên một cảm giác cổ quái.

Không biết vì sao, nàng luôn cảm thấy khuôn mặt dữ tợn kia của Tô Đan Cổ đang che giấu thứ gì, thậm chí trong tích tắc đó, nàng thấy Tô Đan Cổ có chỗ giống Đàm Ma La Già.

Thế nhưng Đàm Ma La Già triền miên nằm trên giường bệnh, xuống ngựa phải cần cận vệ nâng đỡ, Tô Đan Cổ dũng mãnh uy vũ, đao phong bá đạo mạnh mẽ, hai người một là Phật Tử lòng dạ từ bi, một là Nhϊếp Chính Vương tàn nhẫn vô tình.
Nỗi hoài nghi của Dao Anh vốn không có cơ sở.

Hơn nữa lúc Tô Đan Cổ cứu nàng, nàng dựa sát vào ngực hắn, cảm giác được bắp thịt rắn chắc tích lực trong cánh tay, ôm lấy thân thể của nàng, đầy dẻo dai.

Duy nhất giống là đôi mắt xanh biếc.

Nhắc đến, Tất Sa cũng có cặp mắt màu xanh lục... Dao Anh lấy lại tinh thần, lắc đầu bật cười. Nàng thật sự đã có ý nghĩ hão huyền, lúc Đàm Ma La Già bệnh nặng, Tô Đan Cổ ra mặt dọa Tiết Duyên Na, phiêu diêu xuất trần Đàm Ma La Già và gϊếŧ người như ngóe Tô Đan Cổ làm sao là cùng một người?

Duyên Giác bước ra, ra hiệu Dao Anh vào phòng. Dao Anh thu lại suy nghĩ, nhấc váy rảo bước vào thiền thất.

Trong phòng ngăn nắp sạch sẽ, không huân hương, trên bàn chất đầy sách kinh, Đàm Ma La Già đang cúi đầu viết, ngón tay thon dài, dù gầy nhưng vẫn thấy rất có lực.
Dao Anh ngồi quỳ chân đối diện chàng, vô thức thẳng tắp lưng, tư thế rất chỉnh tề, đi thẳng vào vấn đề: "Vương tử Bắc Nhung âm hồn bất tán, Pháp sư vì bảo vệ tôi ban chiếu thư cho phép tôi vào Phật Tự ở, tôi vô cùng cảm kích, có điều làm vậy có bất lợi cho thanh danh ngài không?"

Đàm Ma La Già khí thế nội liễm, lại có một vẻ uy áp không gì không biết, ở trước mặt chàng, nàng không cần lá mặt lá trái, khéo léo quanh co, nghĩ gì nói đó, dù sao cũng không gạt được đối phương.

Dao Anh nói xong, mắt trợn to, chăm chú nhìn Đàm Ma La Già không chớp.

Đàm Ma La Già ngừng bút, ngẩng đầu, ánh mắt trong lạnh ôn tồn: "Công chúa đừng để ý, cùng lắm chỉ có vài lời chỉ trích thôi. Sau một năm, công chúa bình an rời đi, chỉ trích tự sẽ mất."

Giọng điệu chàng ung dung, mây trôi nước chảy.
Dao Anh trong chốc lát cảm thấy lòng cảm kích suy nghĩ cả một đêm không thể nói ra lời.

Đàm Ma La Già rất thông minh, chưa hề coi lời nàng là thật, ngài không cần nàng cảm kích, cũng không cần nàng trả bất kỳ giá gì, ngài giúp nàng chỉ vì nàng là một người trong chúng sinh cần trợ giúp, hơn nữa đã từng cứu ngài, nên khi có thể, sẽ giúp, thấy nàng gặp nguy hiểm, thì ra tay giúp.

Nàng đã gặp được một người tốt.

Dao Anh cười cười, cả người hoàn toàn trầm tĩnh lại, lo lắng trong lòng không vất đi được cũng đã như bị thổi tan.

Mi mày hơi cong, hai mắt óng ánh, nàng dịu dàng nói: "Đa tạ."

Cô gái tuổi mười lăm, ở tuổi thanh xuân, tạm thời bỏ xuống gánh nặng, ánh sáng rực rỡ trên vầng trán, tinh thần phấn chấn.

Toàn bộ thiền thất dường như sáng hơn mấy phần, xuân sắc rực rỡ.
Đàm Ma La Già để bút xuống, cầm mấy quyển kinh đưa cho Dao Anh.

Dao Anh ngồi dậy tiếp nhận, phát hiện mấy quyển kinh bằng tiếng Hán «Kinh Đại bàn Niết Bàn », «Nhϊếp Đại Thừa Luận », « A tỳ đàm Luận ».

Trong tích tắc nàng hoàn toàn bó tay.

Hay thật, người xuất gia không nói dối, Đàm Ma La Già ban chiếu thư bảo nàng đến Phật Tự tu tập Phật pháp, là thật sự muốn nàng chăm chỉ nghiên cứu Phật lý, không chỉ quy định nàng sớm tối học bài, đến sách kinh cũng chuẩn bị xong.

Người này thật là thành thật.

Dao Anh bưng lấy đống sách vừa dày vừa nặng, cứ nghĩ từ rày về sau không chỉ phải xử lý chuyện lặt vặt thành lập đội buôn bán, mà còn phải đọc mấy quyển kinh này, tê hết da đầu, chợt nhớ tới một chuyện, ngẩng lên, ánh mắt sáng rực nhìn Đàm Ma La Già.

"Pháp sư..." Vẻ rất chăm chú, nàng hỏi, "Tôi cũng phải quy y á?"
Mặt Đàm Ma La Già thoáng kinh ngạc.

Dao Anh lộ vẻ ngượng ngùng.

Ma Đăng Già vì gả cho A Nan, quy y tu hành, nàng có cần phải quy y luôn không nhỉ? Tuy so sánh với tính mạng, mớ tóc này không đáng nhắc, không nên do dự, nhưng nếu có thể không cạo thì đừng cạo, tóc vừa dày vừa dài, dưỡng đã nhiều năm rồi!

Giữa hè nóng bức, ánh nắng như đổ vàng, một chùm nắng xuyên qua cửa sổ mái lọt vào thiền thất, chiếu lên tóc mai đen nhánh xinh đẹp của Dao Anh, da thịt như tuyết, người mặc váy dài màu xanh nhạt, áo màu son tay lửng, đẹp như nhánh hoa vừa nở kiều diễm đón gió xuân, sum sê rực rỡ.

Đàm Ma La Già rũ mắt, nói: "Công chúa còn chưa quy y cửa Phật, có thể để tóc tu hành."

Dao Anh thở phào, nhìn Đàm Ma La Già, trong mắt tràn đầy kính ngưỡng và tin cậy, cười nói: "Đa tạ Pháp sư."

Giọng reo lên nhẹ nhàng, tự nhiên hơn nhiều so với lúc mới bước vào.
Đàm Ma La Già không nói gì, liếc Duyên Giác đứng hầu ngoài cửa. Duyên Giác hiểu ý, đưa Dao Anh về viện tử.

Váy xanh nhạt của thiếu nữ phết qua thảm nỉ, bóng dáng xinh đẹp, trong không khí còn quanh quẩn mùi thơm nhè nhẹ.

Đàm Ma La Già cúi đầu viết tiếp.

Chỉ lát sau, nghe tiếng bước chân vang lên trong hành lang, bóng người cao lớn của A Sử Na Tất Sa xuất hiện ngoài cửa.

"Vương vừa gặp Văn Chiêu công chúa à?"

Đàm Ma La Già ừm, không ngẩng đầu.

Tất Sa đi vào thiền thất, hành lễ trước Đàm Ma La Già, ngồi xếp bằng xuống, "Vương, sao ngài lại muốn giúp Văn Chiêu công chúa? Ngài để nàng ấy ở lại Vương cung đã là phá lệ, giờ còn chuyển cả vào Phật Tự, trong thành bàn tán ầm ĩ. Đã nhiều năm rồi, nàng ấy là nữ tử đầu tiên bước vào thiền thất của ngài đó."

Đàm Ma La Già thản nhiên nói: "Người Bắc Nhung trục thủy thảo mà cư*, man dã chưa mất, Hải Đô A Lăng hung ác bạo ngược, không muốn dừng tay, làm vậy có thể giúp Văn Chiêu công chúa thoát khỏi Hải Đô A Lăng."
*mình tạm hiểu là sống du mục trôi nổi như theo bèo nước, di chuyển theo nguồn sống.

Tất Sa nhìn chàng, "Vương, dân gian họ đồn đủ hết."

Đàm Ma La Già cũng không ngẩng đầu lên: "Thanh danh chẳng qua là vật ngoài thân, ta là Quân chủ Vương Đình, sau một năm, lời đồn nhảm tự sẽ giảm đi."

Tất Sa lặng thinh một lúc, "Sau một năm, thật sự sẽ bớt đồn đãi ạ?"

Đàm Ma La Già cúi đầu viết: "Tất Sa, cậu cho rằng Văn Chiêu công chúa ngưỡng mộ ta à? Lo nàng ấy ỷ lại không đi?"

Tất Sa sửng sốt.

Đàm Ma La Già bình tĩnh nói: "Công chúa lưu lạc ở ngoại vực, thân bất do kỷ, sau khi tìm được người nhà, nàng sẽ đi."

"Còn Vương?" Tất Sa hỏi tới, "Vương giúp công chúa, có thật chỉ là vì cảm kích và không đành lòng ư? Công chúa là người con gái đẹp nhất mà tôi từng gặp ấy."

Đàm Ma La Già nhẹ nhíu mày, "Vạn vật thế gian, trôi qua không ở, tình yêu như giọt sương, mỹ nhân như bọt nước."
Tất Sa lặng lẽ thở phào, đứng dậy, quỳ xuống lễ bái. "Thần đã vượt khuôn khổ."

La Già không hề động tâm, như vậy cũng tốt. Anh chỉ lo La Già bị Văn Chiêu công chúa đả động, chỉ xinh đẹp thôi thì không nói, Văn Chiêu công chúa còn nhiều thứ hấp dẫn người nữa, may mà La Già tâm tính kiên định.

"Tất Sa." Đàm Ma La Già ngừng bút, nhìn Tất Sa, "Cậu nói mình ngưỡng mộ Văn Chiêu công chúa, là thật hay giả?"

Ánh mắt chàng hòa nhã, không có ý vặn hỏi.

Tất Sa đổ đầy mồ hôi hột, xấu hổ đến không ngẩng đầu lên được: "Vương, thần biết tội." Anh ta làm đủ chuyện chỉ để thăm dò tâm ý của La Già, dời lực chú ý của Văn Chiêu công chúa, phòng nàng tiếp xúc với La Già.

Đàm Ma La Già khép lại chiếu thư đã viết xong: "Đừng có lần sau, ta có kiên trì giữ ngũ giới hay không, không liên can đến ai."
Tất Sa cung kính vâng lời, nhận chiếu thư, con mắt bỗng trừng lớn.

Đây là phong thư ngài tự viết cho Ngõa Hãn Khả Hãn, tương đương với quốc thư, La Già dùng quốc thư giải thích rõ địa vị của Văn Chiêu công chúa, yêu cầu Ngõa Hãn Khả Hãn trừng trị Hải Đô A Lăng.

La Già không chỉ cảnh cáo bộ hạ bổn quốc, còn nói rõ cho các nước, thông báo thiên hạ, sau này mười mấy quốc gia thành bang lớn nhỏ sau lưng núi Thiên Sơn đều biết có vị Văn Chiêu công chúa đang ở Phật Tự, được Vương che chở!

Tất Sa thầm chấn động.

"Quốc thư này, cậu tự tay đưa đến nha trướng Bắc Nhung." Đàm Ma La Già nói, giọng rất bình thường.

Đôi tay Tất Sa nhẹ run mấy lần, nắm chặt chiếu thư, cung kính vâng lời.

Anh về chỗ mình ở, thu xếp hành lý.

Thân binh tới bẩm báo: "Tướng quân, Văn Chiêu công chúa gửi ít thuốc đến."
Tất Sa dừng tay lại, "Công chúa nói gì?"

Thân binh trả lời: "Công chúa nói thuốc đó để đưa cho Nhϊếp Chính Vương, xin ngài chuyển giùm, còn nói nàng muốn gặp ngài thương lượng chuyện Vương tử về Bắc Nhung."

Tất Sa ừ một tiếng, bảo thân binh cất thuốc vào phủ Vu y.

Vu y nói, thuốc Dao Anh chọn đều là những dược liệu quý giá hiếm có ở Tây Vực, trị thương, lưu thông máu bầm, làm dịu tổn thương nội tạng, trong đó có mấy loại tìm khắp Tây Vực không có.

Tất Sa ngẩn ra một hồi, bảo thân binh cất vào khố phòng.

Thân binh vâng dạ, quay đi.

Sau lưng bỗng vang tiếng bước chân, Tất Sa đuổi tới, một tay chụp chặt bờ vai hắn. Thân binh mờ mịt, thấy trên mặt Tất Sa mây đen giăng đầy, nhìn chằm chằm mớ thuốc trong tay hắn, nhắm cặp mắt.

"Đưa qua Phật Tự giao cho Duyên Giác, nói với cậu ta, thuốc này do đoàn buôn hàng mang về. Nhớ kỹ, chuyện này không nói cho ai khác, nếu công chúa có hỏi thì nói ta đã thay cô ấy đưa rồi."
Thân binh vâng lời, mang thuốc rời đi. Tất Sa đứng tại chỗ, phiền muộn thở dài.

Chỉ mong tất cả chỉ là anh ta buồn lo vô cớ. 

-----------CHƯƠNG 56---------------

A Sử Na Tất Sa dọn xong hành trang, an bài xe ngựa, đi Phật Tự gặp Dao Anh.

Ở bức tường mộc giàn hoa quấn đầy dây leo trong viện, loáng thoáng trái đậu từng chùm, nho còn chưa chín, nhưng trái trái đầy đặn mượt mà, óng ánh trong suốt.

Tất Sa đưa tay hái hai chùm đưa vào phòng.

Dao Anh ngồi quỳ chân trước trường án, nhẹ nhíu mày, trước mặt chất một đống kinh thư lớn.

Tất Sa không khỏi cười khẽ: "Vương bảo người xem à?"

Dao Anh gật đầu cười, đẩy kinh thư ra, ngồi dậy, ra hiệu Tất Sa ngồi xuống.

Tạ Bằng canh giữ một góc khuất trong phòng cúi đầu lui ra ngoài.

Tất Sa ngồi trên nệm nỉ, ánh mắt nhanh chóng quét một vòng, trong phòng vẫn bày biện như lúc đầu, không bố trí thêm màn trướng gấm, chăn nệm mềm, chỉ thêm mấy rương đầy sách.

Văn Chiêu công chúa là một vị công chúa rất chịu được cực khổ, dễ thích nghi với hoàn cảnh.

Đây cũng chính là điểm Tất Sa lo lắng, có sắc đẹp tuyệt thế, có nhu mì uyển chuyển của cô gái nhỏ, có phóng khoáng của công chúa Vương thất, còn có khí khái cứng cỏi, anh ta rất thưởng thức phụ nữ như vậy, do vậy càng sợ Văn Chiêu công chúa tiếp cận La Già.

Liếc thấy anh kinh ngạc nhìn đến ngẩn người, Dao Anh hỏi: "Tướng quân, Nhϊếp Chính Vương không tiện gặp ta à?"

Tất Sa lấy lại tinh thần, tằng hắng nói: "Nhϊếp Chính Vương có việc quan trọng cần giải quyết, không tiện gặp công chúa, công chúa có gì muốn nói tôi có thể chuyển lời."

Dao Anh trầm ngâm một chút, Tô Đan Cổ hành tung quỷ bí, lệnh quan trọng đều cho thân binh truyền đạt, nàng muốn gặp đối phương không biết phải chờ tới ngày tháng năm nào, có mấy lời nói cho Tất Sa cũng vậy.
"Đêm đó người Bắc Nhung Tướng quân bắt được đã thả về Bắc Nhung chưa?"

Tất Sa lắc đầu: "Vẫn chưa, đêm nay tôi xuất phát đi Bắc Nhung, tự mình áp giải chúng."

Dao Anh sửng sốt: "Tướng quân đích thân áp giải chúng ư?"

Ánh mắt Tất Sa lóe lên, không nhắc đến chuyện quốc thư La Già thân bút viết kia: "Vâng, tự tôi đưa chúng về Bắc Nhung, hộ vệ Vương tử xuất hiện ở Vương cung Vương Đình, Bắc Nhung Khả Hãn phải cho Vương Đình một câu trả lời."

Dao Anh không hỏi nhiều, nói: "Ta đang muốn thương lượng với Tướng quân chuyện này, mấy người Bắc Nhung đó có thể có tác dụng lớn."

Tất Sa nhíu mày.

Dao Anh đón lấy ánh mắt thăm dò của anh ta, thoải mái nói: "Ta từng gặp khốn ở doanh địa Bắc Nhung, nghe nói rất nhiều về bí mật Vương thất Bắc Nhung. Hải Đô A Lăng là người tộc khác do Ngõa Hãn Khả Hãn nhận nuôi, mấy người con trai của Ngõa Hãn Khả Hãn không ưa gã đã lâu, Khả Hãn cũng sinh lòng kiêng kỵ với gã, nội bộ Vương thất mâu thuẫn trùng trùng, nếu Tướng quân có cách lợi dụng mấy người Bắc Nhung đó, có thể làm tăng khoảng cách giữa Ngõa Hãn Khả Hãn và Hải Đô A Lăng."
Tất Sa nheo mắt, ánh mắt nhìn Dao Anh rất khác mọi ngày: "Sao công chúa lại biết giữa Hải Đô A Lăng và Ngõa Hãn Khả Hãn đã có khoảng cách?"

Dao Anh cười khẽ: "Lúc Phật Tử cần gấp Thủy mãn thảo, Tướng quân tự mình đi Bắc Nhung đòi lại đồ cưới của ta, có phải Ngõa Hãn Khả Hãn đồng ý trả về ngay, còn trách mắng Hải Đô A Lăng không?"

Tất Sa sờ sờ cằm, nói: "Không sai."

Dao Anh nói chắc chắn: "Nếu là Vương tử khác cướp, tướng quân có đến Bắc Nhung đòi, Ngõa Hãn Khả Hãn sẽ không dễ dàng đồng ý trả về vậy đâu."

Tất Sa nhớ lại tình hình hôm đó, nhẹ gật đầu: "Đúng rồi, Ngõa Hãn Khả Hãn vô cùng khách khí với tôi, còn mắng Hải Đô A Lăng trước mọi người..."

Ánh mắt anh ta sáng lên, vỗ tay cười khẽ. "Ngõa Hãn Khả Hãn mượn Vương Đình ta cố ý chèn ép Hải Đô A Lăng !"
Người Bắc Nhung đề cao kẻ mạnh, man dã chưa mất, trong vòng một ngày chức Khả Hãn đổi chủ nhìn mãi quen mắt, ai mạnh hơn là có thể trở thành Khả Hãn mới, là cha con anh em cũng thế. Vì thế, tình thân của Vương thất mờ nhạt, khi có Khả Hãn già chết đi, bộ lạc sẽ kịch liệt rung chuyển vì tranh quyền đoạt vị, đế quốc có thể mấy năm ngắn ngủi lớn mạnh rất nhanh, dẹp yên thảo nguyên, cũng có thể trong một đêm sụp đổ, không gượng dậy nổi.

Ngõa Hãn Khả Hãn dần già đi, Hải Đô A Lăng tuổi trẻ khỏe mạnh, cũng không phải cháu ruột, Khả Hãn già đã bắt đầu phòng bị Hải Đô A Lăng .

Tất Sa hưng phấn một hồi nhướng mày nói: "Cũng có thể chỉ là suy đoán của chúng ta, Ngõa Hãn Khả Hãn muốn dẫn dụ ta thôi."

Dao Anh gật đầu, "Có thể, Ngõa Hãn Khả Hãn đa mưu túc trí, ngay lúc ấy có thể là dẫn dụ tướng quân, nhưng sau này thì không hẳn, lần này Hải Đô A Lăng đi sứ Vương Đình, xác nhận suy đoán của ta không giả."
Tất Sa híp mắt: "Ồ? Công chúa vì đâu mà khẳng định?"

Dao Anh cười: "Tướng quân, nếu ngài là Vương tử Hải Đô A Lăng, tay nắm trọng binh, Nam chinh Bắc chiến, dã tâm bừng bừng, sau minh ước của Vương Đình và Bắc Nhung, ngài sẽ ở Vương Đình nhiều lần vì một nữ tử như ta mà khiêu khích Vương Đình sao?"

Tất Sa giật mình, ánh mắt rơi trên mặt Dao Anh: "Dung mạo công chúa như thần nữ, Hải Đô A Lăng đối với người là nhất định phải được."

Ánh mắt Dao Anh yên tĩnh: "Đúng, Hải Đô A Lăng coi ta là con mồi của y, có điều y là một thợ săn kinh nghiệm phong phú, một thợ săn tỉnh táo sẽ không vì con mồi mà một mình mạo hiểm."

Tất Sa nhìn Dao Anh, ánh mắt dần dần biến hóa, không khỏi ngồi nghiêm chỉnh lại, nét mặt cũng càng thêm nghiêm túc. "Ý công chúa là?"

Dao Anh chậm rãi nói: "Đối với Hải Đô A Lăng ta có mấy phần hiểu rõ, ngoài thì thô tục trong lại tinh vi, hoài bão rất lớn, tuyệt không phải người vì một phụ nữ không để ý đến đại cục, y đây chỉ vì muốn mê muội Ngõa Hãn Khả Hãn và con trai ông ta khiến ông ta nới lỏng cảnh giác."
Nàng dám khẳng định như vậy không phải là không có nguyên nhân.

Hải Đô A Lăng ở trong sách dũng mãnh thiện chiến, nhanh chóng quật khởi, khiến các Vương tử và Ngõa Hãn Khả Hãn nghi kỵ. Đám Vương tử bố trí mai phục hãm hại Hải Đô A Lăng, y trúng kế, suýt nữa chết thảm dưới loạn đao, thân binh tín nhiệm bên người chết hơn phân nửa. Sau khi thương thế tốt lên, Hải Đô A Lăng ẩn nhẫn ẩn núp, giả bộ bị thương què chân cam chịu, hơn một năm trời y kiên trì đi đứng cà nhắc. Sau trong một lần chinh chiến y cướp được vài mỹ nhân Bắc Mạc, trong đó có một vị được gọi là đệ nhất mỹ nhân, xinh đẹp quyến rũ, am hiểu thuật phòng the, cả ngày y cùng đàn bà lăn lộn trong lều, sa vào trăng gió, bỏ quên việc quân, bộ hạ can gián y xách đao gϊếŧ tức thì.

Cha con Ngõa Hãn Khả Hãn thấy Hải Đô A Lăng thành phế nhân, sống mơ mơ màng màng, chúng bạn xa lánh, ra vào không rời khỏi phu nhân xinh đẹp, dần dần buông lỏng đề phòng. Sau này, Hải Đô A Lăng mang binh xâm nhập vào nha trướng, tự tay gϊếŧ Ngõa Hãn Khả Hãn, gϊếŧ sạch Vương thất Bắc Nhung, trở thành Khả Hãn Bắc Nhung mới.
Lúc Dao Anh còn ở doanh địa Bắc Nhung, giữa Vương tử Bắc Nhung và Hải Đô A Lăng nhiều lần minh tranh ám đấu, nàng dứt khoát thắp thêm ngọn đuốc, dẫn dụ Vương tử khác ra tay cưới động thủ cướp chiến lợi phẩm của Hải Đô A Lăng, gia tăng xung đột. Đến khi Tất Sa cầm thư đòi Ngõa Hãn Khả Hãn đồ cưới, nàng úp mở chút trong thư, khiến Khả Hãn Bắc Nhung sinh lòng cảnh giác với Hải Đô A Lăng.

Lúc này nội bộ Vương thất Bắc Nhung hẳn đang giương cung bạt kiếm.

Dao Anh khẽ nói: "Hải Đô A Lăng không phải người bị sắc đẹp mê hoặc, y và cha con Ngõa Hãn Khả Hãn chắc chắn có xung đột, nên cố ý đi sứ Vương Đình, đêm xông vào Vương cung, cố ý để Ngõa Hãn Khả Hãn nghĩ hắn là kẻ ngốc vì phụ nữ mà trở nên lú lẫn."

Nói xong, nàng cười cười, "Nhưng này đều chỉ là suy đoán của ta. Vừa vặn Tướng quân sắp đi nha trướng Bắc Nhung, ngài có thể để ý quan sát, xem có phải giữa họ mâu thuẫn trùng trùng không."
Tất Sa thầm chấn động, sửng sốt mãi rồi gật đầu. "Nếu mọi việc đúng như công chúa đoán, ta có thể từ tay mấy kẻ bộ hạ mà phá hỏng kế hoạch giả vờ của Hải Đô A Lăng, tăng cảnh giác của Ngõa Hãn Khả Hãn."

Dao Anh vỗ tay cười nhẹ, đây chính là chuyện nàng muốn thương lượng: "Mặc kệ Hải Đô A Lăng thật xúc động nhất thời xông vào Vương cung giữa đêm hay có ý đồ khác, Tướng quân đều có thể thừa cơ sinh sự, nếu ta đoán sai, Tướng quân tùy cơ ứng biến, tỷ như làm Ngõa Hãn Khả Hãn nghĩ Vương tử Hải Đô A Lăng đang muốn đạt thành thỏa thuận gì đó với Vương Đình, lúc ấy, dù Ngõa Hãn Khả Hãn chưa hề có lòng kiêng kỵ Hải Đô A Lăng cũng sẽ hoài nghi y."

Tất Sa trợn mắt. Văn Chiêu công chúa mà có thể nghĩ ra kế sách độc ác như vậy ư!

Nếu Vương thất Bắc Nhung gió êm sóng lặng, họ sẽ ly gián Ngõa Hãn Khả Hãn và Hải Đô A Lăng. Nếu Vương thất Bắc Nhung đã nổi sóng gió, họ châm củi thêm lửa, lửa rực kia càng vượng hơn.
Tóm lại, dù vì lý do gì Hải Đô A Lăng đi sứ Vương Đình, Văn Chiêu công chúa đều muốn kéo Hải Đô A Lăng xuống nước, sương sương đớp một miếng thịt, hoàn toàn làm đảo loạn Vương thất Bắc Nhung!

Thấy Tất Sa quá chấn kinh, vẻ mặt Dao Anh khó hiểu, giải thích: "Thượng binh phạt mưu, thứ yếu phạt giao*, dụng binh không đánh mà thắng là thượng sách. Chúng ta nhắc nhở Ngõa Hãn Khả Hãn đề phòng Hải Đô A Lăng, gia tăng mâu thuẫn nội bộ, suy yếu Bắc Nhung, để chúng ốc còn không mang nổi mình ốc, cũng là một trong mấy binh pháp phòng ngừa chiến tranh."

*Binh pháp Tôn Tử, đã giải thích chương trước

Bắc Nhung châm ngòi ly gián, kích động các nước Trung Nguyên khai chiến, chờ dịp để vào cướp lấy, nàng chỉ ăn miếng trả miếng thôi.

Dao Anh nói xong, đứng dậy, trịnh trọng hành lễ với Tất Sa: "Ta cũng không phải là người Vương Đình, sống nhờ ở Thánh Thành, vốn không nên xen vào bàn luận đại sự, chỉ vì cùng đứng trước uy hϊếp của Bắc Nhung với quý quốc, mới lớn mật nói ra suy nghĩ trong lòng, mong Tướng quân đừng trách. Tướng quân coi như ta trẻ người non dạ, thuận miệng nói bậy thôi."
Lòng bàn tay Tất Sa rướm mồ hôi, lặng đi một lúc rồi đứng dậy đỡ Dao Anh: "Công chúa là quý khách của Vương Đình, những lời này, người biết tôi biết, không có kẻ khác."

Dao Anh cười nhạt. Nàng không quan tâm Tất Sa nhìn nàng ra sao, chỉ cần đề nghị có chỗ phát huy là được.

Tất Sa đột nhiên hỏi: "Vì sao công chúa không trực tiếp gặp Vương đề xuất? Tôi chỉ là Tướng quân Trung quân, mọi quyết sách đều phải được Vương cho phép."

Dao Anh hấp háy mắt, ánh nhìn lấp lánh, mang theo vẻ hoạt bát gian xảo của thiếu nữ: "Không gạt Tướng quân, Pháp sư là người cao khiết bậc nào, với Pháp sư, âm mưu quỷ kế cỡ này... Ta không nói ra lời."

Đàm Ma La Già như một đoá sen đứng trước gió, thanh lãnh cao quý, thảo luận mấy chuyện này, ngài có nhíu mày đá đít nàng khỏi Phật Tự không chứ?
Tất Sa ngẩn ngơ, lập tức cao giọng cười to. "Người xem Vương là ai chứ? Ngài là Quân chủ Vương Đình..."

Cười một hồi, nỗi buồn lo của Tất Sa cũng tiêu tan mấy phần. La Già nói không sai, Văn Chiêu công chúa đối với ngài ấy không có tình cảm mến mộ, chỉ thuần túy kính ngưỡng và cảm kích.

La Già luôn thanh tỉnh lý trí, chưa từng nhìn biểu hiện mà bị mê hoặc. Dù là La Già hay là một thân phận khác.

Tất Sa đứng dậy rời đi, ra đến hành lang bỗng nhiên quay lại thò người vào phòng: "Công chúa, có câu người nói sai rồi."

Dao Anh ngẩng đầu: "Hửm?"

Tất Sa nghiêm túc nói: "Hải Đô A Lăng Nam chinh bắc chiến, dã tâm bừng bừng, y vì nhất định phải có được công chúa mà hết lần này đến lần khác khiêu khích Vương Đình, chưa hẳn hoàn toàn là diễn trò."

Dao Anh lắc đầu bật cười.

Nàng thiên sinh lệ chất, là mỹ nhân từ trong trứng, công thêm thân phận tiểu thư Lý gia, chưa xuất đầu lộ diện đã rất nhanh nổi khắp Trung Nguyên, công tử ham chơi ái mộ nhiều như cá diếc sang sông.
Mỗi khi nàng cưỡi ngựa đi dạo, đám Nhi lang nhà gia thế ruổi ngựa đuổi theo, chỉ để ngắm nàng thêm vài lần. Trịnh Cảnh, Ngũ Lang Tiết gia, Bùi công tử, Lưu công tử, Thôi công tử... bộ hạ Lý Đức, thân binh Tạ gia... rất nhiều người hâm mộ sắc đẹp nàng.

Dao Anh tin rằng họ đều ái mộ từ trong lòng, vậy thì sao chứ? Nàng sinh trong thời loạn, lớn lên trong môn phiệt thế gia, hiểu rõ còn có nhiều thứ làm cho đàn ông ham muốn chinh phục vượt xa sắc đẹp, đó chính là quyền thế.

Để leo lên đỉnh cao quyền lực, đàn ông có thể từ bỏ mọi thứ.

Đây là thời đại mà quần hùng cùng nổi lên, anh hào xuất hiện lớp lớp, đàn ông bận rộn với tranh giành quyền lực, sắc đẹp với họ mà nói, chỉ là sau khi chinh chiến dệt hoa trên gấm tô điểm thêm thôi.

Chỉ cần khoác lên hoàng bào, đã nắm thiên hạ trong tay thì sá gì mỹ nhân?
Lý Đức truy phong Đường thị làm hậu, người đời cảm thán ông đối với vợ thuở hàn vi tình sâu ý trọng, hoàn toàn quên lúc trước vì củng cố thế lực mà ông dứt khoát vứt bỏ Đường thị.

Lý Huyền Trinh và Chu Lục Vân quấn quýt si mê nhiều năm, cam tâm chết vì Chu Lục Vân nhưng vẫn vì ngôi vị Thái tử mà cưới con gái thế gia Trịnh Bích Ngọc.

Hải Đô A Lăng người như vậy, vĩnh viễn sẽ không vì một phụ nữ mà dừng bước chân chinh phạt. Mỗi cử động của y cũng chỉ vì khát vọng của chính mình.

Nhìn Dao Anh tỏ vẻ rất xem thường, Tất Sa nhếch miệng cười cười. "Công chúa, tôi không hiểu rõ Hải Đô A Lăng, nhưng tôi là đàn ông."

Là một đàn ông đối với phụ nữ mình xác định nhất định phải có, có thể không để ý đến tất cả, chó cùng rứt giậu.

Dao Anh thả lỏng. Nàng không quan tâm Hải Đô A Lăng rốt cuộc suy nghĩ gì, dù bị y giam nửa năm, dù thỉnh thoảng y thể hiện một vài lúc dịu dàng, nàng vẫn luôn tỉnh táo, nàng bị y cướp đi, y muốn chinh phục nàng.

Tất Sa hứng thú, vịn khung cửa, nhìn xuống dò xét Dao Anh. "Công chúa là con gái Trung Nguyên, người Trung Nguyên coi trọng lễ nghi, còn Bắc Nhung không thích mấy thứ rườm rà đó, chỗ bọn tôi cũng thế, đàn ông khỏe mạnh giỏi võ nhất bộ lạc có thể nhận lấy ái mộ của toàn bộ đàn bà. Hải Đô A Lăng oai hùng mạnh mẽ vậy, công chúa thật không động lòng chút nào à?"

Dao Anh ngẩng lên, nhìn Tất Sa như đang nhìn đồ đần: "Tướng quân hỏi vậy, hẳn là Tướng quân cũng ái mộ Hải Đô A Lăng nhỉ?"

Tất Sa bị chặn họng đến nghẹn.

Dao Anh cúi đầu lật xem kinh thư.

Lý Trọng Kiền nuôi nàng lớn, thương nàng yêu chiều nàng thương tiếc nàng, sao nàng có thể thiếu tự trọng, động tâm với kẻ xem mình như thứ đồ chơi?

Nàng tôn trọng mỗi một tấm chân tình, dù không thể đáp lại cũng sẽ không tùy ý coi khinh, nhưng cái loại tình cảm yêu thích kia của Hải Đô A Lăng, thứ lỗi, nàng tiêu hoá không được.
Tất Sa sờ chóp mũi, ngượng ngùng quay đi. Giờ anh ta hoàn toàn yên tâm, công chúa lý trí vậy, tuyệt đối sẽ không nhận sự nguy hiểm bị toàn bộ Vương Đình mang hận mà đi câu dẫn La Già.

...

Tất Sa về phủ nói chuyện với phụ tá một lát, hội ý lại thành điều trần đưa đi Phật Tự.

"Những kế sách này là công chúa đề nghị ạ!" Anh phăm phăm thuật lại nguyên văn lời Dao Anh, nhấn mạnh câu cuối cùng.

La Già cao thượng thế kia, chắc chắn sẽ chán ghét phụ nữ tâm cơ thâm trầm.

Đàm Ma La Già xem hết điều trần, vẻ mặt lạnh lạnh nhạt nhạt, không nói câu nào, cụp mắt, cầm bút phê chỉ thị.

Tất Sa cũng không biết mình đạt được mong muốn không, nhận chỉ thị phê duyệt rời khỏi thiền phòng. Trước khi chuẩn bị đi, anh ta còn phải đi Vương cung một chuyến.

Công chúa Xích Mã đang tổ chức yến hội, ca múa nhẹ nhàng, ăn uống linh đình, tân khách ngồi đầy uống đến say khướt, khắp nơi Vương công đại thần ôm ca cơ tầm hoan túng dục, nhạc khúc du dương không che được những tiếng mập mờ, xa hoa truỵ lạc, rượu chè say sưa.
Tất Sa tìm tới công chúa Xích Mã say chuếnh choáng, kéo tên đàn ông đang nằm trên người cô ta ra, ném ra ngoài, nói: "Công chúa, mấy này nữa ta cần đi Bắc Nhung một chuyến."

Công chúa Xích Mã nghe vậy, khoảnh khắc chếnh choáng vơi mấy phần, từ trên giường ngồi dậy, bờ vai tuyết trắng lộ ra, "Ngươi không thể đi! Quá nguy hiểm!"

Tất Sa thản nhiên: "Ta là Tướng quân Trung quân, nhận lệnh đi sứ Bắc Nhung, có gì nguy hiểm?"

Anh ngưng một chút vẻ hơi không kiên nhẫn. "Công chúa, ta khuyên người một câu, đừng làm bất cứ chuyện gì ngu xuẩn tổn thương La Già, mấy ngày ta đi, sẽ cho người chăm sóc người."

Công chúa Xích Mã trầm sắc mặt. "La Già cho ả người Hán kia vào ở Phật Tự." Cô ta lạnh lùng thốt, "Nó bị sắc đẹp mê hoặc, vứt bỏ thù nhà không thèm để ý, còn phạm vào Bất dâʍ trong ngũ giới, nó làm ra chuyện xấu hậu thế bất dung thế này, dân gian bàn tán ầm ĩ, ngươi không đi khuyên can nó, còn đến cảnh cáo ta à?"
Cô ta ngẩng lên, ngừng nhìn Tất Sa. "Ta biết, các ngươi đều nói ta cay nghiệt, âm hiểm, tùy hứng... so với La Già cao quý, ta là người đàn bà độc ác, sự vị tha của nó khiến nỗi hận của ta trở thành buồn cười."

"Tất Sa, tận mắt nhìn người nhà của mình một người tiếp một người chết thảm, ta có thể không hận à?"

Cô ta liên tục cười lạnh, ngón tay cắm sâu vào lòng bàn tay. "Sao nó cứ phải đối nghịch với ta?! Vì đâu? Năm đó ta muốn gϊếŧ sạch Trương thị, nó từ bi, không cho phép ta tàn sát vô tội, được thôi! Ta không gϊếŧ người vô tội! Giờ thì sao nữa? Sao nó lại phải đối xử rộng rãi với cô ả người Hán kia nữa?"

Nói đến đây, công chúa Xích Mã bỗng tỉnh táo lại, như suy nghĩ điều gì.

"La Già luôn thủ hạ lưu tình với người Hán... Có phải nó biết điều gì rồi không?"
Tất Sa chau mày, cầm lấy sa y cạnh đó khoác lên vai công chúa: "Không phải như người nghĩ, La Già chỉ vì cứu người, Văn Chiêu công chúa đã cứu ngài một mạng."

Công chúa Xích Mã cười lạnh.

Tất Sa thở thật dài, "La Già gánh vác trên vai đã quá nặng, người đừng gây thêm phiền cho ngài ấy nữa."

Mặt công chúa Xích Mã đầy tức giận, run cả người, nhịn một chút đè xuống cơn giận, lạnh lùng nói: "Người Bắc Nhung xảo trá tàn nhẫn, khi nào đi nhớ mang thêm người."

Tất Sa cười cười, "Đừng lo lắng cho ta, Ngõa Hãn Khả Hãn sợ La Già, không dám đụng đến ta đâu." Vừa nói vừa thở dài. "Ta nghe nói dạo này người hay cùng đám sâu bọ trong triều tiệc tùng, có ý gì thế? Nhớ đừng tổn thương thân thể."

Công chúa Xích Mã hững hờ ừ một tiếng, mặt âm u nhìn Tất Sa đi ra, lập tức gọi thị nữ: "Tất Sa đi Bắc Nhung, các ngươi theo dõi Phật Tự cho kỹ, ta không tin La Già cứu ả Hán đó chỉ là vì báo ơn! Chúng chắc chắn đã tằng tịu với nhau từ lâu!"
Thị nữ khó xử nói: "Công chúa, thủ vệ Vương cung không nghiêm, tụi tôi còn thám thính tin tức được... còn Phật Tự là chỗ ở của Vương, toàn bộ cấm vệ là cận vệ Trung quân, người của chúng ta vừa tới gần đã bị phát giác. Hơn nữa Nhϊếp Chính Vương đã về, nếu như bị ngài ấy phát hiện..."

Đôi mắt màu nâu của công chúa Xích Mã hơi nheo lại, ngắt lời: "Ngu xuẩn! Các ngươi không thể tới gần thì không thể tìm ai có thể à? Thủ vệ Phật Tự dù có nghiêm ngặt vẫn phải có kẽ hở! Cẩn thận thám thính cho ta, tìm chứng cứ chúng tằng tịu với nhau!"

Thị nữ không dám nhiều lời nữa, dập đầu vâng dạ.

Công chúa Xích Mã đứng dậy, cầm lấy một chén rượu nho, đi tới trước cửa sổ. Bóng dáng Tất Sa vội vàng xuyên qua đình viện, bước chân nhẹ nhàng.

Cậu ta trung thành tuyệt đối với Đàm Ma La Già, La Già lại phái đi sứ địch quốc.
Đôi mắt nâu của Xích Mã đầy hận thù, ngón tay siết chặt chén rượu.

Họ Đàm Ma không phải chỉ có một vị Vương tử La Già, cô ta là công chúa Đàm Ma, La Già lần lượt khiến cô thất vọng, vậy thì đoạt lại quyền hành của họ Đàm Ma vậy.

Văn võ đại thần trong triều chắc chắn sẽ đứng về phía cô ta.

...

Sau khi Tất Sa đi, Duyên Giác được phái tới bảo vệ Dao Anh. "Lúc công chúa ra cửa cần người dẫn đường."

Dao Anh thở phào, dù Đàm Ma La Già ra bài tập cho nàng nhưng vẫn cho phép sau giờ tảo khóa nàng có thể rời Phật Tự tùy tiện đi lại, đúng là quan tâm rất sáng suốt.

Lão giả Tề Niên ở ngoại thành có truyền tin, mớ tơ lụa đầu tiên trong cửa hàng đã bị giành giật hết, hỏi mớ tiếp theo nên lúc nào bán. Dao Anh khuyên đừng vội, đợi hàng trong tay người Hồ bán ra không còn nhiều lại tính.
Trước khi đi Tất Sa giới thiệu cho Dao Anh một nhà buôn người Túc Đặc, nhờ ông ta hỗ trợ nàng mua được một mảnh đất lớn, theo kế hoạch lúc đầu, để bố trí cho những người sống ngoại thành, mua thêm mấy trăm con dê, hạt giống, cây ăn quả, dành cho những người biết làm nông canh thời gian trồng trọt dâu tằm.

Tề Niên từng làm quản sự, quản lý mọi việc ngay ngắn rõ ràng.

Đội buôn hợp tác với Dao Anh đã đồng ý truyền tin giúp nàng, có điều hiện giờ Bắc Nhung cố gắng chặt đứt mọi liên hệ giữa Trung Nguyên và Tây Vực, đường phía Tây xa xôi, họ chỉ đi tuyến phía Đông, không cam đoan có thể chắc chắn đưa được tin đến nơi.

Dao Anh không nản, thêm một phần hy vọng là tốt.

Nàng từ Duyên Giác nghe ngóng xem ở Vương Đình có thợ mộc giỏi không, Duyên Giác đề cử mấy nhà buôn lưu vong người Ba Tư.

Dao Anh tìm đến, nhờ họ hỗ trợ làm mấy món đồ gỗ nàng tự chế. Người Ba Tư hông biết tiếng Hán, nàng không sõi tiếng Hồ, hai bên nói gà nói vịt mãi lâu, người Ba Tư đồng ý ngoài miệng sẽ chế tác ra thứ nàng muốn. Dao Anh nghĩ người Ba Tư chắc hẳn chẳng hiểu yêu cầu của mình nhưng thấy đối phương ra vẻ đầy tự tin, đành chấp nhận.

Xử lý xong chuyện vặt vãnh, nàng bắt đầu mời chào vệ binh.

Các bộ lạc Tây Vực có rất nhiều người bị ép lưu vong, họ có thể vì một đồng Tát San* mà vào sinh ra tử.

*Sassanid Empire, còn gọi là đế quốc thứ hai của Ba Tư, trước thời kỳ Islam Ba Tư (224- 651CN) ở Tây Á được coi là đế quốc lớn mạnh, lãnh thổ thống trị gồm Iran, Afghanistan, Iraq, Syria, Caucasus, Trung á Tây Nam bộ, một phần Thổ Nhĩ, một phần bán đảo Ả Rập, một phần vịnh Ba Tư, Tây Nam bộ Pakistan, kéo dài đến Ấn Độ.

Chưa đến mấy ngày, nhà buôn người Túc Đặc chiêu mộ được một nhóm vệ binh cho Dao Anh. Tóc đen mắt đen có, tóc xoăn mắt nâu có, tóc đỏ mắt xanh có, từ các bộ tộc bị hủy diệt.

Dao Anh tạm thời không dám đảm nhiệm người ngoài, chỉ để họ bảo vệ đám già yếu như Tề Niên, hoặc đi theo đội binh, những vệ binh vì tiền mà trung thành với nàng cũng dễ vì tiền mà phản bội nàng.

Lộn xộn mấy hôm, Dao Anh rệu rã cả người. Vừa định nghỉ xả hơi, Duyên Giác báo, mấy hôm nữa ở buổi tảo khóa Đàm Ma La Già sẽ giảng kinh, muốn nàng chuẩn bị sẵn sàng.

Dao Anh thầm không ngừng kêu khổ, chuẩn bị gì đây? Chả nhẽ Đàm Ma La Già định kiểm tra bài hở?

Làm gì ngài phải nghiêm túc vậy!

Nàng nghĩ tu tập mỗi ngày chỉ cần làm dáng một chút là được, đâu có nhớ cái gì!

Dao Anh không dám phản bác, mấy hôm sau cứ sáng sớm lại ngồi trước án ngoan ngoãn đọc sách kinh.

Sáng sớm hôm nay, nàng đã kiểm danh sách xong, ngồi trước án lật sách kinh, bỗng nghe tiếng lạch cạch lớn, một chùm nho từ bên ngoài bay đến, rớt trên bàn, nho lục tục rớt ra.

Dao Anh đọc kinh thấy chóng mặt hoa mắt, giật nảy mình, nhìn mấy chùm nho xanh xanh vàng vàng trên bàn thất thần.

Từ ngoài hành lang có tiếng tạ tội một tràng, là đám thân binh vừa rồi giỡn trong vườn ném nho qua lại, không cẩn thận rơi vào.

Tạ Thanh lập tức rút đao, đứng dậy định ra giáo huấn mấy cậu.

Dao Anh khoát tay, gọi Tạ Thanh: "A Thanh, cô ăn nho khô chưa?"

---

Mai:

Tất Sa gạt lệ: Tôi sai rồi, thật đó, tôi tưởng chỉ cần Văn Chiêu công chúa không quyến rũ La Già thì sẽ chẳng có chuyện gì, triệu lần không ngờ sẽ xảy ra chuyện!

Dao Anh: Không liên quan đến ta, ta không có.

-----------CHƯƠNG 57---------------
Trời còn chưa sáng, Dao Anh đã bị Tạ Thanh đánh thức.

Nàng nhớ hôm nay là ngày Đàm Ma La Già giảng kinh, đứng dậy rửa mặt, mặc bộ áo vải mộc mạc, vừa gặm bánh Hồ mè vừa cố xem nốt kinh trong ánh đèn chập chờn, thầm nhớ nằm lòng.

Tiếng chuông từ ngoài tường hoa vẳng đến, cách tầng tầng lớp lớp, nghe xa thăm thẳm.

Ánh bình mình vừa hé rạng, Duyên Giác tới đón Dao Anh đến đại điện, nhìn nàng ăn mặc giản dị, mái tóc dài đen nhánh búi gọn gàng cùng một cây trâm bích ngọc đơn giản, không phấn son hay đeo trang sức vàng ngọc gì khác, thỏa mãn gật gù.

Dao Anh ở viện tử góc Đông Bắc Phật Tự, cách đại điện rất xa, trên đường xuyên qua mấy hành lang thật dài bay giữa trời không. Nàng chỉ vào vài tòa viện lạc dưới chân, tò mò hỏi: "Đấy là chỗ nào?"

Mấy ngày qua nàng phát hiện ở ngoài cùng của Phật Tự có rất nhiều cung điện dinh thự xen lẫn nhau, có công sở, có dịch quán, có cửa hàng, có chỗ thanh tu dành cho Vương công quý tộc, tỷ như viện lạc nàng ở thuộc về khu này, nên nghiêm chỉnh mà nói nàng không tính là đang ở trong Phật Tự, vì vậy có thể tự do ra vào.
Phật Tự là chỗ Quân chủ Vương Đình tu tập, chiếm diện tích rất rộng, các sư tụ về, khắp nơi có thủ vệ, ngày ngày còn có rất nhiều người dân đến thăm viếng chiêm ngưỡng, vô cùng náo nhiệt, có điều trong Phật Tự có một góc viện lạc luôn bỏ trống, yên tĩnh âm u, rất ít người ra vào.

Chính khu viện tử dưới chân nàng.

Duyên Giác theo ánh nhìn của Dao Anh, nhỏ giọng: "Đó là Hình Đường."

Dao Anh không hỏi tiếp. Nàng lán mán nhớ lại, từ lúc mới sinh Đàm Ma La Già đã bị giam cầm ở Phật Tự, Vương công quý tộc muốn dọa ngài, mài mòn ý chí, cố ý nhốt ngài vào Hình Đường, mãi đến năm ngài mười ba tuổi.

Hình Đường đào xuống một tầng bán hầm, nắng sớm nghiêng chiếu qua mấy gian đình viện âm u giống như lọt vào đáy giếng cổ sâu không đáy, không thấy chút ánh sáng, u ám lạnh lẽo.
Ở đây hơn mười năm có bao nhiêu khó chịu?

Gần đến đại điện, tiếng người ồn ào lọt vào tai Dao Anh.

Đàm Ma La Già cho phép dân thường vào chùa nghe bài tuyên giảng, không kể nam nữ giàu nghèo. Từ sáng sớm người dân thành kính tề tụ dưới điện, trước bậc thềm người người nhốn nháo, dù đã cố hạ giọng nói chuyện vẫn ong ong xôn xao.

Giảng kinh sắp bắt đầu.

Đại điện xây trên mỏm đá, không giống chùa Phật ở Trung Nguyên hương khói lượn lờ, hiển nhiên Phật giáo Vương Đình hay Trung Nguyên đều giống nhau, trong quá trình lưu truyền đã tiếp thu truyền thống bản địa rất nhiều, bốn bức tường vẽ đầy bích họa tinh xảo, đỉnh mái vòm là khung lam màu xanh thật lớn rất thanh nhã, trong điện đường trống trải sạch sẽ, rất thoáng, lối đi xung quanh được xây hẹp khoảng hai người đi lọt.

Trong điện bố trí đài cao, dưới đài các vị sư ngồi đầy kín, chỗ ngồi góc bên trái trước nhất sắc vàng lấp lánh, là một đám Vương công quý tộc áo quần lộng lẫy, trong hành lang có tăng binh phòng thủ, dưới thềm có dân chúng thi thoảng tham quan.

Duyên Giác dẫn Dao Anh đến một chỗ ngồi trong góc kẹt, vô số ánh mắt bắn tới nàng, nàng thản nhiên, mỉm cười nhìn lại. Mặt họ cứng đờ.

Dao Anh vào chỗ, nhìn quanh một vòng, đa số là Vương công quý tộc và dân chúng nhìn nàng, các vị sư ổn định hơn nhiều, chỉ lặng lẽ đưa mắt dò xét nàng một lát rồi yên lặng thu về.

Các quý phụ liếc nhìn Dao Anh, nháy mắt nhau ra hiệu.

Dao Anh mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, tiếng Hồ của nàng không giỏi đến mức nghe hiểu các bà xì xào bàn tán, vừa vặn rảnh tai.

Chỉ sau chốc lát, các sư vây quanh Đàm Ma La Già đến.
Mắt Dao Anh trợn lớn, trong chốc lát không kịp phản ứng.

Đàm Ma La Già đi đến, người mặc áo cà sa rộng đỏ thắm, tay đeo cầm châu, bước đi ung dung, phiêu phiêu dục tiên, ánh mắt lạnh nhạt không chút khói lửa. Đây là lần đầu Dao Anh thấy Đàm Ma La Già bước đi, không khỏi dấy lên cảm xúc rất khác thường trong lòng, ánh mắt luôn yên lặng vây quanh chàng.

Vóc dáng chàng cao gầy, mắt như sao lạnh, khí chất trong veo.

Dao Anh nghĩ đến đôi chân trước đây không lâu còn sưng đến tím đen, áo cà sa rộng rãi che phủ, không biết chân ngài đã khôi phục thế nào.

Nhìn ngài đi ưu nhã thế này hẳn là sắp khỏi hẳn. Đề Bà Mông Đạt đã về Thiên Trúc, không rõ bệnh của ngài ấy cuối cùng là gì, Thủy mãng thảo chỉ là lấy độc trị độc, dùng lâu dài chắc chắn có hậu hoạn tiềm ẩn.

Bên cạnh có vài tiếng ho khan, có tiếng cười trộm, Duyên Giác thấp giọng nhắc nhở Dao Anh: "Công chúa..." Thấy nàng nhìn Đàm Ma La Già quá tập trung.
Dao Anh hồi phục tinh thần, phát hiện toàn bộ phụ nữ trong điện đều đang nhìn mình, phát giác được mình thất thố, thu tầm mắt.

Đàm Ma La Già đứng trên điện cao cao, vào chỗ ngồi, bắt đầu dẫn chúng tăng niệm kinh, dáng thật trang nghiêm.

Vương công quý tộc và dân chúng ngoài điện cũng ngồi nghiêm túc, cùng tụng theo, đám người sánh vai nhau, vẻ mặt tất cả rất thành kính.

Tiếng Phạn trong trẻo vang xa, nghiêm trang, rung động lòng người.

Dao Anh không khỏi nín thở, sửa tư thế ngồi ngay ngắn, tụng kinh cùng Duyên Giác. Đợi nàng tụng xong đống kinh văn mấy hôm liên tục ôm chân Phật học thuộc năm ba lần, tiếng tụng kinh ngừng lại.

Một tiểu tăng bưng quyển văn rất cung kính đi đến trước đài cao, Đàm Ma La Già tiện tay rút từ quyển văn ra một quyển, tiểu tăng cao giọng đọc lên tên một người.
Một vị sư dưới đài đáp lời bước lên, hành lễ với Đàm Ma La Già, bắt đầu đặt câu hỏi. Đàm Ma La Già trả lời vài câu, vị sư nhíu mày suy tư, chắp tay về chỗ.

Tiếp đến Đàm Ma La Già lại rút ra một quyển kinh văn, tiểu tăng liếc cái tên trên tấm vải đọc ra, một vị sư khác lại kích động đứng dậy, lớn tiếng đặt câu hỏi, nói cực nhanh, Đàm Ma La Già luôn lạnh nhạt, trả lời không hề chậm, vị sư không ngừng gặng hỏi, thậm chí còn hơi hùng hổ dọa người, chàng vẫn không đổi sắc, tuần tự trả lời. Cuối cùng, vị sư chắp tay trước ngực, vẻ rất bội phục, ngồi lại.

Tiểu tăng tiếp tục điểm danh, mỗi một vị sư được điểm danh đều phấn chấn, đặt câu hỏi cho Đàm Ma La Già, Đàm Ma La Già đáp từng câu với giọng bình thản.

Dao Anh không hiểu mấy.

Duyên Giác nhỏ giọng giải thích, này gần như là bàn luận Phật pháp, chúng tăng viết câu hỏi lên cuốn da trình lên, Đàm Ma La Già rút trúng ai, người ấy có thể cùng ngài biện luận, vạn sự vạn vật, Phật pháp Phật lý, từ không tới có, mây trên trời, cỏ dưới đất, gì cũng tranh biện được.

Dao Anh tặc lưỡi, kiên trì tiếp tục nghe, các vị sư và La Già tranh biện bằng tiếng Phạn, nàng nghe không hiểu, chỉ thấy tốc độ hai bên tranh biện rất nhanh, nhìn vẻ khó xử, hoặc mừng thầm, hoặc mất mát, hoặc vắt hết óc nghiền ngẫm cũng rất thú vị.

Sau khi Đàm Ma La Già rút khoảng mười quyển kinh văn, tiểu tăng hạ khay, vẻ mặt các sư lấy lại bình thản, bầu không khí trong điện trở nên dễ thở hơn nhiều, La Già bắt đầu thuyết pháp. Chàng giảng bằng tiếng Phạn, sau chuyển thành tiếng Hồ, ngẫu nhiên xen lẫn một ngôn ngữ khác, giọng trong trẻo, trầm ấm, âm điệu uyển chuyển như châu ngọc rơi xuống mâm, mang theo vần luật thư giãn.

Trong ngoài điện ai cũng nghe như si như say, thỉnh thoảng có phụ nữ cúi đầu lau nước mắt.

Dao Anh nghe man mán ra Đàm Ma La Già đang giảng chuyện thiện ác nhân quả, rồi sau đó hết hiểu. Nàng ngồi sống lưng thẳng tắp, quỳ nửa ngày, cả người đau nhức, nhịn không được vụиɠ ŧяộʍ đổi một tư thế.
Một ánh mắt trong lạnh quét tới.

Nhẹ nhàng, lại đầy sức sắc sảo không lộ.

Dao Anh không khỏi giật mình, lập tức thành thật, không nhúc nhích, tiếp tục lắng nghe.

Đàm Ma La Già nhìn trên đỉnh mái tóc đen nhánh mềm mại của nàng một chút rồi dời ánh mắt.

Dao Anh không dám động đậy, ngồi tiếp một khắc nữa, trong đám đông vang lên tiếng xúc động, tiếng tụng kinh liên tiếp, rồi tất cả đứng dậy, chắp tay về phía Đàm Ma La Già, đưa mắt nhìn ngài xuống đài cao, giữa các vị sư vây quanh rời đi.

Chờ bóng lưng cao gầy của chàng biến mất sau cửa điện, tim Dao Anh mới thả lỏng: Vậy xong rồi nhỉ? Ngài ấy không kiểm tra bài nàng à?

Thì ra chỉ cần nàng thành thành thật thật ngồi nghe tảo khóa là được.

Dao Anh đứng dậy định rời đi, thì mấy bóng người lướt tới.

Bát Nhã và mấy vị sư đứng trước mặt nàng, vẻ rất nghiêm túc, cười lạnh chìa ra mấy quyển kinh: "Công chúa tu tập Phật pháp, có thu hoạch được gì không?"
Dao Anh giật khóe miệng: Mừng quá sớm rồi, người kiểm tra bài còn chờ đây nè!

Bát Nhã đứng trước mặt Dao Anh, sống lưng ưỡn như khúc cây bạch dương, bắt đầu rút ra vài nội dung trong quyển kinh Dao Anh đọc. Câu hỏi vừa đúng phần Đàm Ma La Già nói Duyên Giác nhắc qua Dao Anh.

Dao Anh sửng sốt, lập tức cười thầm: Hòa thượng giúp nàng gian lận.

Dù nàng không thể giải thích sâu xa nghĩa trong sách nhưng học thuộc lòng không làm khó được nàng, đối đáp trôi chảy.

Bát Nhã nhíu mày, lật ra một quyển khác, tiếp tục hỏi. Dao Anh vẫn lưu loát thuộc lòng.

Liên tiếp hỏi mấy quyển không làm khó được Dao Anh, Bát Nhã không khỏi tức giận, hỏi: "Giải nghĩa được không?"

Dao Anh nhắm hai mắt lại, cười nói, "Không thể."

Không đợi Bát Nhã nói tiếp, nàng hỏi lại: "Thế cậu hiểu không?"

Bát Nhã vốn định phản bác, đối diện với ánh mắt cười khanh khách của Dao Anh, đỏ hết cả mặt, cậu không phải sư quy y mà chỉ là hộ vệ đi theo Đàm Ma La Già, nào dám nói mình có thể hiểu được ý nghĩa trong sách kinh? Nếu cho ra một câu trả lời khẳng định, hẳn sẽ bị hỏi đuổi đến cùng!
Cậu đành phải lắc đầu. Dao Anh mỉm cười. Bát Nhã không chịu thua, hỏi tiếp: "Mấy nay công chúa học bao nhiêu đây thôi hả?"

Dao Anh ho nhẹ, nghiêm mặt nói: "Mấy ngày qua ta dốc lòng nghiên cứu một bộ kinh văn."

Bát Nhã nhìn ánh mắt nàng tràn ngập hoài nghi: "Kinh văn gì?"

Dao Anh đọc từng chữ Tâm kinh.

Tâm kinh, còn gọi Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh, ngắn gọn tỉ mỉ, bản dịch của Đường Huyền Trang tổng cộng chỉ hơn ba trăm chữ, đơn giản rõ ràng, lại hàm nghĩa vô tận, bởi vì nó là tinh hoa rút ra từ mấy trăm bộ kinh Phật, cô đọng từ điển tịch Phật giáo mấy trăm vạn chữ mênh mông như biển khói.

*Mai chú thích: bản dịch và số chữ của Tâm kinh có nhiều phiên bản khác nhau.

Dao Anh nghĩ qua rồi, bộ kinh này ở Trung Nguyên lưu hành rộng rãi, đủ cho nàng đối phó được mấy tháng kiểm tra, nhẹ bớt việc.
Nàng đọc được rất lưu loát, vẻ mặt Bát Nhã lại mờ mịt: "Cô đọc gì thế?"

Dao Anh càng mờ mịt hơn cậu: "Tâm kinh?"

Bát Nhã nói chắc chắn: "Ta chưa từng nghe qua kinh này."

Dao Anh giải thích: "Ta đọc là bản dịch của Pháp sư Trung Nguyên Huyền Trang, có thể khác với chỗ các cậu nghiên cứu."

Bát Nhã chau mày, cùng mấy vị sư đứng cạnh liếc nhau, một người lắc đầu, mấy người nhỏ giọng thảo luận một lát, nói: "Công chúa có thể lĩnh ngộ không ạ?"

Dao Anh chắp tay trước ngực, nói: "Kinh văn sâu sắc, ta vẫn chưa lĩnh ngộ được chân nghĩa trong đó, có điều sau khi niệm mấy lần giúp tâm tình trở nên yên tĩnh ôn hòa."

Bát Nhã ngây ra, Dao Anh nếu có nói ra vài điểm cậu còn tranh cãi được, nói thế này đúng là không tìm thấy sai lầm.

Một vị sư đứng cạnh lộ vẻ vẻ tán thưởng, vuốt cằm: "Công chúa có thể lĩnh ngộ thế này, thật đúng là dốc lòng tu tập."
Dao Anh cười khiêm tốn. Mi mắt Bát Nhã giật giật. Mấy vị sư cúi chào Dao Anh rời đi.

Dao Anh hỏi Duyên Giác đứng cạnh: "Vậy là ta qua được kỳ kiểm tra rồi nhỉ?"

Duyên Giác cười cười, nói: "Công chúa biểu hiện rất tốt, sau này trong thành cũng bớt đi ít lời đồn nhảm, chỉ cần công chúa biểu hiện tốt trong tu tập Phật pháp, họ cũng không dám cố tình khó xử công chúa."

Dao Anh trong lòng chợt động. Thì ra Đàm Ma La Già dặn nàng trả lời kiểm tra cho tốt là để giúp thời gian nàng ở Thánh Thành trải qua tốt hơn.

Thấy đến giờ dùng cơm trưa, Duyên Giác đưa Dao Anh về viện tử.

Sau lưng có tiếng bước chân, một cận vệ đuổi đi theo: "Vương mời công chúa đi thiền phòng."

Duyên Giác vâng lời, hộ tống Dao Anh đi thiền phòng.

Trong viện yên tĩnh, bầu trời xanh thẳm, mây trôi nhẹ lượn lờ, mảnh hoa lá trên khung lam mái vòm tản ánh nắng chiếu qua thành màu xanh mát rượi, ánh vàng trên mấy tấm bích họa như đang nhảy nhót.

Đàm Ma La Già ngồi trước trường án đọc thư, mấy tên vệ sĩ mặc áo lam phong trần mệt mỏi quỳ gối trước đình viện, một trong số đó là hầu cận của A Sử Na Tất Sa.

Tin từ Bắc Nhung truyền về.

Dao Anh bước nhanh vào hành lang, đến ngoài thiện phòng, dừng bước, trong vô thức nín thở ngưng thần, rảo bước vào phòng.

Trong phòng mát lạnh, Đàm Ma La Già không ngẩng lên, ngón tay thon dài giơ lên, ra hiệu Dao Anh ngồi xuống.

Dao Anh ngồi quỳ thẳng thớm đối diện chàng.

Đàm Ma La Già xem xong thư, nâng tầm mắt, nói: "Hải Đô A Lăng bị thương ở chân."

Dao Anh khẽ giật mình. Đàm Ma La Già liếc qua đình viện, Duyên Giác hiểu ý, ra hiệu hầu cận của A Sử Na Tất Sa tiến lên.

Hầu cận quỳ gối ngoài hành lang, chậm rãi nói: "Khi Tướng quân A Sử Na đến Bắc Nhung, Vương tử Hải Đô A Lăng đã về nha trướng, nghe nói dọc đường y bị cướp tập kích, một chân bị ngựa hoảng đạp nát. Khí trời nóng bức, vết thương thối rữa, Vu y cứu chữa dùng sai thuốc nên đùi phải của Hải Đô A Lăng bị phế. Tướng quân nói, mấy vị Vương tử xông vào lều vải chính mắt nhìn thương thế của Hải Đô A Lăng, chân y còn đang sinh giòi bọ."
Dao Anh nghe mí mắt không ngừng giật. Quả nhiên Hải Đô A Lăng vẫn bị "hỏng" một chân. Mấy toán cướp mai phục kia hẳn là cạm bẫy của mấy vị Vương tử bố trí, y tương kế tựu kế, giả vờ hỏng một chân

Hầu cận cuối cùng nói: "Tướng quân nhớ Văn Chiêu công chúa nhắc nhở ngài rằng Hải Đô A Lăng sẽ dùng khổ nhục kế, sinh nghi chân của y không hỏng thật, phái thuộc hạ về gặp Vương xin chỉ thị, tiện hỏi công chúa một câu."

Đàm Ma La Già nhìn Dao Anh. Lập tức Dao Anh thấy không thở nổi, nói: "Đúng là ta có nhắc nhở Tướng quân A Sử Na."

Hầu cận nhỏ giọng nói: "Công chúa hiểu tính tình của Vương tử Hải Đô A Lăng như lòng bàn tay, tướng quân muốn nghe đề nghị của công chúa."

Cả viện yên tĩnh.

Dao Anh đón ánh mắt mong chờ của hầu cận, nhắm mắt nói: "Hải Đô A Lăng đã dùng khổ nhục kế, không bằng Tướng quân tương kế tựu kế, để Vương tử Hải Đô A Lăng dưỡng thương cho tốt." Hải Đô A Lăng giả bộ hư một chân, A Sử Na Tất Sa có thể lợi dụng lòng nghi kỵ của mấy vị Vương tử, làm chân đó hư thật.
Mấy hầu cận trao đổi một ánh mắt, mắt Duyên Giác canh giữ ngay cửa lộ vẻ kinh ngạc.

Đàm Ma La Già như không hề ngạc nhiên với câu trả lời của Dao Anh, không lên tiếng, cầm bút viết thư. Hầu cận đứng dậy nhận thư, cúi chào, vội vàng rời đi.

Dao Anh cũng đứng dậy rời khỏi thiền phòng, khi xuống hành lang, vừa vặn gặp mấy cận vệ dọn bàn ăn đến, nàng hờ hững quét mắt qua mâm bạc, ngớ ra.

Một mâm thịt bò nhoáng qua ngay trước mắt.

Dao Anh quay lại, ánh mắt dán lên mâm thịt bò.

Bàn ăn được đưa đến trước mặt Đàm Ma La Già, ngón tay thon dài thanh tú của chàng nhón một miếng thịt.

Dao Anh rớt cả miệng.

Trong phòng, Đàm Ma La Già phát giác ánh mắt Dao Anh nhìn chăm chú, ngước nhìn lại.

Thiếu nữ đứng trong đình viện, ngơ ra nhìn chàng, vẻ mặt như bị sét đánh.

Đàm Ma La Già dừng một chút, trong đôi mắt xanh trong trẻo có tia nghi hoặc nhẹ lướt qua.
Nàng đói bụng à?

-----------CHƯƠNG 58---------------

Dao Anh trở lại viện tử của mình, nhìn một mâm lớn bánh naan và nước ấm mà người hầu vừa dọn lên trên trường án, nhớ tới mớ thịt nướng vừa nãy bay qua trước mắt.

Nếu biết trước không cấm ăn thịt, mấy bữa nay nàng đâu cần ăn chay mỗi ngày. Trên đường về Duyên Giác có giải thích, sư ở Vương Đình không hề bị cấm ăn thịt. Phần lớn sư các nước Tây Vực đều vậy, chỉ nhắc đến tam tịnh nhục và ngũ tịnh nhục, tam tịnh nhục tức không thấy gϊếŧ, không nghe tiếng gϊếŧ, không gϊếŧ, ngũ tịnh nhục ngoài ba điều trên còn thêm hai loại: tự chết, thịt dư của điểu thú gϊếŧ.

Nói cách khác, không tận mắt nhìn thấy gϊếŧ chết động vật, không nghe thấy động vật bị gϊếŧ chết hoặc nghe nói động vật là bị gϊếŧ vì mình, không phải do mình muốn ăn mà sát sinh, chỉ là thịt, thì có thể ăn. Có điều lúc chế biến thịt không cho gia vị, sư không dính dáng tới món mặn, trong đó "mặn" chỉ hành, gừng, tỏi các gia vị có hương vị kí🇨Ꮒ ŧᏂí🇨Ꮒ.
Thêm nữa, nếu sư sinh bệnh, cần ăn mặn, cũng có thể phá lệ ăn.

Dao Anh bừng tỉnh.

Giới luật khu vực khác biệt nhỏ cũng không hiếm thấy. Tỉ như trước kia từng có quy định sư không ăn trưa, nếu giữa trưa đã ăn thì đến hôm sau mới ăn tiếp, gọi là "cầm trai". Sau khi Phật giáo truyền vào Trung Nguyên, quy định này đã thay đổi, rất nhiều sư Trung Nguyên bỏ qua cầm trai, bắt đầu một ngày ba bữa, nếu không không thể đảm bảo thể lực.

Phật giáo khởi nguồn từ Thiên Trúc, lúc đầu đại bộ phận tăng lữ xuất thân từ quý tộc Thiên Trúc, ý nghĩa cơ bản của Phật giáo quan hệ chặt chẽ với xã hội Thiên Trúc, khi vừa mới lưu truyền đến Trung Nguyên, từng phát sinh xung đột và không thích ứng với truyền thống luân lý Pháp tông Trung Nguyên. Sau đó Phật giáo nhập gia tuỳ tục, dựa vào luân lý Pháp tông của Trung Nguyên điều chỉnh thay đổi, không ngừng phát triển, thu nạp tầng lớp dân chúng phổ thông, mới có thể phổ cập truyền bá ở Trung Nguyên.
Các nước Tây Vực và Trung Nguyên vốn đã khác biệt, Phật giáo phát triển tự nhiên cũng thể hiện một diện mạo khác, ở một số ít các nước Tây Vực, toàn dân đều là tín đồ, sư sãi có địa vị cực cao, quan hệ mật thiết với quý tộc, thậm chí đôi khi Vương quyền thế tục và giáo quyền có thể khống chế trong tay một người.

Tóm lại, vùng đất khác biệt, phong tục khác biệt.

Giới luật Trung Nguyên nghiêm khắc, một vị hoàng đế Nam Bắc triều từng ban lệnh 'Cấm rượu', cấm sát sinh, yêu cầu sư không được ăn thịt, thêm nữa các nhà sư Trung Nguyên không cầm bát khất thực, được ban ruộng, khai khẩn vườn, tự mình trồng trọt, hoàn toàn có thể tự cấp tự túc, có thể không cần ăn thịt.

Dao Anh nhớ năm đó Pháp sư Huyền Trang đi Tây phương thỉnh kinh, lúc qua Tây Vực, các sư cũng ăn thịt. Nàng từng cho rằng Vương Đình sùng bái những sách kinh có dấu hiệu theo hướng Đại thừa quá độ, nên cũng không ăn thịt sống, muốn tôn trọng các sư, nhập gia tùy tục, từ lúc vào ở Phật Tự chưa hề ăn thịt, không ngờ sư trong chùa không kiêng ăn thịt.
Nói cho đám thân binh, cả đám sướng rơn nhảy cẫng – họ là lính, ngày ngày cơm trắng, thèm muốn điên!

...

Phía bên kia, Duyên Giác quay về thiền phòng báo lại Đàm Ma La Già, cười nói: "Vương, không phải chủ chùa lạnh nhạt với Văn Chiêu công chúa đâu, là do lúc người vào ở, chủ động nói chỉ ăn thức ăn chay, nên chủ chùa không sắp xếp đưa qua món khác."

Đàm Ma La Già cúi đầu lật mấy cuốn sách da, trước mắt hiện ra vẻ thiếu nữ ngây ra như phỗng, mắt muốn rớt ra ngoài, nhìn chằm chằm mâm thịt nướng của mình mà vài phần tủi thân.

Còn tưởng nàng bị lạnh nhạt. Thì ra không phải ấm ức mà chỉ đơn thuần là kinh ngạc, đại loại như "sao ngài lại ăn thịt?".

Nàng cho là mình có thể uống sương ăn gió chăng?

Mặt Đàm Ma La Già trong veo, ngón tay thon dài nhẹ phẩy cầm châu.

...

Ngày hôm sau, mâm cơm đưa đến viện Dao Anh nhiều thêm mấy đĩa thịt nướng. Đáng tiếc thịt nướng không được chế biến tỉ mỉ, chỉ sơ sài ướp vài hạt muối.
Nhưng đám thân binh đói lâu ngày vẫn khoái chí ăn mãi, gặm đến không còn mảnh xương.

Cơm nước xong xuôi, Dao Anh bảo thân binh chia nhau làm việc.

Nàng đã tìm Duyên Giác nghe ngóng, Vương Đình có vườn nho lớn, phần lớn được hái để ủ rượu nho. Rượu nho Cao Xương có tiếng gần xa, là món bán chạy, rượu nho Vương Đình không tinh khiết bằng Cao Xương, nhưng thắng ở chỗ có thể để rất lâu không biến chất.

Mảnh đất Dao Anh mua vừa vặn có mấy khoảnh trồng nho.

Trước đó Tề Niên từng nhắc qua ông biết cất rượu, nàng cho ông thử chút, dù gì cũng không nghĩ trông vào tiền họ kiếm. Chăn cừu, thuộc da đều là việc tốn thể lực, phần lớn họ đều là ít khả năng lao động mới bị bán, nàng luôn nghĩ cách tìm công việc thoải mái chút cho họ.

Dạy họ phơi nho khô? Ý này vừa chợt lóe, Dao Anh sai thân binh đi phố chợ mua ít nho khô, thăm dò nghe cách phơi nho bản địa.
Nàng ngồi trước đình viện, nhìn đám nho từng chùm từng chùm rủ xuống trước tường hoa, ngẩn người.

Nàng từng vì muốn uống rượu nho mà ầm ĩ với Lý Trọng Kiền.

Ở Trường An, giá rượu nho rất đắt đỏ.

Năm đó lính nhà Đường chinh phục Cao Xương, mang ngựa sơ sinh, phương pháp ủ nho Cao Xương về Trung Nguyên, Thái Tông Lý Thế Dân cho trồng nho trong vườn của Hoàng gia, tự mình ủ rượu, ban cho quần thần cùng hưởng. Sau này mở rộng xuống dân gian, phổ biến trong phố chợ, có điều vì chiến loạn liên tục nhiều năm, nho tươi trở nên quý hiếm, phương pháp ủ nho thất truyền, nên rượu nho trở nên hiếm hơn.

Từng có vị Thái y nói uống rượu nho vừa phải rất tốt cho phụ nữ, vừa vặn Dao Anh lên cơn thèm, đòi uống mấy chén, bị Lý Trọng Kiền quạu mặt dạy dỗ mấy câu. Nàng luôn phải uống Ngưng lộ hoàn, thần y đã dặn, trong thời gian uống thuốc tốt nhất không được uống rượu.
Nghĩ tới đây, Dao Anh chợt nhớ. Đàm Ma La Già đang dùng Thủy Mãng Thảo, ngài có biết phải kiêng thứ này không? Nghĩ một lát, lắc đầu bật cười: Đàm Ma La Già là hòa thượng, nào uống rượu?

Trong đêm, thân binh cầm mấy bao nho khô về, mở ra trên bàn.

Dao Anh vừa nhìn đã biết mớ nho khô màu nâu này chất lượng không tính là thượng thừa.

Thân binh nói: "Công chúa, đây là mớ nho khô tốt nhất trong thành, người ở chợ nói nho khô ở Vương cung cũng là họ cung cấp. Y nói, trời hè thu Vương Đình nóng bức khô ráo, nắng nhiều, mưa ít, họ hái nho rồi phơi trực tiếp, không cần làm gì nữa hết."

Dao Anh nhặt vài hạt nho khô lên nhìn kỹ màu, ngửi mùi, nếm mấy miếng, trầm ngâm một lát, xem ra phương pháp phơi nho hiện tại còn rất thô sơ.

Nàng dặn dò thân binh: "Mai ngươi ra khỏi thành nói lão Tề, không được tiếc mớ nho đã kết quả kia, thu hoạch toàn bộ, toàn bộ vườn đổi qua trồng trái cây ngọt quý hiếm, ngựa sơ sinh, nho trân châu đen*, nếu không được mua nho, bảo ông ta đi Thành Nam tìm người buôn tên Khang Đại, đổi thêm trà, tơ lụa."
* giống không hạt kháng bệnh, sản lượng cao, trưởng thành nhanh, chất lượng tốt, hàm đường lượng cao, dễ vận chuyển.

Thân binh vâng dạ, lại nhắc một việc: "Lão Tề nói ông ta có liên hệ người Sa Châu lưu vong các nơi, phần lớn họ không có cơm ăn áo mặc, ông bảo tôi về xin chỉ thị công chúa, có thể thu nhận họ không?"

Dao Anh nhíu mày. Vương Đình cuối cùng chỉ là nơi tạm thời che chở cho nàng, họ không thể đem lại phiền phức cho Vương Đình, người thu nhận càng lúc càng nhiều, không thể nhận tất cả vào Vương Đình được.

"Hiện giờ nhân số không nhiều, nhận được thì nhận nhưng nhớ kỹ, căn dặn lão Tề, bắt buộc phải lập danh sách không được thiếu một người, dựa vào đó ta còn nộp tiền thuế."

Đại thần Vương Đình hám tiền, nàng cứ theo đầu người nộp thuế, mới không bị chỉ trích quá lớn, lập danh sách cũng dễ quản lý nhân khẩu, làm cơ sở huấn luyện binh sĩ biết đánh trận. Nàng thiếu người, giờ chiêu mộ càng nhiều người càng tốt.
Thân binh gật đầu, ghi nhớ từng việc một, chần chừ chút rồi hỏi: "Có vài người Sa Châu... Lão Tề không biết nên nhận không."

Dao Anh hỏi: "Đã là người Sa Châu, sao không thể nhận?"

Thân binh đáp: "Mấy cô đó không phải người Hán, mà đều là người Hồ lưu lạc đến Tây Vực, bị thương đội bán trao tay nhiều lần, cuối cùng lưu lạc đến Vương Đình, nghe nói chỗ lão Tề chứa chấp rất nhiều người Hà Tây nên mấy cổ tới xin vào."

Dao Anh nhíu mày, nhìn thân binh một lát rồi gọi tất cả tới, ánh mắt đảo qua gương mặt từng người. Vẻ mặt nàng có phần nghiêm khắc, đám Tạ Xung, Tạ Bằng không dám đùa, ai cũng khoanh tay đứng hầu.

Dao Anh từng chữ nói: "Sa Châu, Qua Châu đều thuộc đất Hà Tây, dân địa phương dù là Hồ hay Hán, đều là con dân Đại Ngụy, các ngươi nhớ rõ chưa?"
Cả đám trầm giọng thưa vâng.

Lúc này Dao Anh mới bảo thân binh ban nãy: "Đã là người Sa Châu, lại tới xin vào, có thể nhận thì nghĩ cách nhận." Lại nói: "Nếu có người không tuân thủ quy định, quyết không nhân nhượng, lập tức đuổi đi. Chúng ta chỉ có cứu mình trước, mới có thể cứu người, bảo lão Tề cẩn thận chút, tuyệt đối đừng để xảy ra nhiễu loạn."

Thân binh vâng lời.

Liên tiếp mấy ngày bận rộn, đoán chừng A Sử Na Tất Sa sắp về, Dao Anh bắt đầu chuẩn bị đi Cao Xương, Đàm Ma La Già đã có nói Tất Sa sẽ đi sứ Cao Xương với nàng.

Trong thời gian này, mỗi sáng sớm nàng kiên trì xuất hiện ở buổi tảo khóa, dù nghe tuyên giảng không hiểu, vẫn thành thật ngồi nửa canh giờ, niệm tụng kinh văn với các nhà sư.

Đàm Ma La Già giúp nàng, nàng không thể phụ tâm sức của ngài.
Mấy vị sư với Dao Anh không đồng ngôn ngữ, thấy thái độ nàng thành kính, trẻ tuổi xinh đẹp, có thể mộc mạc, không chút phấn son, ngày ngày trời chưa sáng đã đứng dậy tảo khóa, thái độ đối với nàng hiền lành đi rất nhiều. Có điều vẫn không ai dám tiếp chuyện Dao Anh, chỗ nàng đi qua, tất cả các sư lập tức dời mắt, không dám nhìn nàng nhiều, có người nhắm mắt niệm kinh, có người thiền định, còn có người quay đầu né tránh.

Bát Nhã tức hổn hển: Rất hiển nhiên, mấy vị này định lực không đủ, vì sắc đẹp của Dao Anh tâm tình lay động, coi nàng là hồng thủy mãnh thú* mới tránh né!

*nước lũ và thú dữ: kiểu như tai họa lớn

Cậu vụиɠ ŧяộʍ phàn nàn với Duyên Giác: "Cứ mỗi lần Văn Chiêu công chúa đi ngang tiền điện, đám tiểu sa di kia rớt hết cả mắt! Cứ tiếp tục thế thì phải làm sao đây?"
Duyên Giác cười cười: "Công chúa chỉ đến điện tụng kinh lúc tảo khóa, còn lại đều không đi lại trong chùa, không cố ý dẫn dụ ai, không trang điểm múa máy khắp nơi. Các phụ nữ Vương công quý tộc trong thành cũng thường xuyên đến tiền điện nghe thiền sư giảng kinh, người nào cũng trang điểm kỹ càng, đầu đội trang sức, người đeo chuỗi chuỗi vàng ngọc, còn sợ bị so sánh ai cũng dẫn theo bốn năm thị nữ, nhiều nữ tử đến nghe giảng vậy, sao ngươi chỉ nhằm mỗi Văn Chiêu công chúa thế?"

Bát Nhã không cãi lại, im một lúc, tức giận giậm chân: "Văn Chiêu công chúa đẹp như thần nữ, đẹp hơn họ!"

Duyên Giác buồn cười chịu thua, "Sắc đẹp của công chúa trời ban, không phải tội nghiệt. Đây cũng là Phật khảo nghiệm đám tiểu sa di, nếu chúng thông qua khảo nghiệm, tức là vững tâm, còn nếu mỗi ngày mơ mơ mộng mộng, chứng tỏ tâm không vững, vừa vặn có thể ma luyện rồi."
Cậu dừng lại một lát, trịnh trọng nói, "Với Vương mà nói, cũng vậy thôi."

Bát Nhã nghĩ nghĩ, cũng có lý, đành thôi.

Dao Anh không biết Duyên Giác thật sự coi nàng là khảo nghiệm của Phật dành cho Đàm Ma La Già, ngày ngày tuân thủ đi tảo khóa.

Bình thường nàng tự đến tự đi, hôm đó, sau bài giảng kết thúc mấy vị sư ngăn nàng lại, mở miệng một tràng tiếng Phạn.

Nàng nghe không hiểu, mặt đờ ra.

Sau đó lại một tràng tiếng Hồ, một vị sư bên cạnh bất mãn, lôi kéo người kia tranh luận kịch liệt, hai người nhao nhao kích động, mấy sư khác bên cạnh tham dự vào, rất nhanh lôi cuốn sự chú ý của chủ chùa.

"Có việc gì?" Chủ chùa chạy tới hòa giải.

Tiếng cãi nhau cũng không hạ giọng mà ngược lại càng ồn ã cao giọng hơn, còn dùng tay lôi kéo đối phương, đánh bả vai đối phương, mặt đỏ tới mang tai.
Chủ chùa giận dữ, nhưng sau khi ông nghe rõ lý do, cũng không quát họ, chỉ nhíu mày nói: "Việc này ta không làm chủ được, phải do Sư tôn quyết định."

Dao Anh còn chưa nghe ra đám sư tranh luận chuyện gì, đã bị đưa cùng với cả đám đến thiền phòng của Đàm Ma La Già.

Cây táo trong vườn hoa trắng xóa đã rụng từ lâu, cánh hoa đầy đất.

Đàm Ma La Già đang xử lý công vụ, người mặc cà sa lộ vai, bả vai màu mật ong láng mịn.

Chủ chùa cung kính hành lễ rồi báo với cận vệ, đợi Duyên Giác ra hiệu đi vào, lập tức mang mấy vị sư vào thiền phòng báo lại mọi việc.

Đàm Ma La Già nghe ông nói xong, ngước mắt, nhìn về phía Dao Anh đứng trước cửa.

Dao Anh hiểu ý, đi vào.

Đàm Ma La Già bảo Duyên Giác: "Lấy giấy bút."

Duyên Giác chuyển đến một bàn trà nhỏ, mang giấy bút tới, đặt bên phải Đàm Ma La Già.
Đàm Ma La Già hỏi Dao Anh: "Công chúa có thể chép lại Tâm kinh đã từng tụng không?"

Chàng nhìn nàng, mắt như chứa một dòng nước xanh biếc, trong lạnh lại ôn hòa. Dù không cố tình có ý trấn an, vẫn khiến người bình tĩnh lập tức.

Dao Anh lấy lại tinh thần, nhẹ gật đầu, đi đến trước bàn nhỏ, ngồi xếp bằng, cầm bút bắt đầu chép lại.

Trong phòng yên tĩnh, chỉ có tiếng bút sột soạt lướt qua giấy. Sau chốc lát, Dao Anh chép xong, đưa cho Duyên Giác, Duyên Giác chuyển qua trước án của Đàm Ma La Già.

Đàm Ma La Già liếc qua thật nhanh, sau đó lại xem từ đầu, đọc rất cẩn thận.

Sau khi xem xong, chàng đặt tờ giấy xuống. "Công chúa có bản Tâm kinh bằng tiếng Phạn không?"

Dao Anh lắc đầu, phần lớn các bản Phật kinh điển tịch nguyên thủy là tiếng Phạn, sau có nhiều bản dịch khác nhau, trong đồ cưới nàng có nhiều quyển kinh Phật tiếng Phạn nhưng lại không có Tâm kinh.

Mấy vị sư nghe đến đó, xì xào bàn tán, một người trong đó vẻ mặt hơi kích động. Đàm Ma La Già hờ hững liếc y. Y vội đỏ bừng mặt, dừng tranh luận, cúi đầu.

Đàm Ma La Già bảo Duyên Giác đem giấy bút, cầm bút, đối chiếu bản tiếng Hán Dao Anh vừa mới chép ra, bắt đầu viết.

Dao Anh hơi hiếu kỳ, ánh mắt rơi xuống ngòi bút chàng, phát hiện chàng đang viết tiếng Phạn, nàng nhìn không hiểu.

Là ngài trực tiếp dịch từ nội dung nàng thuộc lòng ư?

Nàng nhìn một lúc, chưa kịp nhìn rõ, Đàm Ma La Già bỗng ngẩng đầu, ánh mắt bắt gặp nàng.

Dao Anh khẽ giật mình, nhìn chàng cười cười, mày hơi cong, hai con ngươi đen nhánh tỏa sáng. Như hoa đầu cành, nở rộ rực rỡ xinh đẹp, tràn đầy kiêu ngạo tự mãn của thanh xuân, ánh mắt tràn ngập tin cậy.

Giờ không so đo chuyện mình ăn thịt nữa nhỉ?
Đàm Ma La Già rũ mắt, chỉ vào một câu trên giấy, nhẹ giọng hỏi Dao Anh.

Dao Anh lấy lại tinh thần, thấp giọng trả lời.

Đàm Ma La Già ừm một tiếng, cầm bút sửa lại chữ ban nãy viết, lát sau lại hỏi, Dao Anh nghiêm túc đáp. Họ nói chuyện bằng tiếng Hán, cận vệ phòng thủ và các sư nghe không hiểu, không thể xen vào, chỉ đứng nín hơi yên lặng không nháy mắt chăm chú nhìn họ, quan sát thần sắc họ.

Dao Anh ngồi cạnh Đàm Ma La Già, chàng hỏi một câu, nàng đáp một câu.

Nàng nhìn qua vẻ mặt căng thẳng, trông đợi của mấy vị sư, đàng hoàng nói: "Pháp sư, ta cũng không hiểu rất rõ ý nghĩa trong kinh, Pháp sư có muốn tìm vài người hỏi không?"

Đàm Ma La Già cúi mày, nói: "Không việc gì, công chúa chỉ cần thuật lại nguyên văn là được."

Cũng không biết cuối cùng mất bao lâu, chàng đã dịch xong, cầm một trang sao lại, đưa cho Duyên Giác.
Duyên Giác giao cho mấy vị sư đang chờ đợi, họ tranh nhau chuyền tay xem, lại ào ào thảo luận, xong cúi người với Đàm Ma La Già vẻ như chờ chàng phân tích.

Đàm Ma La Già nói mấy câu.

Mấy vị sư sửng sốt mãi rồi lộ ra vẻ đăm chiêu, có người đã ngộ, người còn mờ mịt, sau một lúc lâu, cả đám chắp tay cúi chào Đàm Ma La Già lui ra ngoài.

Chỉ còn mỗi Dao Anh ngớ ra trước trường án: Chuyện gì thế nhỉ?

Nàng nhìn Đàm Ma La Già, nhỏ giọng hỏi bằng tiếng Hán: "Pháp sư, ta không gây thêm cho ngài phiền phức chứ? Sao họ lại cãi nhau vì Tâm kinh?"

Đàm Ma La Già khẽ lắc đầu, ra hiệu không có gì, nói: "Họ chưa từng được đọc bản tiếng Phạn của Tâm kinh, sách khắp nơi cũng không tìm được ghi chép, nghi ngờ đây là quyển kinh giả nên cãi nhau, không liên can đến công chúa."

Dao Anh đầy kinh ngạc, nghĩ nghĩ, quả quyết nói: "Vậy sau này ta không niệm nữa."
Tông phái Phật giáo như rừng, Phật pháp ở Tây Vực chịu ảnh hưởng Thiên Trúc càng sâu, lại dung hợp với phong tục truyền thống bản địa, xen lẫn rất nhiều thứ nàng không hiểu, nàng không muốn bởi vì mình vô tình mà xúc phạm người khác.

Đàm Ma La Già cúi nhìn Tâm kinh Dao Anh vừa mới chép lại, nói: "Công chúa không cần để ý, Tâm kinh thật hay là giả, không phải do họ thừa nhận, cũng không vì không có nguyên bản tiếng Phạn, kinh văn vẫn chứa Phật lý. Phật diệt độ đã hơn nghìn năm, các tông các phái giải thích nghĩa kinh khác nhau, Phật kinh điển tịch sáng tác phong phú, chả nhẽ thứ họ chưa từng xem qua đều là giả sao?"

Dao Anh bừng tỉnh hiểu ra, vừa rồi mấy vị sư vì Tâm kinh ai cũng cho mình là đúng, mới mời Đàm Ma La Già phân tích, đây cũng là đáp án ngài đưa ra.

Thảo nào các vị sư đều bị thuyết phục. 
-----------CHƯƠNG 59---------------

Việc các sư ở Phật Tự tranh luận Tâm kinh là thật hay giả không ảnh hưởng đến Dao Anh, có điều nàng cảm giác họ vẫn bí mật bàn tán mà không cãi nhau trước đám đông thôi. Bát Nhã Duyên Giác cũng bị kéo vào, Dao Anh nhiều lần bắt gặp cả hai tức giận, như vừa tranh chấp với mấy người khác.

Nàng là người ngoài, không tiện hỏi thăm việc chùa, liền về viện tử vùi đầu vào bận rộn riêng mình.

Lão Tề sau khi được nàng căn dặn đã nhận các cô gái người Hồ đến xin ở, đổi được một lượng trái cây, ngựa con chỗ Khang Đại, Khang Đại nói gã không có nho đen trân châu, vì nho này vị chua, hơi đắng, hạt tròn nhỏ, là chủng loại không được ưa chuộng, khó thấy ở Tây Vực.

Dao Anh sai Tạ Bằng truyền lời, bảo ông nghĩ cách dụ mấy nhà buôn người Hồ đi Cao Xương kiếm nho trân châu đen, loại này lúc chín đúng là không ngọt đậm như nho khác nhưng rất thích hợp dùng để cất rượu.
Thời tiết ngày càng nóng bức, trái cây bội thu, Dao Anh và thân binh ngày ngày được ăn nhiều trái cây mới mẻ, ở Trung Nguyên chỉ có ở cung yến Hoàng gia mới có thể thấy dưa Hồ, ở đây chỗ nào cũng có, cảm tạ trời cho bữa ăn, bụng lộn xộn mất mấy ngày.

Hôm nay, thân binh của A Sử Na Tất Sa cưỡi ngựa về báo tin, Tất Sa muốn hoãn mấy ngày mới về, Hải Đô A Lăng quá giảo hoạt, anh không tìm được cơ hội ra tay, không cam tâm trở về tay không.

Duyên Giác nói, trời quá nóng, giờ không phải là lúc thích hợp để đi đường, đợi Tất Sa về vừa vặn trời chuyển lạnh, khi đó đi sứ Cao Xương, đỡ chịu vất vả.

Dao Anh xem thời gian, thành thạo gói thêm mấy món áo quần da dày. Dù ban ngày trời rất nóng, nhưng không giống cái oi bức ẩm ướt ở Kinh Nam, chỉ cần trốn vào phòng hay dưới bóng cây đã rất mát mẻ, đêm lại rất lạnh, trời nóng bức đến tối khi chìm vào giấc ngủ cũng phải đắp chăn lông.
Hiện giờ cạnh nàng chỉ có thân binh, một đám đàn ông bỗ bã, Tạ Thanh cũng không phải thị nữ, nàng tự mình chăm sóc sinh hoạt thường ngày, chuẩn bị vật dụng tùy thân kỹ càng, khỏi có sự cố khi lên đường.

Liên tiếp bận rộn mấy ngày, Dao Anh nhớ đến một việc, hôm nay tảo khóa xong, thăm dò được Duyên Giác đang ở chủ điện, tới tìm cậu.

Cận vệ biết thân phận nàng, dẫn nàng vào trong, lúc này sau tường có tiếng la hét ầm ĩ.

Dao Anh đi đến thăm dò.

Bát Nhã đang đứng trong sân đình cãi nhau với mấy sư, nắng trên đỉnh đầu rất độc, muốn hoa cả mắt, cả đám đứng giữa nắng chang chang cãi nhau mặt đỏ đến mang tai, đầu đầy mồ hôi, nước miếng văng tung tóe, thỉnh thoảng lôi kéo xô đẩy đối phương.

Dao Anh tránh sang bên trong hành lang, thập thò nhìn.

Lần đầu thấy các sư cãi nhau nàng còn rất kinh ngạc, vì các sư Trung Nguyên thường sẽ không vì tranh luận mà kích động đến thô lỗ đến thế, Vương Đình không giống, khi bắt đầu cãi cọ họ vô cùng hăng máu, không chỉ dùng từ ngữ chế nhạo đối phương, còn lôi kéo cấu xé nữa.
Bát Nhã há miệng khổ sở đối phó bốn người, ầm ĩ một lát bị thua, nhưng cứng cổ không chịu cúi đầu, gấp gáp đỏ ngầu cả mắt.

Bên kia hành lang vang tiếng bước chân, Duyên Giác đi tới, nhìn thấy tình cảnh, nhẹ giọng quát lớn Bát Nhã bảo cậu nhận thua.

Bát Nhã buồn bực không nói.

Thấy giằng co căng thẳng, Dao Anh ho khan mấy tiếng, chậm rãi bước thong thả ra hành lang râm mát, mỉm cười nhìn cả đám: "Nắng nóng khó nhịn, mát mẻ khó được."

Hai chữ mát mẻ thâm ý sâu sắc, mấy vị sư giật mình, chắp tay chào nàng đi thẳng. Bát Nhã trừng mắt theo bóng lưng các sư, đầy tức giận.

Duyên Giác chắp tay cảm ơn Dao Anh, Dao Anh phất tay ra hiệu không có gì, quét mắt nhìn Bát Nhã một vòng: "Cậu biết cãi không lại sao không nhận thua?"

Bát Nhã hừ nhẹ, ưỡn ngực: "Bọn hắn bất kính với Vương, ta tuyệt đối không nhận thua!"
Duyên Giác thấp giọng mắng: "Ngươi cãi thua thì phải nhận thua! Thanh danh của Vương cũng không phải ngươi thắng một trận tranh biện mà được."

Bát Nhã không phản bác được, mặt vô cùng ấm ức.

Dao Anh nhẹ chau mày: "Vì chuyện gì mà họ bất kính với Vương thế?"

Không nói còn đỡ, vừa mới mở miệng, mắt Bát Nhã càng đỏ. "Là bọn hắn bất kính với Vương!" Cậu chỉ về hướng đám sư mới rời đi, từ từ kể ra.

Mấy hôm nay các sư trong chùa hay tập hợp thảo luận chuyện thật giả, nói đến bản dịch tiếng Phạn của Đàm Ma La Già.

Dao Anh hỏi: "Họ có chỗ nào không đồng tình với bản dịch của ngài ấy à?"

Bát Nhã trừng lớn mắt: "Vương tinh thông tiếng Phạn, không đồng ý sao được!"

Khóe miệng Dao Anh giật giật.

Bát Nhã trừng nàng mấy cái, nói tiếp: "Bọn hắn nói Vương thuộc lòng kinh văn, vốn có thể đạt thành tựu lớn hơn, sáng tác, hay dịch thuật, nhưng Vương không, ngài trễ nải tu hành."
Thì ra các sư trong chùa cho rằng Đàm Ma La Già thiên tư thông minh, nghe nhiều biết rộng, từng có cao tăng tiên đoán chàng sẽ trở thành vị Phật đức độ vĩ đại, nhưng ngài không thể toàn tâm toàn ý nghiên cứu kinh thư, không chỉ phân tâm quản lý chuyện thế tục Vương Đình, đôi khi còn phải dẫn binh chinh chiến, còn trọng dụng dung túng một Nhϊếp Chính Vương tàn nhẫn ngoan độc, tăng thêm sát nghiệt, cố sức mà không có kết quả, không thể phát dương Phật pháp tích lũy công đức, dẫn đến phúc báo, lãng phí tuệ căn của chàng.

Dao Anh như có điều suy nghĩ.

Những điều các sư nói lại vừa vặn trùng hợp nghi vấn quanh quẩn trong lòng nàng.

Tông giáo Phật giáo mọc như nấm, mỗi người mỗi vùng đều có lý giải khác biệt về nghĩa kinh, thường truyền bá tư tưởng mục đích của mình, căn cứ vào giáo nghĩa của Phật chỉnh lý thành hệ thống luận chính mình, rồi sinh ra các nhánh khác cùng tông phái, tỉ như Trung Nguyên Thiền tông, Thiên Thai Tông, Tam Luận Tông, Pháp tướng tông vân vân.
Với một vị sư lấy phổ độ chúng sinh là tín ngưỡng mà nói, hẳn sẽ hy vọng đem sở ngộ cả đời của mình đạt được viết thành kinh văn luận nghị, khai tông lập phái, chỉ dẫn phương hướng cho người đời, giúp thêm nhiều người thoát ly biển khổ, trèo được tới bờ.

Đàm Ma La Già sớm nổi danh, lại là Vương tử quý tộc, địa vị thân phận như vậy, sao không có bản viết nào để lại cho đời?

Khi còn sống ngài nổi tiếng khắp Tây Vực, chết rồi, như một làn khói xanh như Phật trước kia, không một dấu vết.

Không để lại một chút gì.

Hôm đó Dao Anh ngồi cạnh ngài, nhìn ngài dịch kinh văn tiếng Hán tại chỗ, dựa vào phản ứng của các vị sư, ngài không chỉ dịch rất nhanh, còn rất thông suốt, đến mức họ tin đúng là có bản gốc bằng tiếng Phạn.

Nàng tin chỉ cần ngài muốn, ngài có thể bắt tay luận nghị của chính mình.
Sau tuổi mười ba ngài thoát khỏi khống chế của quý tộc nắm giữ thực quyền, không ai dám ngăn cản ngài tu hành.

Dao Anh suy tư thật lâu, nghĩ chỉ có một lời giải thích miễn cưỡng chấp nhận: trách nhiệm trên vai Đàm Ma La Già quá nặng, ngài lấy cứu vớt vạn dân làm nhiệm vụ của mình, tự nhiên không rảnh ngồi sáng tác kinh văn luận nghị.

Hiển nhiên các sư cũng nghĩ vậy nên mới bàn ầm, phàn nàn ngài không tạo lòng tin cho người đời, lãng phí tuệ căn.

Bát Nhã kể xong, khịt mũi: "Sao bọn hắn có thể chỉ trích Vương thế chứ?"

Duyên Giác thở dài, nói: "Thôi sau này ngươi đừng tìm họ phân trần nữa, Vương không để ý mấy việc này đâu."

Dao Anh lấy lại tinh thần, nhìn Bát Nhã, nói: "Ta nghe nói tên cậu là Pháp sư đặt hả?" Nàng đột nhiên đổi chủ đề, Duyên Giác Bát Nhã đều mờ mịt, Bát Nhã gật đầu.
Bát Nhã sửng sốt một lát, kịp phản ứng, đỏ bừng mặt.

Dao Anh cười nhạo: "Bát Nhã trong tiếng Phạn nghĩa là thông suốt trí tuệ, tên cậu đặt không đúng lắm."

Cậu chưa kịp mở miệng, Dao Anh mỉm cười nói: "Các vị sư nói Pháp sư như vậy vì họ phó thác kỳ vọng vào ngài, cậu là đệ tử tục gia, không nên tranh về Phật lý với họ, cãi sao lại. Họ không hiểu theo đuổi của Pháp sư, dĩ nhiên sẽ không hiểu lựa chọn của ngài, dù cậu múa lưỡi giỏi cỡ nào, họ cũng có lý do phản bác thôi."

Khóe mắt Bát Nhã móc nghiêng, nhìn Dao Anh đầy nghi ngờ: "Công chúa nói vậy... Chả nhẽ cô tán đồng Vương của bọn ta?"

Dao Anh thoải mái gật đầu, nói: "Lần sau cậu mà có tranh chấp với họ, đừng vin vào Phật lý, xuất thế hay nhập thế, là lựa chọn của người, cách biệt với đời, rời xa trần tục, dĩ nhiên có thể dốc lòng tu hành, nhưng nếu như người người đều chỉ tìm giải thoát của bản thân thì Vương Đình sẽ ra sao? Bá tánh sẽ ra sao? Pháp sư là cao tăng, cũng là Quân chủ một nước, lòng ngài chứa vạn dân, không so đo được mất, sở cầu là giải thoát chúng sinh chứ không phải danh vọng cá nhân ngài."
"Các nước chia loạn mấy mươi năm, dân chúng lang bạt khắp nơi, mạng như cỏ rác, Vương Đình có thể yên ổn thái bình, dân các tộc an cư lạc nghiệp, phố chợ náo nhiệt, dân buôn tụ về, hàng hóa các nước rực rỡ muôn sắc..."

Dao Anh đứng trước hành lang, đôi mắt sáng tươi đen nhánh, từng chữ nói: "Đó chính là giải thích của Pháp sư về Phật pháp, chính là thành tựu của Pháp sư!"

Trong thời loạn, Đàm Ma La Già phù hộ sinh linh một phương.

Dao Anh vĩnh viễn kính nể dạng người này, vì nàng biết rõ mùi vị giãy dụa cầu sống trong thời loạn là thế nào.

Duyên Giác Bát Nhã thầm chấn động, nhìn gương mặt xinh đẹp của Dao Anh, thật lâu không nói gì.

Sau một lúc, hai người nhìn nhau, thở dài: "Nhưng các sư trong chùa không cho là như vậy."

Dao Anh không khỏi cảm khái.

Người ôm củi vì mọi người, không thể bị chết cóng trong gió tuyết. Nhưng sự thật thì, anh hùng mà người đời khắc ghi, thường cô độc trống vắng.
Thật ra Duyên Giác Bát Nhã cũng có phần tán đồng quan điểm các sư nên khi tranh luận không đủ lực, dĩ nhiên không thể thắng phản biện. Họ là cận vệ trung thành nhất bên cạnh Đàm Ma La Già, cũng không có cách nào lý giải Đàm Ma La Già.

Tuy nói người lý trí sáng suốt như Đàm Ma La Già không cần người bình thường lý giải, Dao Anh vẫn tiếc nuối cho ngài.

Nàng nhìn Bát Nhã: "Cậu có thể từ góc độ khác mà phản bác, sau này mà họ có bàn tán về Pháp sư ấy, cậu hãy hỏi, mười năm trước, là ai dẫn Trung quân đánh bại Bắc Nhung? Là ai cứu dân Vương Đình? Phật Tự là ai phù hộ? Ăn ở của họ do ai cung phụng? Phật lấy lòng từ bi, Pháp sư có thể thấy chết mà không cứu à?"

Dao Anh hấp háy mắt. "Trung Nguyên bọn ta có câu, bưng bát lên ăn cơm, buông bát xuống mắng mẹ."

Cặp mắt Bát Nhã tỏa sáng.
Dao Anh nói tiếp: "Nếu họ nói mọi thứ đều là hư ảo, kinh nghĩa mới là cứu rỗi cuối cùng thì cậu bảo họ ngẫm lại chuyện Pháp sư Đề Bà Mông Đạt đi."

Phật giáo xuất phát từ Thiên Trúc, nhưng vì các nguyên nhân phức tạp, giáo lý thượng kỳ chưa thích ứng diễn biến thời sự, ngày càng xa rời nhu cầu của dân chúng, kết quả? Phật pháp Thiên Trúc dần dần suy sụp. Đề Bà Mông Đạt cảm ngộ được, mới trằn trọc ngàn dặm đi Trung Nguyên, Tây Vực, muốn tìm kiếm dòng chảy chân lý của Phật pháp.

Bát Nhã tán đồng gật đầu, chần chừ rồi nghiêng sang Duyên Giác nói vài câu bằng tiếng Phạn, vẻ mặt trịnh trọng, vừa nói vừa liếc liếc Dao Anh.

Dao Anh mỉm cười nói bằng tiếng Hồ: "Sao hả, tiểu sư phụ Bát Nhã đang nói xấu ta à?"

Bát Nhã đỏ bừng mặt, hứ một tiếng, uốn éo người chạy mất.
Duyên Giác chắp tay với Dao Anh: "Bát Nhã mới vừa nói, công chúa vào ở Phật Tự đến nay, rửa sạch phấn son, trung thực tu hành, chuyện gì cũng cân nhắc cho Vương, có thể thấy người đối với Vương là thật lòng, trước kia cậu ấy đã trách oan người."

Dao Anh ngây ra, lắc đầu bật cười, nói: "Đáng tiếc, mấy ngày qua ta khổ học tiếng Phạn, học được mấy câu mắng người, đang chuẩn bị cãi nhau với Bát Nhã bằng tiếng Phạn ấy."

Duyên Giác cười khẽ: "Công chúa cao quý như vậy, học mấy câu thô tục làm gì?"

Dao Anh lắc đầu, nghiêm túc nói: "Tiểu sư phụ Duyên Giác, ta với cận vệ học tiếng Phạn, để khi cậu ấy mắng ta ta hiểu được, còn có thể phản lại tại chỗ."

Duyên Giác cười ha ha.

Trước tường hoa xanh um tươi tốt, dây leo bò đầy, hai người đi dưới hành lang nói cười, bỗng ở chỗ hẻo lánh ánh lên sắc vàng.

Dưới gốc cây có tiếng ừng ực trầm thấp.

Duyên Giác lập tức dừng bước, giơ cánh tay che trước người Dao Anh.

Trong bóng tối ẩn hiện ánh vàng, một con báo đốm từ trên tường đất nhảy ra, dáng vẻ mạnh mẽ, màu lông bóng loáng, đôi mắt phản xạ ánh nắng sáng ngời.

Trên mặt Duyên Giác lướt qua một tia kinh ngạc, đảo cực nhanh một vòng, cười thấp giọng trấn an Dao Anh: "Công chúa không cần sợ hãi, A Ly sẽ không vô cớ đả thương người."

Dao Anh nói khẽ: "Không sao, con báo này đã từng cứu ta." Đêm đó Tô Đan Cổ và báo đốm đột nhiên xuất hiện, cứu nàng từ trong tay Hải Đô A Lăng, giờ gặp báo đốm, nàng không sợ hãi như trước nữa.

Báo đốm đứng thẳng người, lắc lắc đuôi, ung dung dạo vòng quanh hai người, dáng vẻ rất lười biếng như đang tuần tra trên lãnh địa của mình.
Dao Anh cụp mắt không nhìn nó. Báo đốm nhìn nàng, không biết có phải thấy nàng quen mắt, bỗng thò người ra móng vuốt chụp lấy mép váy nàng, cái đầu xù lông cọ cọ vào váy nàng.

Duyên Giác thở nhẹ, hai tay nắm lại, khẩn trương nhìn báo đốm, cạnh trán mấy giọt mồ hôi lăn xuống.

Dao Anh cứng đờ người, nín thở, không dám cử động.

Gió khô thổi qua, tóc mai rơi xuống một cọng phất qua phất lại trên mặt, có chút ngứa. Duyên Giác nhìn Dao Anh lắc đầu: Công chúa, đừng nhúc nhích.

Báo đốm đến càng gần, gần đến mức nghe được hơi thở của nó,

Dao Anh chợt rùng mình, răng cắn chặt, mặc cho báo đốm tiến đến trước chân. Ngay lúc nàng sắp không kiên trì nổi, đột nhiên toàn thân báo đốm run lên, quay đầu nhìn quanh, hít một hơi, nhẹ nhàng vọt lên tường đất

Dây leo lung lay vang động, bóng con báo lộng lẫy biến mất trong bóng râm.
Dao Anh đứng yên thêm một lúc, xác định báo đốm không quay lại, thở phào thật dài.

Duyên Giác nhận lỗi: "Không ngờ A Ly trốn ở đó, làm công chúa sợ hãi."

Dao Anh cười cười, ra hiệu không sao. Duyên Giác đưa nàng về, đưa mắt nhìn bóng lưng của nàng đi xa, lập tức quay người, bước nhanh qua hành lang.

Phía trước ánh vàng chớp động, báo đốm nện bước chân ưu nhã giữa vườn, nhẹ nhàng bò lên hành lang ngoắc đuôi đi tới một người, ngóc đầu cọ sát vào chân người.

Người ấy cúi đầu, một đôi mắt xanh biếc thăm thẳm. Báo đốm ngẩng đầu, mong đợi nhìn chàng chăm chú. Chàng cúi người, mở bàn tay, trên cổ tay quấn mấy vòng cầm châu.

Báo đốm cọ xát lòng bàn tay chàng, phát ra tiếng ư ử nũng nịu thỏa mãn nằm nghiêng dưới chân chàng, bắt đầu liếʍ ɭáρ móng vuốt.

Duyên Giác theo vào sân, quỳ một chân: "Vương, Văn Chiêu công chúa vừa đến."
Đàm Ma La Già ngước mắt ừ một tiếng, một thân áo tăng màu xám nhạt, nổi bật lên dáng người rất cao. "Sao A Ly ở đây?"

Duyên Giác nói: "Thuộc hạ không biết, chắc do người canh giữ lười biếng trong giây lát để nó lén chạy ra."

Đàm Ma La Già mặt bình tĩnh, nói: "Đưa nó về vườn thú, đừng để nó dọa người."

Duyên Giác biết vừa rồi Đàm Ma La Già đã thấy dáng vẻ báo đốm chọc Văn Chiêu công chúa, cung kính vâng dạ.

Đàm Ma La Già đưa tay, cầm châu khẽ động, ra hiệu. "A Ly, đi."

Báo đốm ngoan ngoãn đứng dậy, đi theo Duyên Giác xuống hành lang.

Duyên Giác dẫn báo đốm, nhẹ chân nhẹ tay ra khỏi sân, sau lưng đột nhiên nghe tiếng Đàm Ma La Già. "Văn Chiêu công chúa đến có việc gì?"

Duyên Giác khẽ giật mình, xoay người nói: "Văn Chiêu công chúa nói... Đêm đó lúc Nhϊếp Chính Vương cứu nàng hình như bị thương, không biết đã lành thương chưa, nàng luôn ghi nhớ, nếu Vu y thấy thuốc nàng tặng hữu dụng nàng lại gửi thêm."
Đàm Ma La Già nhẹ cau mày: "Thuốc gì?"

Duyên Giác nhỏ giọng nói: "Công chúa lo lắng cho thương thế của Nhϊếp Chính Vương mới nhờ Tướng quân A Sử Na đưa ít thuốc... chắc ngài ấy quên mất."

Đàm Ma La Già không lên tiếng, khuôn mặt trầm tĩnh lạnh nhạt.

Duyên Giác đợi một lúc không thấy Đàm Ma La Già dặn dò gì, đang chuẩn bị chào đi thì, Đàm Ma La Già gọi lại: "Nói với công chúa, không cần gửi thuốc nữa, đều đã nhờ ý tốt của nàng."

"Vâng ạ." Duyên Giác dẫn báo đốm rời khỏi đình viện.

Đi hết hành lang, đột nhiên cậu dừng trước bức tường hoa, quay lại nhìn bức tường dây leo bò rậm rịt, khẽ cau mày.

Lúc Văn Chiêu công chúa và Bát Nhã nói chuyện, có phải Vương vẫn đứng ở sau đấy không? Vương nghe được mấy lời vừa rồi của Văn Chiêu công chúa không nhỉ?

Văn Chiêu công chúa nói các vị sư trong chùa không hiểu Vương, ai hiểu Vương đây?
Duyên Giác ngây ngẩn một lát, báo đốm không kiên nhẫn chụp hờ cậu một trảo, cậu cười mắng: "Hôm nay ngươi lại hù công chúa rồi!"

Một người một báo theo con đường nhỏ ít ai lui tới ra khỏi Phật Tự, thẳng đến vườn thú.

...

Từ khi Dao Anh dạy Bát Nhã cách cãi lại mấy sư, cậu thay đổi thái độ trước đó đối với nàng, thỉnh thoảng tới xin góp ý.

Cậu rất hứng thú với tiếng Hán, nhất là khi từ chỗ Dao Anh cậu học mấy câu mắng chửi mà không thấy thô tục xong, càng muốn học như khát nước. Ban đầu Dao Anh còn kiên nhẫn dạy, sau thấy phiền quá, hễ Bát Nhã đến, nàng đuổi thân binh ra dạy cậu ta mắng chửi người thế nào.

Bát Nhã khó thở, ưỡn ngực nói: "Không phải công chúa định học tiếng Phạn à? Tôi dạy người tiếng Phạn! Công chúa dạy tôi cách mắng chửi Trung Nguyên, chúng ta giao dịch công bằng! Tôi chắc chắn sẽ chỉ bảo rất tốt."
Dao Anh suy tính mãi thấy cũng không tệ, đồng ý tiếp tục dạy Bát Nhã. Hai người là sư đồ qua lại, học được mấy ngày, Bát Nhã học xong vài câu tiếng Hán đơn giản, Dao Anh cũng học được vài câu mắng người tiếng Phạn.

Đến ngày dân Vương Đình hái xong nho chuẩn bị đem phơi nắng, vệ binh ở Sa Thành gửi về một tin: Tất Sa đi sứ Bắc Nhung đã về, là đi xe ngựa về.

Dao Anh lập tức kiểm tra hành lý, bổ sung ít vật dụng, chỉ chờ Tất Sa về liền xuất phát.

Hôm Tất Sa trở về, Duyên Giác ra ngoài thành đón, mãi đêm mới về Phật Tự. Cậu đem về một tin xấu: Tất Sa bị thương ở chân nên mới ngồi xe ngựa về nước.

Dao Anh nhíu mày: chuyến đi Cao Xương dời lại nữa à?

Nàng còn chưa kịp bàn với Tất Sa thì Duyên Giác đã đưa tới vài con ngựa tốt để nàng và thân binh chọn. "Công chúa, mấy hôm nay người hãy kiểm kê kỹ người ngựa, hành lý, ba ngày sau xuất phát."
Dao Anh kinh ngạc hỏi: "Tướng quân A Sử Na lành lại rồi à?"

Duyên Giác lắc đầu: "Tướng quân A Sử Na bị thương ở đùi, trong vòng một tháng không thể cưỡi ngựa... Vương nói việc này không nên chậm trễ, ngài phái Nhϊếp Chính Vương đi cùng công chúa."

Tô Đan Cổ?

Dao Anh giật mình, gật gật đầu, Tô Đan Cổ từng đi Cao Xương, quen thuộc đường xá, có hắn cùng đi không còn gì bằng.

Dù Tô Đan Cổ hung thần ác sát, nhưng nàng không hề thấy sợ hắn.

Hắn không phải người độc ác. 

-----------CHƯƠNG 60---------------

Hôm sau, Tất Sa nghe nói ngày mốt Dao Anh sẽ cùng Tô Đan Cổ đi sứ Cao Xương, kiên quyết phản đối: "Ta không đồng ý!" Anh càng nghĩ càng thấy bất an, giãy dụa đứng xuống đất. "Ta muốn gặp Vương!"

Bọn thị nữ nhìn nhau, không dám ngăn cản.

Rèm cửa khua nhẹ, công chúa Xích Mã bưng một mâm trái cây tươi vào, thấy thế, tiện tay thả lên bàn bên cạnh, vọt tới trước giường đỡ Tất Sa, cả giận nói: "Ngươi điên rồi? Ngươi đang bị thương, đi gặp La Già thế nào?"
Tất Sa cắn răng nói: "Ta nhất định phải gặp Vương, giờ thời tiết nóng bức, không nên xuất hành, qua tháng sau vừa vặn mát mẻ, vết thương ta cũng tốt hơn, công chúa có thể chờ một tháng nữa!"

Công chúa Xích Mã đỡ anh ta về giường, cười lạnh: "Ngươi quan tâm ả công chúa Hán đó à?"

Tất Sa khẽ cau mày: "Xích Mã, đi sứ Cao Xương là chuyện lớn trong triều, người đừng nhạy cảm."

Công chúa Xích Mã nheo mắt, trong đôi mắt màu nâu nhạt lướt qua một tia khinh thường: "Chỉ bằng một cô gái Hán như ả, Cao Xương đồng ý kết minh à?"

Tất Sa liếc cô ta, cười khổ lắc đầu. Thật ra kết minh chỉ là phụ... Anh kéo công chúa Xích Mã ra, cất giọng gọi cận vệ bảo dìu mình lên xe ngựa đi Phật Tự. Công chúa Xích Mã cản không được, giận điên, đứng trước sân nhìn bóng anh tập tễnh leo lên xe ngựa, suýt nữa nghiến bể răng ngà.
Tất Sa đón xe đến Phật Tự, tùy tùng vào thông bẩm, chỉ chốc lát vòng trở lại. "Tướng quân, đêm qua Vương đã bế quan tu hành, chuyên tâm thiền định, không gặp bất kỳ ai. Chủ chùa nói, lần này Vương sẽ bế quan mấy tháng ạ."

Tất Sa nắm chặt hai tay, nhắm mắt. "Đi vườn thú."

Người hầu vâng lời, đánh xe ngựa ra Phật Tự, vòng qua tường biên phía Bắc đi vào một tòa viện lạc rất lớn, thấp thoáng tùng bách phía trước.

Trong viện phòng ốc lầu các xây cao thấp bám theo sườn núi, thưa thớt tinh tế, khắp nơi râm mát, một dòng nước chảy uốn lượn vòng quanh đình viện, cạnh bờ sông cây lớn rậm rạp tươi tốt.

Tùy tùng đỡ Tất Sa xuống xe ngựa. Tất Sa lòng nóng như lửa đốt, đẩy người hầu ra, không để ý mình bị thương, ba chân bốn cẳng vội vàng lết lên thềm đá.

Đột nhiên vang tiếng bước chân, cận vệ phòng thủ rút đao tiến lên đón.
Tất Sa lấy ra lệnh bài đồng mặt quỷ, nói: "Ta muốn gặp Nhϊếp Chính Vương!"

Cận vệ nhìn thấy lệnh bài, cẩn thận phân biệt không sai, lập tức tra đao vào vỏ, nhường đường.

Trong hành lang mơ hồ có tiếng bước chân thả nhẹ hết sức, tất cả ám vệ im ắng lui về chỗ cũ.

Tất Sa cất kỹ lệnh bài, xuyên qua đường hẻm giữa hai hàng bạch dương, đình viện dây leo bò đầy, vòng qua cửa hiên âm u thật dài, đi vào trước một cánh cửa ẩn mình.

Anh ta đẩy cửa, sờ soạng đi xuống cầu thang chật chội, đi vào một địa lao kín không kẽ hở, thâm trầm âm u.

Lao thất yên tĩnh, không đốt đèn, tối đến mức không thấy được năm ngón tay, giống như một con thú lớn há mồm thật rộng, nằm chờ trong chỗ tối chờ nuốt trọng con mồi.

Tất Sa từ nhỏ đã sợ căn lao thất này, càng tiến vào càng sợ hãi, không khỏi rùng mình.
Trong góc hẻo lánh ánh lên một bóng sáng vàng, con báo đốm từ trong bóng tối phóng ra, đôi mắt lấp loé lân quang.

Tất Sa giật mình kêu một tiếng, lùi lại tránh, chợt khẽ động vết thương, đau đến trợn mắt. Báo đốm khinh miệt liếc anh quay người chạy đi.

Tất Sa không để ý tới cơn đau, đuổi theo báo đốm, xuyên qua con đường chật hẹp quanh co rất dài, lách qua một khe đá chật hẹp, phía trước mở ra một ánh sáng trong treo vẽ lên lờ mờ hình dáng một căn phòng kín, ánh nắng ẩn hiện, bệ đá bên cạnh lờ mờ, hơi sương mịt mờ.

Sương mù lượn lờ quanh quẩn, một bóng người cao lớn đưa lưng về phía Tất Sa đứng sừng sững ở đó, dưới bộ đồ đen là một vóc người cao lớn thon dài, cân xứng rắn chắc.

Tất Sa thở dài, quỳ một chân xuống đất. "Vương, ngài thật sự muốn đích thân hộ tống Văn Chiêu công chúa đi Cao Xương ạ?"
Người ấy quay đầu lại, trên mặt vết sẹo xấu xí bò đầy, đôi mắt xanh thẫm xuyên lớp sương mù nhìn tới, như ao nước tam sinh, cao cao trong lạnh.

"Ý ta đã quyết." Chàng khẽ nói.

Mỗi một chữ đều rất ôn hòa, lại như cả dãy núi đồ sộ đè xuống, mang theo khí thế sấm sét của vạn quân.

Mọi lời thuyết phục của Tất Sa đều kẹt lại trong cổ họng, lặng thinh hồi lâu, mới dập đầu nói: "Thần đã rõ."

...

Sắp tới đầu thu, ngày vẫn nóng bức, đêm chợt lạnh xuống đột ngột, một đêm gió lớn gào thét, lá mấy dây nho trong viện rụng phủ đầy bậc thềm.

Sáng hôm sau, Dao Anh phát hiện trên mặt đất kết một lớp sương lạnh mỏng manh.

Sáng sớm thân binh dậy luyện võ lớp sương vây quanh, ai cũng kinh ngạc không thôi.

Người hầu Vương Đình thấy thế, cười giải thích: "Đừng thấy ngày nóng kinh mà lầm, khi lạnh trong đêm cũng sẽ kết sương. Đến chừng có gió, không chừng phải mặc áo da đó! Hàng năm lá trên cây còn chưa rụng hết đã bắt đầu có tuyết rơi, ai cũng nói Vương Đình không có mùa thu, sau hè đã đến đông."
Nói xong, gã hưng phấn xoa xoa tay, "Nhϊếp Chính Vương đã ban chính lệnh, mấy ngày nữa sẽ cử hành Lễ khất hàn, năm nay thắng trận, hẳn Lễ khất hàn sẽ càng long trọng náo nhiệt hơn năm ngoái!"

Dao Anh giật mình: "Lễ khất hàn sắp đến rồi à?"

Vương Đình là quốc gia nằm cạnh ốc đảo, mùa hè khô ráo ít mưa, ròng rã một tháng không mưa là chuyện thường, nguồn nước tưới tiêu đồng ruộng, tu bổ đất đai chủ yếu là từ con sông hình thành từ băng tuyết Thiên Sơn tan ra, nên trước khi vào đông họ sẽ có hoạt động ăn mừng lớn, cầu xin mùa đông càng rét lạnh, rơi càng nhiều tuyết, đảm bảo sang năm nguồn nước dồi dào.

Dao Anh có nghe Tất Sa nói, Lễ khất hàn là một trong những ngày lễ hoành tráng quan trọng nhất ở Vương Đình, Tô Đan Cổ cũng là người Vương Đình, sao không chờ xong lễ mới đi?
Người hầu đang hứng chí bừng bừng gật đầu: "Hè năm nay còn dài hơn mọi năm, ai cũng chờ rất lâu!"

Dao Anh cười khẽ.

Không trách gã kích động thế, Lễ khất hàn liên tiếp bảy ngày, không chỉ có biểu diễn vũ nhạc rất hoành tráng còn có nghi thức cầu phúc tránh tai ương, đến lúc đó dân chúng cả thành đều ra mặt, vừa múa vừa hát, hết sức náo nhiệt. Đến ngày cuối cùng, nam nữ già trẻ mặt đồ đẹp, đeo mặt nạ, hắt nước cầu phúc cho nhau, chơi vừa vui vừa có ý cầu mau mắn.

Nàng hỏi tùy tùng: "Năm ngoái Nhϊếp Chính Vương có mặt Lễ khất hàn không?"

Người hầu nhớ lại, lắc đầu.

Dao Anh hỏi tiếp: "Còn Phật Tử?"

Gã cười: "Công chúa có chỗ không biết, Phật Tử là người xuất gia, người xuất gia xa rời vũ giới, không thể xem ca múa, Phật Tử chưa từng có mặt trong Lễ khất hàn."
Dao Anh ra vẻ suy nghĩ. Lễ hành tượng là ngày lễ Phật giáo, Đàm Ma La Già tổ chức Pháp hội, Lễ khất hàn là lễ của trần tục, ngài chưa từng có mặt... sao Tô Đan Cổ cũng không tham gia Lễ khất hàn?

Chả nhẽ hắn giống Duyên Giác, Bát Nhã, cũng là đệ tử tục gia?

Buổi chiều Tạ Bằng từ ngoại thành về, nói, trong thành đúng là đang chuẩn bị cho Lễ khất hàn, các nha thự lớn đang lau chùi, lắp đài cao biểu diễn vũ nhạc, vũ nữ ca kỹ nhạc kỹ Quy Tư mà nhóm dân buôn người Hồ thuê cũng đã đến, mấy nhà nghỉ gần ngoại thành đều đầy kín người đến tham gia Lễ khất hàn.

Dao Anh cất nghi hoặc vào lòng, trước khi đi một ngày đi thăm A Sử Na Tất Sa, thử thăm dò: "Ta nghe nói sắp đến Lễ khất hàn, Nhϊếp Chính Vương là người Vương Đình, hẳn cũng vui vẻ đoàn tụ với người nhà hay bạn bè, hay chờ lại mấy hôm, chờ qua Lễ khất hàn mới đi."
Tất Sa sửng người, cười khổ lắc đầu: "Theo ý tôi... nên để tôi hầu công chúa đi Cao Xương, dời lại một tháng là tốt nhất."

Đáng tiếc Đàm Ma La Già không đồng ý.

Anh ta phiền muộn, ngẩn ra một lúc, đôi mắt lấp lánh màu xanh biếc dụ hoặc, mãi mới lấy lại tinh thần, cười cười, nói: "Nhϊếp Chính Vương không có người thân, cũng không có bạn, xưa nay ngài ấy không tham gia Lễ khất hàn, thời gian lên đường đã định, công chúa không cần khó xử."

Dao Anh nhớ tới dáng vẻ run lẩy bẩy của người hầu khi nhắc đến Tô Đan Cổ. Với gã, hung thần ác sát Nhϊếp Chính Vương không có mặt ở Lễ khất hàn, dân chúng trong thành mới thỏa thích mừng lễ.

Tô Đan Cổ không lộ diện ở lễ vui có lẽ vì không muốn dọa người chăng?

Dao Anh nghĩ một hồi, tạm thời bỏ qua, ánh mắt rơi xuống đùi Tất Sa, hỏi: "Là Hải Đô A Lăng ra tay à?"
Tất Sa bị thương quay về, trực tiếp được công chúa Xích Mã đưa vào phủ công chúa tự mình chăm sóc. Nàng biết công chúa Xích Mã không thích mình, trước đó luôn không tìm được cơ hội hỏi thăm Tất Sa, mãi đến hôm nay Tất Sa chuyển về phủ mình ở.

"Không phải y." Tất Sa mặt lạnh lẽo, "Là thân binh của y."

Anh dựa trên giường, chậm rãi nói: "Sau khi tôi đến Bắc Nhung, thấy Hải Đô A Lăng mỗi ngày nằm trong nha trướng vờ vịt, khuyến khích mấy Vương tử đi nghiệm thương, Tiểu Vương tử vừa thấy miệng vết thương của y, oẹ một tiếng nôn thốc, Nhị Vương tử cầm chủy thủ cạo xuống chỗ thối rữa của vết thương, từng đao từng đao đều thấy xương cốt, mí mắt y đều không nháy."

Dao Anh nhíu mày: "Chả nhẽ thương thế của y là thật sao?"

Tất Sa lắc đầu: "Không, chỉ là vết thương nhỏ."
Dao Anh hít vào một ngụm khí lạnh. Vết thương của Hải Đô A Lăng chỉ là vết thương nhỏ, y cố ý điều trị chậm trễ, bỏ mặc nhiễm trùng hôi thối sinh giòi, khiến người khác cho là cả chân đã hỏng, Nhị Vương tử cầm đao cạo cũng không chút phản ứng —— chỉ là thủ đoạn mê hoặc mấy vị Vương tử!

Người đàn ông này thật sự tâm cơ thâm trầm, có thể nhẫn tâm với chính mình như thế, thảo nào Ngõa Hãn Khả Hãn và mấy con trai đều bị y lừa.

Tất Sa cảm thán: "Hải Đô A Lăng không hổ là dũng sĩ đệ nhất Bắc Nhung, có thể chịu đựng thứ người thường không thể chịu, nếu không phải người đã nhắc nhở, tôi còn tin chân y hỏng thật! Tôi nhớ lời người căn dặn, theo dõi lều y ngày đêm, phát hiện được ít dấu vết, đang định làm theo lời người cho y 'từ giả hoá thật', không ngờ y có phòng bị từ trước, tôi tấn công không được, nóng lòng thoát thân, bị thân binh y chém một đao."
Nói đến đây, khóe miệng anh móc lên, giương mày nhìn Dao Anh "Có điều tôi cũng không để Hải Đô A Lăng đắc ý quá lâu, tôi và Nhị Vương tử nội ứng ngoại hợp, giương Đông kích Tây, cố ý công kích lều y, Nhị Vương tử xuống tay rất độc ác, muốn đẩy y vào chỗ chết, lúc đầu y không muốn bại lộ, sau thấy thích khách chiêu chiêu đều ra tay sát thủ, gấp gáp, sống chết trước mắt nhảy xuống, vừa vặn bị Nhị Vương tử nhìn thấy."

Dao Anh ngầm hiểu, cùng Tất Sa nhìn nhau cười. Nhị Vương tử đã có lòng nghi ngờ Hải Đô A Lăng, kế hoạch của y xem như thất bại.

Tất Sa vỗ vỗ chân mình, dương dương đắc ý nói: "Hải Đô A Lăng không thể không chịu một trận tội, một đao kia tôi không khổ sở uổng công!"

Dao Anh cong mày, chắp tay chào anh ta, cười nói: "Tướng quân lập công lớn, Dao Anh vô cùng khâm phục!"
Nàng chuẩn bị lên đường, thay trang phục đi đường nhẹ nhàng, áo cẩm bào cổ bẻ tay nhỏ hoa văn đoàn khoa liên châu hình hươu, áo choàng, thắt bím, thắt lưng gấm, dáng người linh lung, da thịt mềm mại trắng mịn, một đôi mắt mỉm cười nhìn anh ta, khóe mắt hơi vểnh, xinh đẹp chiếu thẳng vào người.

Tất Sa chợt cảm giác trên mặt khô nóng, dời mắt, nhìn qua quầng sáng rực rỡ chiếu vào bệ cửa sổ, nói: "Công chúa... Nhϊếp Chính Vương tính tình cổ quái, không thích gần phụ nữ, lúc người đi cùng anh ta, thông cảm ngài ấy chút."

Dao Anh gật đầu: "Ta sẽ không quấy rầy Nhϊếp Chính Vương."

Tất Sa ừ.

Ngày thứ ba, đội ngũ xuất phát.

Đêm hôm trước, Dao Anh do dự không biết có nên chào từ biệt Đàm Ma La Già hay không, các sư nói La Già bế quan, ai cũng không gặp, nàng đành thôi.

Chân trời mây ngũ sắc trôi lững lờ, ánh bình minh vừa hé rạng, Dao Anh, thân binh và Duyên Giác cùng rời Phật Tự, dọc theo con đường lần đầu vào thành mà rời thành.
Lập tức trước vách núi, tiếng người huyên náo truyền đến, sắp đến Lễ Khất hàn, trong phạm vi vài trăm dặm dân du mục đều chạy về hướng Thánh Thành, giữa phố chợ người người nhốn nháo.

Dao Anh hỏi Duyên Giác: "Không cần chờ Nhϊếp Chính Vương sao?"

Duyên Giác nói: "Nhϊếp Chính Vương không ở trong thành, chúng ta trực tiếp đi Sa Thành gặp ngài."

Thời tiết dần mát mẻ, ban ngày không nóng bức như giữa hè nữa, sáng sớm họ đi, lúc giữa trưa nóng nhất dừng lại hạ trại nghỉ ngơi, đến xế chiều tiếp tục hành trình, đi mấy ngày đường, cuối cùng đã đến Sa thành.

Đoàn người dừng lại trước dịch quán bổ sung nước uống, trên đỉnh đầu bỗng nhiên nghe thấy ưng kêu vài tiếng.

Dao Anh ngẩng đầu, mạng che mặt phất phơ theo gió. Một con ưng to từ đỉnh đầu họ lướt qua, giang rộng hai cánh, bay về phía cồn cát xa xa.
Duyên Giác nhìn quanh, thấp giọng nói: "Nhϊếp Chính Vương tới."

Dao Anh nhìn theo ngón tay cậu chỉ, mặt trời chiều ngả về Tây, một người một ngựa đứng trên sườn núi, áo khoác ngắn tay mỏng, bóng người cao lớn, ngược sáng không nhìn rõ, nhưng cả người khí thế hùng hồn như tên đã lên cung, không còn nghi ngờ chắc chắn là Tô Đan Cổ.

Nàng vốn định lên đón, nhớ tới Tất Sa nhắc nhở, không làm gì.

Mấy người rót đầy túi nước, cưỡi ngựa về phía Tô Đan Cổ.

Đến gần, ánh mắt Dao Anh dừng trên mặt Tô Đan Cổ, phát hiện trên khuôn mặt dữ tợn kia có đeo chiếc mặt nạ quỷ.

Khi xuất hành, khuôn mặt kia cũng nên che đi để tránh quá làm người khác chú ý. Nhưng sao hắn lại chọn mặt nạ quỷ? So với mặt hắn, tấm mặt nạ này còn dọa người hơn...

Dao Anh hơi ngẩn người, lực tay thả lỏng, đột nhiên con ngựa tăng tốc lao vụt ra trước, tung đầy cát.
Đám người đi mấy ngày đường, sức cùng lực kiệt, còn chưa kịp phản ứng, Dao Anh đã như tên rời cung bay loạn.

Tiếng gió vù vù bên tai, sau lưng nghe tiếng gọi khẩn trương, Dao Anh rất gấp gáp, cố lấy tinh thần, đè người xuống ôm lấy lưng ngựa, cầm dây cương, đưa tay vỗ nhẹ cổ ngựa trấn an.

Con ngựa đen phun ra mấy tiếng phì phì, giảm tốc.

Dao Anh thở phào, chậm rãi ngồi dậy, nhẹ nhàng ghìm chặt dây cương.

Một ánh mắt lạnh trong suốt rơi xuống người nàng.

Dao Anh ngẩng lên, chột dạ liếc Tô Đan Cổ, trên áo bào đen của hắn vấy đầy cát, là tọa kỵ của mình lúc chấn kinh xông lên vẩy lên người hắn.

Ban ngày nóng thế này, ai cũng thay bào trắng, mà hắn luôn mặc một cây áo đen, không sợ nóng à?

Dao Anh không khỏi mỉm cười, cười nói: "Nhϊếp Chính Vương lâu rồi không gặp, ngài vẫn khoẻ chứ?"
Tô Đan Cổ không lên tiếng.

Dao Anh nhìn cặp mắt xanh biếc mặt nạ không che kín, nói: "Lần trước được Nhϊếp Chính Vương cứu, còn chưa gặp mặt cảm tạ, vết thương ngài đã lành chưa?"

Thiếu nữ ngữ khí chân thành, mềm mại, không một tia sợ hãi.

Tô Đan Cổ không nói gì, ruổi ngựa tiến lên nửa thân ngựa, vươn tay qua Dao Anh.

Dao Anh ngẩn người.

Tô Đan Cổ xoay cúi người, ngón tay thon dài móc sợi thừng quàng lên ngựa của nàng, tháo một chuỗi lá vàng quấn lại một chỗ. Dưới ánh mặt trời, trên lưng ngựa có một vết trầy nhẹ.

Dao Anh kịp phản ứng: Thì ra vừa rồi tọa kỵ bị lá vàng đâm nhói đau mới bị hoảng sợ.

Nàng nhìn mặt bên Tô Đan Cổ, thấy mặt nạ quỷ trên mặt hắn không tới mức khó coi, nói khẽ: "Đa tạ Nhϊếp Chính Vương."

Tô Đan Cổ cụp mắt, thả sợi tơ quấn trang trí xuống.
Vó ngựa lộc cộc, đám Duyên Giác đuổi theo.

Tô Đan Cổ thúc ngựa quay người, phóng lên sườn núi, bóng lưng như ngưng tụ ánh sáng đầy trời. 

Một đoàn người yên lặng đi theo.

-----------CHƯƠNG 61---------------

Cao Xương ở khoảng giữa của con đường tơ lụa, thông suốt các hướng, liên thông bốn phía, phía Tây đến Yên Kỳ, Quy Tư, Sơ Siết, phía Đông đến Y Châu, xuyên qua sa mạc Mạc Hạ duyên thích tám trăm dặm hoang vu, là đến Ngọc Môn quan, đi tiếp về Đông, là Qua Châu, Sa Châu.

Trước mắt, Hà Tây nằm dưới khống chế của Bắc Nhung, đường đi cách trở trùng điệp, mua bán ở Cao Xương cũng suy yếu theo. Lúc trước, nơi đây có khách điếm, dịch quán xây san sát nhau dọc theo ốc đảo, người đông chen chúc, có dân buôn các nước, nhạc kỹ nữ kỹ người Hồ giỏi múa hát. Bây giờ, trên con đường giao thương rất hiếm thấy các đội lạc đà đến từ Trung Nguyên đi Tây Vực, đại đa số đội buôn đều xuất phát từ các vùng Cao Xương, Y Châu, trực tiếp đi về phía Tây.
Thời tiết dần lạnh, là lúc các thương đội bắt đầu xuất phát.

Để tránh tai mắt người Bắc Nhung, đoàn của Dao Anh ngụy trang thành đội buôn bán tơ lụa, mấy xe ngựa chứa đầy hàng hóa. Mớ hàng hóa này không chỉ dùng để che giấu thân phận mà sau khi đến Cao Xương sẽ trực tiếp bán ở đó, đổi lấy vàng bạc vừa vặn đút lót cho Vương công quý tộc Cao Xương.

Lão Tề đi theo Dao Anh, ông lưu lạc ngoại vực nhiều năm, biết nói tiếng Hồ mấy vùng, tin tức nhạy bén. Trên đường Dao Anh hỏi ông về giá cả hàng tơ lụa, châu báu ngọc thạch Cao Xương, ông từng làm quản sự, gì cũng biết một ít, trả lời rõ ràng.

Tô Đan Cổ đi cùng im lặng ít nói, hành tung quỷ bí, gần như chỉ chịu trách nhiệm để ý canh gác, còn lại đều do Duyên Giác trông nom.

Dao Anh thấy Tất Sa nói không sai, tính tình Tô Đan Cổ đúng là kỳ lạ, gần như không trò chuyện với ai, cũng chưa từng gỡ tấm mặt nạ. Cận vệ không dám quấy rầy hắn, có chuyện cần bẩm báo đều trực tiếp nói với Duyên Giác để Duyên Giác chuyển lời.
Con ưng mạnh mẽ luôn theo đoàn, đôi cánh to lớn thỉnh thoảng lướt qua đỉnh đầu họ, phủ lên bóng đen.

Từ Vương Đình đến Cao Xương, Tây Bắc cao, Đông Nam thấp, đoạn đầu họ qua một gò núi cao thấp chập trùng, đường gập ghềnh khó đi, dần dà địa thế bằng phẳng hơn, dọc theo chân núi đi mấy ngày, phía trước xuất hiện một mảnh đất bằng phẳng mênh mông vô bờ, ốc đảo to to nhỏ nhỏ rải rác như chấm nhỏ giữa sa mạc tung hoành.

Đúng như người hầu ở Vương Đình nói, trời mới vừa chuyển lạnh chưa đến mấy ngày, đã sớm có dấu hiệu tuyết rơi, gió mạnh thổi ngược, trời âm u, mây đen bao phủ, đi giữa đồng hoang mênh mông, bên tai chỉ có tiếng quỷ khóc sói gào thê lương, một mảnh hoang vu đìu hiu giữa trời đất, chỉ đến lúc đến ốc đảo mới thấy bóng dáng của đội lạc đà khác.

Dao Anh mừng vì trước khi lên đường đã chuẩn bị đủ áo da, thân binh cũng nghe lời nàng mang theo đủ quần áo mùa đông. Họ đến từ Trung Nguyên chịu không nổi giá lạnh, mỗi ngày quấn quần áo từng tầng từng lớp như cái bánh chưng.

Chưa đến mấy ngày, nhiệt độ chợt hạ, hạt tuyết lẫn trong gió lốc đập vào mặt, tất cả mang mặt nạ thông khí chống tuyết, gian nan tiến lên trong gió tuyết.

Lúc thấy một khách xá chuyên để dân buôn dừng chân cơm nước xuất hiện giữa sa mạc mênh mông, đoàn người nhịn không được reo hò thành tiếng, thúc ngựa đi nhanh.

Dao Anh quay đầu nhìn lướt qua, Tô Đan Cổ đi ở đội sau cùng, một người một ngựa, bóng người cô tuyệt. Dọc đường hắn hoặc đi trước dò đường, hoặc im lặng rớt xuống sau cùng, cùng đi hơn mười ngày, Dao Anh không hề nói chuyện với hắn.
Trong gió rít lên vài tiếng trong trẻo, một con ưng đáp xuống, quanh quẩn Tô Đan Cổ. Hắn nâng cánh tay, lập tức nó đậu xuống cánh tay trái hắn.

Dao Anh nhíu mày, mấy hôm nay nhiều lần nàng thấy ưng đáp lên tay Tô Đan Cổ.

Khách xá xây trong Sa Châu, vô cùng đơn sơ, chỉ có phòng đất thô để ở, cũng may quét dọn rất sạch sẽ. Chủ khách xá là một người Hồ tóc nâu mắt nâu, nghe một tràng vó ngựa đã ân cần ra đón trước, thấy đoàn Dao Anh đều cưỡi ngựa tốt, càng thêm nhiệt tình, tự dọn lên canh nóng nước nóng.

Gian chính đốt lò lửa, lòng lò đỏ rừng rực, đám người đuổi chủ quán ra ngoài, gỡ mặt nạ, ngồi vây quanh lò lửa sưởi ấm, hai cận vệ đứng canh ngay cửa.

Dao Anh uống bát canh nóng, tay chân ấm áp chút, nhìn quanh một vòng.

Không biết Tô Đan Cổ đi đâu. Trừ Duyên Giác, những người khác rất sợ hắn, chỉ cần hắn ở đây, Tạ Xung hoạt bát hiếu động nhất cũng không dám lớn tiếng nói chuyện. Chắc biết cả đám sợ mình nên hắn luôn ở một mình.

Dao Anh hỏi Duyên Giác: "Mấy hôm nay ta thấy một con ưng, là ưng của Phật Tử phải không nhỉ? Sao nó lại đi theo chúng ta?"

Duyên Giác khẽ giật mình, cười đáp: "Vương đang bế quan, ưng đi theo chúng ta nếu Nhϊếp Chính Vương có chuyện quan trọng cần báo về thì nó có thể truyền tin. Chỉ cần huấn luyện thật tốt, ưng cũng có thể làm trinh sát."

Dao Anh gật gật đầu, hỏi tiếp: "Ưng là Phật Tử nuôi luyện à?"

A Bố được Hải Đô A Lăng lúc nhỏ tự mình bắt giữ nuôi lớn, ở Bắc Nhung, thiếu niên mười mấy tuổi có thể thuần dưỡng một con ưng là chuyện rất đáng gờm, y rất tự phụ, luôn nói A Bố ngàn dặm có một, là Thần Ưng.

Duyên Giác nói: "Lúc nhỏ Vương một mình ở trong Phật Tự, con ưng này bị thương rơi xuống cạnh sườn núi, vừa lúc được Vương cứu, Vương sai người đưa nó về tổ ưng... Mấy người đó không những không đưa, còn suýt nữa bóp chết con ưng, Vương mới giữ nó lại bên cạnh chăm sóc, nhịn bớt thức ăn nuôi nó, sau này nó trở thành ưng của Vương."
Dao Anh nghe được thổn thức không thôi.

Ngày ấy Đàm Ma La Già ra đời Thánh Thành xuất hiện hiện tượng lạ, mây ngũ sắc đầy trời. Chàng là con trai còn trong bụng mẹ của Quân chủ đời trước của Vương Đình, vừa ra đời đã trở thành Quân chủ mới, mỗi một thời đại Quân chủ Vương Đình ra đời đều có truyền thuyết gắn liền, lúc ấy vừa vặn có người dâng hiến hoa Ưu Đàm Bà La trong truyền thuyết đến Vương Đình ngụ ý Phật xuất thế, cộng thêm lời tiên đoán của Pháp sư, thuyết pháp cho rằng chàng là A Nan chuyển thế gây xôn xao.

Lúc ấy vương công quý tộc nắm giữ triều chính, không muốn Đàm Ma La Già nhận được lòng kính yêu của dân chúng mới đưa chàng vừa ra đời đến giam cầm trong Phật Tự. Thân bị giam cầm còn khó đảm bảo, vậy mà còn nhịn ăn nuôi một con ưng, quả là lòng từ bi.
Duyên Giác kể lại, có chút cảm khái, chỉ mấy cận vệ bên cạnh, cười nói: "Tôi, Bàn Nhược với mấy người đó, lúc đầu đều là cô nhi không nơi nương tựa, bị bán cho quý nhân làm nô ɭệ, lúc hầu hạ quý nhân không cẩn thận phạm sai lầm, quý nhân nổi khùng kéo bọn tôi ra quảng trường quất trước chúng, xém bị đánh chết, là Vương đã cứu bọn tôi, cho chúng tôi thân phận bình thường, tên bọn tôi đều do Vương đặt! Cận vệ Trung quân phần lớn xuất thân con cháu quý tộc giống Tướng quân A Sử Na, chỉ có bọn tôi đến từ dân gian." Vẻ mặt cậu tươi cười, giọng không giấu vẻ kiêu ngạo và sùng bái.

Mấy cận vệ gần đó cũng nhếch miệng cười cười, ngươi một câu ta một câu, mặt mày hớn hở, lao nhao kể chuyện Đàm Ma La Già cứu giúp dân chúng. Đám Tạ Xung, Tạ Bằng nghe hiểu chút ít tiếng Hồ, nghe say sưa, không ngừng hỏi tới.
Cả đoàn cùng đi hơn mười ngày, dần dần quen thuộc, nói đến Đàm Ma La Già, bầu không khí càng thêm hòa hợp, cười cười nói nói, vô cùng náo nhiệt.

Dao Anh bỗng nhẹ giật mình.

Mâu thuẫn lớn nhất giữa Đàm Ma La Già và đám đại thần ở ngay trong lòng ngài, không phân biệt giàu nghèo, xem mỗi người dân là con dân của mình. Thế nhưng Vương Đình không giống Trung Nguyên, không có nho gia giáo hóa, không có quan niệm quân thần trung thành thâm căn cố đế, quý tộc có thể mua bán nô ɭệ, mỗi đại quý tộc có đất riêng và có tất cả miệng ăn trên miếng đất, ngang với lãnh chúa, trong mắt quý tộc, người dân là nô ɭệ của họ.

Cho nên khi Bắc Nhung khí thế xâm lược, nỗi lo lắng nhất của vương công quý tộc không phải sống chết của dân, mà là có giữ được của cải gia tài của gia tộc không. cũng tương tự như Trung Nguyên khi phân loạn, vài thế gia vì lợi ích gia tộc mà không tiếc kích động chiến tranh, cấu kết kẻ địch bên ngoài. Mười năm trước, đại quân Bắc Nhung vào biên giới, vương công quý tộc quả quyết bỏ thành chạy, nếu không có Đàm Ma La Già trấn giữ, bốn đại quân tuyệt đối sẽ không quay lại bảo vệ Thánh Thành.
Hẳn đâu đó cũng là nguyên nhân Đàm Ma La Già triền miên trên giường bệnh, ngài không chỉ phải trấn áp kẻ thù rất mạnh, còn phải phòng bị kẻ tặc trong triều.

Đến cuối cùng, tâm huyết sấy khô, nến cháy thành tro.

Dao Anh ngẩn một lúc, mang mạng che mặt, múc một chén nước canh, cầm vài miếng bánh mì đã nướng thơm mềm ra khỏi phòng, ánh mắt quét một vòng, đúng là kịp thấy bóng người mạnh mẽ rắn rỏi ngồi ở hành lang trên lầu.

Dọc đường, mỗi lần họ dừng lại nghỉ ngơi, Tô Đan Cổ đều dừng ở chỗ có tầm nhìn quan sát rộng để canh chừng.

Hắn gϊếŧ người như ngóe, lệ khí khắp người, toát ra vẻ hung hãn không ai dám tới gần, thế nhưng Dao Anh lại có cảm giác đi cùng hắn rất an tâm..

Nàng bưng chén canh lên lầu hai. Qua chỗ ngoặt, đột nhiên một tiếng rít nhọn, con ưng từ cao bổ xuống, đánh tới nàng. Đôi cánh khổng lồ cuốn lấy gió tanh, thẳng quét về phía khuôn mặt nàng.
Dao Anh vội vàng che chở chén canh lùi lại, mất đà lảo đảo, ngã ra phía sau.

Một bóng đen xuất hiện duỗi tay chụp lấy bờ vai nàng, giúp nàng lấy thăng bằng, cách lớp áo da thật dày, cánh tay dính sát rất kiên cố có lực, cái ôm lạnh như băng không chút hơi ấm.

Dao Anh một tay bưng chén canh, cả người thuận thế đổ ra sau lọt vào lòng Tô Đan Cổ, quay lại nhìn cầu thang dưới chân, lòng còn sợ hãi, nhẹ nhàng thở hắt.

Nếu bị té từ lầu hai xuống, gãy tay gãy chân, làm sao đi Cao Xương nữa?

Cho là đã nàng đứng vững, Tô Đan Cổ nhanh chóng buông tay.

Dao Anh nhìn cầu thang dưới chân, chưa kịp lấy lại tinh thần, bỗng mất thăng bằng, cơ thể quớ quàng theo quán tính, không khỏi nhẹ hô lên.

Tô Đan Cổ dừng lại, lại giang cánh tay.

Dao Anh sợ rớt chén canh, đổ về trong ngực hắn, cảm thấy người hắn căng cứng, hơi xấu hổ, xoay lại đối mặt với hắn nhanh chóng đứng vững, lần này đứng vững vững vàng vàng, trong tay còn bưng chén canh.
Nàng bưng chén, ngẩng đầu, hấp háy mắt, lấp lánh dưới đôi mi dài rậm: "Tô tướng quân, ăn một chút gì nhé?"

Tô Đan Cổ thu cánh tay về, cặp mắt xanh sâu thẳm dưới mặt nạ quét qua chén canh trong tay nàng.

Dao Anh vẫn luôn dùng tay áo che chén canh, canh vẫn còn nóng hổi, hơi nóng lượn lờ quanh quẩn, nước canh trắng tuyết, bánh mì xé nhỏ bỏ vào canh dê, trắng noãn óng ánh.

Tô Đan Cổ không lên tiếng, cũng không có ý định nhận chén canh.

Hai tay Dao Anh đưa ra trước: "Canh này ấm bụng trừ hàn, tướng quân dùng chút đi, đoạn đường sắp tới không biết lúc nào mới gặp khách xá."

Ánh mắt Tô Đan Cổ rơi xuống ngón tay nàng, nàng sợ canh dê nguội lạnh, nhân lúc còn nóng bưng tới, ngón tay mềm mại và lòng bàn tay bị nóng đến đỏ bừng.

Hắn yên lặng nhận cái chén.

Dao Anh đưa mấy miếng bánh mì tròn cho hắn, đống bánh mì này nàng bảo Tạ Thanh bọc theo, hơ lửa nướng lại sẽ xốp giòn, bên trong tươi non, vừa rồi mấy người Duyên Giác đều khen ngon.
Tô Đan Cổ nhận chén canh và bánh mì, quay người đi thẳng.

Dao Anh không khỏi bật cười, nhìn về phía đài cao, con ưng đang cụp cánh đứng đầu gió, con mắt sắc bén lạnh lùng nhìn nàng chằm chằm.

Vừa rồi còn dọa nàng thét lớn!

Nàng nhẹ giọng hỏi Tô Đan Cổ: "Tô Tướng quân, ta có thể cho nó ăn chút thịt khô không?"

Nàng từng thấy Duyên Giác, Tô Đan Cổ và thân binh khác cho ưng ăn, con ưng dù cao ngạo nhưng không tùy tiện cào bị thương người.

Tô Đan Cổ quay sang liếc nhìn nàng, không biết dưới lớp mặt nạ có cảm xúc gì.

Dao Anh móc một khối thịt khô nhỏ từ tay áo, đứng trước mặt con ưng, vẻ kích động, đôi mắt đen nhánh tỏa sáng. Thật giống như mới hù nàng không phải con ưng này.

Tô Đan Cổ nói: "Nó suýt khiến công chúa té đó."

Dao Anh cười cười: "Nó đang canh gác cho Tướng quân, ta không mời mà tới, nó chỉ muốn cảnh cáo nên mới hù ta."
Tô Đan Cổ nhìn nàng mãi lâu, nhẹ gật đầu.

Dao Anh tươi cười rạng rỡ, đi tới trước mấy bước, mở bàn tay chìa về con ưng, nhẹ giọng hỏi: "Ngươi thích ăn món này nhỉ?"

Con ưng ngạo nghễ nhìn nàng vẻ rất khinh thường.

Dao Anh kiên nhẫn mềm giọng dỗ nó: "Ta còn chưa kịp cám ơn ngươi đấy, so với A Bố của Hải Đô A Lăng ngươi còn mạnh mẽ oai hơn nhiều."

Con ưng có vẻ hiểu nàng nói, ngạo mạn vỗ cánh, mỏ nhọn nhẹ mổ tay nàng mấy lần, hơi nhói nhói. Dao Anh không né, bàn tay vẫn chìa ra. Ưng quặp đi miếng thịt khô trong lòng bàn tay nàng.

Dao Anh nhìn con ưng thầm nghĩ: Bắc Nhung và Vương Đình đều thuần dưỡng ưng đưa thư, ở đây, ưng là bá chủ bầu trời, bồ câu đưa tin gặp ưng đưa thư, hẳn sẽ bị săn gϊếŧ, nếu nàng cũng có một con ưng đưa thư thì tốt biết mấy.

Không biết dân buôn người Hồ thần thông quảng đại có thể giúp nàng mua mấy con ưng đưa thư không.

Nàng dựa vào trước đài, vừa suy nghĩ trong lòng, vừa chơi với con ưng. Con ưng rất cao ngạo không thèm để ý nàng, đến khi ăn xong thịt khô mới không kiên nhẫn khoèo khoèo tay áo nàng, giục nàng lấy thêm.

Dao Anh không dám cho nó ăn nhiều, thả tay ra hiệu hết rồi. Con ưng thả móng vuốt rời đi. Dao Anh bật cười, quay đầu nhìn Tô Đan Cổ.

Hắn đưa lưng về phía nàng ăn canh, không một tiếng động, thân binh cận vệ đều khen món canh, hắn lại uống thật lạnh nhạt như đang uống nước.

Dao Anh nhìn bóng lưng hắn mãi lâu, từ xa chợt nghe tiếng gì như mưa rơi.

Giống như tiếng vó ngựa.

Nàng nhìn ra chỗ phát ra tiếng động, ở phía Đông bụi đất tung bay, tiếng chân lộc cộc, mười mấy con khoái mã đang chạy nhanh đến khách xá, người cưỡi đều mặc áo da rất dày, trên mặt che kín, nhìn không ra là ai.
Tô Đan Cổ vô cùng cảnh giác, lập tức buông bát, đứng trước đài nhìn ra xa. "Là người Bắc Nhung."

Mí mắt Dao Anh bỗng nhảy: "Sao Tướng quân biết chúng là người Bắc Nhung?"

Tô Đan Cổ khàn khàn hạ giọng: "Ngựa chúng cưỡi là ngựa chinh chiến phương Bắc."

Dao Anh chùng xuống.

Bắc Nhung chiếm cứ một mảng thảo nguyên cây cỏ phong phú, có mấy vùng vốn là chuồng ngựa lớn nhất Bắc Mạc, thuần dưỡng ngựa to khỏe, cung cấp chiến mã cho kỵ binh Bắc Nhung. Tô Đan Cổ đã khẳng định, hẳn không nhận lầm.

Tô Đan Cổ ra hiệu với cận vệ phòng thủ bên dưới lầu, cận vệ hiểu ý, nhanh chóng chạy vào phòng nhắc cả đoàn bịt khăn che mặt, chuẩn bị lên đường.

Mọi người đã ăn uống no đủ, lưu loát đứng dậy dọn hành lý rời khách xá.

Người Bắc Nhung chạy rất nhanh, trong nháy mắt đã đến trước khách xá.
Người cầm đầu tháo khăn che mặt, phun phì phì nhổ mấy ngụm cát trong miệng. Thân thể gã tráng kiện, khỏe mạnh như trâu, tóc quăn áo choàng, đôi mắt màu nâu nhạt, người mặc áo lông, chân đi ủng da, vừa tung người xuống ngựa, vừa mắng chửi luôn miệng phàn nàn về thời tiết.

Dịch trạm không có cửa sau, Dao Anh và mấy người Tô Đan Cổ cúi đầu chỉnh lại hành trang riêng của mình, người Bắc Nhung cho bọn họ là dân buôn bán bình thường, hơi dò xét mấy lần rồi lướt qua bên cạnh, một người không kiên nhẫn thúc giục chủ quán: "Có món gì ăn không? Chỉ cần nóng hổi, tranh thủ dọn ra đi!"

Chủ quán đáp lời một tràng.

Dao Anh đạp lên yên ngựa, ánh mắt kịp lia qua gã đàn ông khoẻ mạnh kia, biến sắc, lập tức thu tầm mắt.

Nàng không lộ vẻ gì, ruổi ngựa đi đến cạnh Tô Đan Cổ, nhỏ giọng nói: "Tô Tướng quân, đó là Tiểu Vương tử Bắc Nhung."
Tô Đan Cổ liếc nhìn nàng.

Dao Anh hạ giọng: "Cậu ta là con út được Ngoả Hãn Khả Hãn cưng nhất, luôn để lại nha đình, có lẽ Tướng quân chưa gặp qua, ta có thể chắc chắn không nhận lầm người."

Tô Đan Cổ ừ đáp.

Đoàn người yên lặng rời khách xá, bóng dáng tan vào trong gió tuyết mênh mông. Trong lòng Dao Anh thấy nặng nề. Sao Tiểu Vương tử lại xuất hiện ở đây? Mọi việc có liên quan gì Hải Đô A Lăng không nhỉ?

...

Lúc Dao Anh và Tô Đan Cổ từ Sa Thành xuất phát đi Cao Xương, ở ngoài ngàn dặm, sa mạc mênh mông vô ngần, một đội khác xuất phát đi Y Châu.

Xe ngựa đi trong đường núi gập ghềnh, cô gái trong xe không chịu nổi dằn xóc, vén rèm xe, nói với hộ vệ đi cùng: "Mấy ngày nữa mới đến Y Châu?"

Hộ vệ ôm quyền nói: "Công chúa, ngài chịu khó mấy hôm, cũng nhanh đến Y Châu, ngài lập tức gặp được Trưởng công chúa Nghĩa Khánh."
Trên mặt cô gái lộ mấy phần mong chờ, hạ rèm xe, lùi về trong toa. Cô sắp gặp được cô mình.

Hộ vệ đi chậm lại, cố ý lùi về sau vài bước.

Sau lưng một gã hộ vệ ruổi ngựa tới, song song với gã.

Hộ vệ dùng tiếng địa phương nhỏ giọng nói: "Ngươi tìm cơ hội truyền tin về, Phúc Khang công chúa sắp đến Y Châu, bọn ta đã lấy được tín nhiệm của Phúc Khang công chúa, đợi đến Y Châu, sẽ nghĩ cách thám thính tung tích của Văn Chiêu công chúa."

Tên hộ vệ khác sắc mặt khó xử: "Giờ khắp nơi đều bị phong tỏa, mấy quan ải thủ như hòm sắt, không biết làm cách nào mới truyền đươc tin Văn Chiêu công chúa có thể còn sống về Trường An đây?"

Hộ vệ bật cười: "Ngươi đúng là đầu gỗ! Người Bắc Nhung và Phúc Khang công chúa âm thầm thông tin bằng cách nào? Thì chúng ta dùng người đó truyền tin thôi!"
Tên kia bừng tỉnh, gật đầu. 

-----------CHƯƠNG 62---------------

Trường An, Đông Cung.

Ngày hè chói chang, trầm lý phù dưa*, cung Thái Cực ở vùng đất trũng năm nay phá lệ ẩm ướt oi bức, bậc thềm trước hành lang đầy rêu loang lổ, trên nền gạch lát hoa văn Ma yết đọng một lớp hơi nước mỏng, phản xạ ánh sáng.

*ý nói uống nước lạnh ăn mận ăn dưa giải nhiệt.

Trong tiếng ve ồn ã, nội thị dẫn một thanh niên mặc quan bào xanh phong trần mệt mỏi xuyên qua hành lang quanh co, đi vào trước Thư các.

Đã có thái giám chờ trước cửa, nghe thấy tiếng bước chân, vẻ mặt tươi cười ra đón.

"Đỗ Xá nhân, Thái tử Điện hạ chờ đã lâu."

Đỗ Tư Nam không hề liếc nhìn thái giám, nhẹ gật đầu, cất bước vào trong, thái độ ngạo mạn. Nụ cười trên mặt thái giám vẫn không đổi.

Hơn một năm qua, Đỗ Tư Nam vị sĩ tử Nam Sở xuất thân nghèo hèn này nhiều lần lập đại công, giữ vững Kim Thành, gϊếŧ toàn bộ mật thám Bắc Nhung, đi sứ Nam Sở, Tây Thục, bằng miệng lưỡi ba tấc không nát và hiểu biết về triều đình các nước đã thúc đẩy Nam Sở lập minh ước với Đại Ngụy, giải mối lo sau này cho Đại Ngụy, do đó nhiều lần được Lý Đức triệu kiến. Mỗi lần triệu kiến y đều đối đáp trôi chảy, Long nhan cực kỳ vui mừng, nhiều lần đặc biệt đề bạt, y một bước lên mây, trong nháy mắt đã từ một thư sinh áo trắng bá vơ trở thành Trung Thư Xá nhân, tham gia biểu chương, phác thảo chiếu chỉ, nghiễm nhiên trở thành tâm phúc tín nhiệm nhất của Hoàng đế Lý Đức.
Nghe nói Đỗ Tư Nam còn chưa lập gia đình, các đại tộc thế gia trong kinh tranh nhau thuê bà mối tới cửa cầu thân, muốn nạp rể hiền, ngay cả Tể tướng Trịnh Tướng công cũng từng lộ ý muốn đích thân mai mối cho y, người người trong triều hâm mộ, nhưng Đỗ Tư Nam từ chối tất cả, nói mình là môn đệ nhà nghèo, không dám trèo cao đến thế gia.

Thái giám không hiểu mạch nước ngầm mãnh liệt trong triều nhưng dù sao đi theo Lý Huyền Trinh nhiều năm, xem lời nói hành động của cả hai cha con, hiển nhiên họ nể trọng quan viên xuất thân hàn môn, hiện Đỗ Tư Nam được lòng Đế chọn, rất được trọng dụng, dù y lạnh lùng kiêu ngạo thế nào thái giám cũng sẽ không đắc tội.

Đối với đám hoạn quan ti tiện như họ, lúc nào nên bợ đỡ ai, lúc nào nên vắng vẻ ai, chỉ nhìn thái độ Hoàng đế và Thái tử, thứ khác không liên quan.
Phía trước cửa sổ trồng vài nhánh lựu tươi tốt, tán cây rộng che hết nửa sân đình, trước song cửa một mảnh râm mát xanh mướt, ánh sáng trong phòng mờ ảo.

Đỗ Tư Nam đi thẳng vào trong, qua mấy tấm bình phong khảm nạm đá Vân Mẫu, đi vào đàn thất.

Hương trà lượn lờ, hơi nước mờ mịt, một người hầu quỳ một bên kéo cái bễ nhỏ, ánh lửa thập thò phun ra nuốt vào trong lò.

Lý Huyền Trinh tựa ngồi cạnh giường, sắc mặt trầm tĩnh, đôi mắt u tối, mặc đồ thường phục của Hoàng Thái tử, cổ tròn bào phẳng, thắt lưng gấm, phác hoạ ra đường cong gầy, so với lúc mới gặp Đỗ Tư Nam gầy đi không ít.

Một năm qua, Thái tử thay đổi rất nhiều.

Lúc trước hắn luôn có vẻ mặt ôn hòa đối với bộ hạ, trên chiến trận xung phong đi đầu, chưa từng bỏ rơi một quân sĩ, ôn hòa tha thứ, chiêu hiền đãi sĩ, nhưng không thể che hết u ám thực bụng, luôn có ý gia hại Thất công chúa, Nhị hoàng tử, hơn nữa anh hùng khó qua ải mỹ nhân, thường làm chuyện khó tưởng tượng vì Phúc Khang công chúa, thậm chí không để ý đến tính mạng, làm đại thần trong triều gai mắt. Giờ đây, Phúc Khang công chúa không còn bóng dáng, Thất công chúa chết ở tái ngoại, Nhị hoàng tử mất đi tất cả, rời kinh đi tái ngoại xa xôi, Tạ hoàng hậu một mình điên điên ngốc ngốc ở Ly cung, Tam hoàng tử, Tứ hoàng tử bị Lý Đức kết tội cấu kết ngoại địch giam cầm, Thái tử thù đã báo, ý trung nhân rời đi, vị trí Thái tử vững chắc, như bắt đầu trở nên trầm ổn, không còn thay đổi thất thường, cũng không còn hận người Tạ gia.
Đại thần trong triều vui mừng không thôi.

Ánh mắt Đỗ Tư Nam khẽ quét qua khuôn mặt tuấn lãng của Lý Huyền Trinh, trong lòng cười lạnh: một bình nước đã đun đến sôi sùng sục, reo ùng ục, hết đun, tiếng reo sẽ dịu xuống, Thái tử cũng không phải là thay đổi thành ôn hòa thật.

Y cúi đầu hành lễ với Lý Huyền Trinh. Lý Huyền Trinh ra vẻ đứng dậy, không nhận lễ.

Đỗ Tư Nam ngồi xuống, thầm nghĩ, Thái tử chiêu hiền đãi sĩ không phải nói ngoa, có điều Thái tử tâm ngoan thủ lạt cũng không phải tin đồn, lúc trước Thái tử tưởng lầm y là người của Nhị hoàng tử Lý Trọng Kiền lập tức lệnh gϊếŧ, quyết đoán như vậy tuyệt không phải một người nhân từ biết nương tay.

Lý Huyền Trinh đang ngồi đối diện với một quan viên trẻ mặt mũi thanh tú, cũng mặc quan bào màu xanh không khác Đỗ Tư Nam mấy, là Trịnh Cảnh con của Tể tướng. Kinh Nam vừa phát sinh lũ lụt, hai người vừa mới đang thương lượng việc khắc phục thiên tai.
Trịnh Cảnh gật đầu thăm hỏi Đỗ Tư Nam: "Đỗ xá nhân, Nam Sở lại đổi Trữ à?"

Đỗ Tư Nam lấy lại tinh thần, nói: "Thái tử Nam Sở phóng ngựa đả thương người, bị triều thần nắm được cán, Thái tử vì giữ thanh danh đã gϊếŧ người diệt khẩu, mưu hại đại thần trong triều, Nam Sở bàn tán ầm ĩ, quần thần quỳ ngoài cửa cung khóc lóc không ngừng, Hoàng đế Nam Sở bất đắc dĩ, đành đổi trữ."

Trịnh Cảnh mỉm cười. Cuộc đổi Trữ ở Nam Sở này, do một tay cậu và Đỗ Tư Nam bày kế.

Cũng vì lấy đạo của người trả lại cho người, sau khi họ bắt được mật thám Nam Sở, lợi dụng chúng thăm dò mạng lưới tình báo Nam Sở, thả tin giả mê hoặc Nam Sở, để Nam Sở tin rằng Đại Ngụy không dám cử binh xuôi Nam, muốn cùng Nam Sở phân ranh mà trị.

Rồi lại thả tin đồn, bảo sở dĩ mấy vị Đại tướng Nam Sở chủ chiến là do họ vốn là người phương Bắc.
Nam Sở giàu có, đại bộ phận quan viên xuất thân Nam Sở thoả mãn an phận một góc, sống mơ màng xa hoa lãng phí, không muốn khai chiến với Đại Ngụy, quả nhiên trúng kế, dâng sớ vạch tội phái chủ chiến trong triều, bảo họ quyến luyến quê cũ, vì lòng riêng mà không để ý sống chết của mấy vạn tướng sĩ Nam Sở, bất trung bất hiếu, rắn chuột hai đầu.

Phái chủ chiến thế đơn lực bạc, Hoàng đế bất đắc dĩ, đành bác đi mấy vị Đại tướng, trấn an lòng người.

Để Nam Sở tự hỏng lực lượng, Đỗ Tư Nam lại ra tay châm ngòi quan hệ giữa Thái Tử Nam Sở và các vị hoàng tử khác, tăng mâu thuẫn giữa triều thần và Thái tử, châm ngòi thổi gió, tận dụng mọi thứ, ngắn ngủi hai tháng, vị Thái tử mới được sắc lập không lâu cũng bị phế đi.

Đỗ Tư Nam không phải võ tướng, y không quan tâm thủ đoạn mình ngoan độc âm hiểm cỡ nào, chỉ cần làm suy yếu Nam Sở y có thể dùng bất cứ thủ đoạn nào.
Dùng binh không đánh mà thắng chính là cách dùng binh tốt nhất.

Lò lửa nhỏ đỏ than lép bép tiếng than hồng.

Đỗ Tư Nam nói tiếp: "Thế gia Nam Sở như nấm, nhà ngoại tổ của các vị Hoàng tử trong triều đều là gia tộc quyền thế, trước giờ mấy vị hoàng tử đồng mặt không đồng lòng, hai năm nay vị trí Trữ nhiều lần biến động, đại thần trong triều khó tránh bị cuốn vào, mấy đại thế gia Nam Sở thông hôn nhiều thế hệ, rắc rối khó gỡ, rút dây động rừng, không ai có thể đặt mình ra ngoài."

"Chúng ta đã bố trí cọc ngầm thỏa đáng, đến lúc đó nội ứng ngoại hợp, Đỗ mỗ khẳng định, trong vòng hai năm, triều đình Nam Sở sẽ có động!" Giọng lạnh như băng của y quanh quẩn trong đàn thất.

Trịnh Cảnh tiếp lời: "Vua tôi Nam Sở tự cho rằng Trường Giang là nơi hiểm yếu, có lòng coi thường Đại Ngụy, trong triều phân tranh không ngừng, mâu thuẫn giữa người Nam kẻ Bắc trùng điệp, Hoàng đế Nam Sở để trấn an người phía Nam, tự chặt cánh tay, người Bắc vô tội chịu oan, chúng ta vừa vặn có thể cho người thuyết phục họ cải tà quy chính."
Dù người Bắc có đồng ý đầu hàng Đại Ngụy hay không, chỉ cần thả ra tin tức họ lui tới mật thiết với Đại Ngụy, sau này Nam Sở chắc chắn sẽ không trọng dụng họ nữa.

Lý Huyền Trinh nghe cả hai nói xong, gật đầu hỏi: "Nếu Tây Thục và Nam Sở kết minh thì sao?"

Đỗ Tư Nam cười lạnh: "Mạnh thị Tây Thục thiển cận nhát gan, không có thực lực tranh bá nhưng lại có lòng tranh bá, Mạnh thị từng giao chiến với Nam Sở, hai nước bất hòa đã lâu, dù có kết minh cũng không duy trì được mấy tháng. Trước đó, chúng ta có thể đánh động với Nam Sở liên thủ với ta cùng tiến đánh Tây Thục, chỉ cần hứa các vùng Kiềm Trung, phía Tây Sơn Nam, tất nhiên Nam Sở sẽ động tâm. Sau đó lại âm thầm thuyết phục Tây Thục, bảo liên thủ với ta tiến đánh Nam Sở, ước định chia phía Tây Giang Nam cho Tây Thục, ắt Tây Thục sẽ do dự."
"Đến chừng đó, ta cố ý thả ra tin tức, để Tây Thục, Nam Sở cho là họ đã đạt thành hiệp nghị với ta, thì họ sẽ dám kết minh với đối phương không?"

Trịnh Cảnh nghe xong tê rần da đầu, suy tư một trận, gật đầu phụ họa: "Chờ tấn công xong Tây Thục, nội loạn Nam Sở chưa kết thúc, ngược lại sẽ ngày càng nghiêm trọng, lưỡng bại câu thương, chúng ta vừa vặn ngư ông đắc lợi."

Đỗ Tư Nam nghĩ tới một chuyện, chần chừ chút rồi nói: "Sở dĩ Đỗ mỗ dám chắc chắn như vậy, cũng là bởi vì một người."

Lý Huyền Trinh ngước mắt: "Vị cao nhân nào?"

Đỗ Tư Nam từng chữ nói: "Văn Chiêu công chúa."

Ùng ục ùng ục, trong trà cụ nước sôi sùng sục, bọt nước như trân châu lăn lộn lên xuống.

Cả ba đồng thời rũ mắt, nhìn bọt nước hóa hơi trong trà cụ.

Sau một lát, Lý Huyền Trinh phá vỡ yên lặng: "Sao cậu nói vậy?" Giọng hạ trầm thấp như đang đè nén gì.
Đỗ Tư Nam chậm rãi nói: "Văn Chiêu công chúa truyền tin về, không chỉ nhắc nhở tôi đề phòng Bắc Nhung, Nam Sở, Tây Thục, còn chỉ ra mâu thuẫn trùng điệp giữa Nam Sở và Tây Thục, chỉ cần lấy Kiềm Trung làm mồi nhử có thể làm hai nước trở mặt, mặt khác gợi lên phân tranh trong triều của Nam Sở, lần này Nam Sở đổi Trữ, chính vì tôi dùng kế sách của Văn Chiêu công chúa."

"Có vẻ như Văn Chiêu công chúa đối với Nam Sở, Tây Thục rõ như lòng bàn tay, phản ứng của hai nước với trong thư cô ấy viết không khác mấy. Cô ấy nói Nam Sở, Tây Thục đồng minh không kiên cố, chỉ cần châm ngòi chút đã đánh tan được quan hệ hai nước, Đỗ mỗ cho rằng Văn Chiêu công chúa liệu sự như thần."

Lần này, Lý Huyền Trinh lặng thinh càng lâu, hơi nước lượn lờ cứ như lồng lên tầng mây đen trên khuôn mặt tuấn tú của hắn.
Trịnh Cảnh xen vào: "Văn Chiêu công chúa từ nhỏ lớn lên ở Kinh Nam, Kinh Nam gần Nam Sở, Tây Thục, Tạ gia kinh doanh ở Kinh Nam nhiều năm, Văn Chiêu công chúa hiểu rõ Nam Sở, Tây Thục như vậy, cũng không lạ."

Lý Huyền Trinh ừ lạnh nhạt, ngồi ngơ ngẩn, ánh mắt trống rỗng.

Đỗ Tư Nam nhịn không được hỏi: "Điện hạ thấy kế này thế nào?"

Lý Huyền Trinh lấy lại tinh thần, trầm ngâm nửa ngày, yên lặng nhấm nuốt chuyện vừa rồi. Nếu kế hoạch thuận lợi, trong thời gian ngắn nhất, tiêu hao ít nhất Đại Ngụy có thể đạt được việc vĩ đại nhất thống thiên hạ.

Như vậy, khi Đại Ngụy bình định thiên hạ, cử binh đánh Tây, sẽ có binh lực mạnh mẽ đối địch với Bắc Nhung.

Trong lòng hắn ra quyết định, nói với Đỗ Tư Nam: "Đỗ Xá nhân không hổ là Trương Lương* của Thánh thượng, bày mưu tính kế, quyết thắng ngoài ngàn dặm."
*chính trị gia, mưu thần khai quốc công thần triều Tây Hán

Đỗ Tư Nam nói: "Điện hạ quá khen." Giọng thì khiêm tốn, còn vẻ mặt lại có nét lãnh ngạo.

Trịnh Cảnh âm thầm lắc đầu.

Lý Huyền Trinh vào cung diện thánh, thương thảo với Lý Đức kế hoạch cụ thể, hai người cáo từ đi ra, Trịnh Cảnh nhắc nhở Đỗ Tư Nam: "Gần đây Đỗ Xá nhân rất nổi tiếng, mộc tú vu lâm* nên cẩn thận."

*người quá xuất chúng.

Đỗ Tư Nam cười lạnh nói: "Ta với Trịnh Thị lang khác biệt, ngài là con cháu danh môn, vừa ra làm quan đã là cận thần của Thiên tử, Đỗ Tư Nam ta xuất thân nghèo hèn, mười năm gian khổ học tập, cần cù chăm chỉ cả đời cũng chỉ là người may áo cưới* cho Trịnh Thị lang thôi, bây giờ Thánh nhân không theo lệ thường coi trọng ta, ta nào có thể bỏ qua cơ hội này? Có gϊếŧ được thỏ, mổ chó săn, Đỗ Tư Nam ta cũng phải trở thành nhân thượng nhân, hoàn thành khát vọng, lập công lao cái thế."
*tác giá y thường: ám chỉ vất vả cho người vui, bản thân không được gì.

Trịnh Cảnh không phản bác được. Đỗ Tư Nam là cây đao trong tay Lý Đức, một thanh đao rèn sắc bén, muốn chém vào thế gia. Thế gia nhạy bén biết ý đồ của Lý Đức, muốn thu mua Đỗ Tư Nam, kéo vào giữa thế gia, nên không tiếc bỏ đi thận trọng mà muốn thông hôn với y, những tưởng y nghèo hèn sẽ mừng rỡ, không ngờ y cự tuyệt không chút nghĩ ngợi. Trịnh Cảnh con cháu Trịnh gia, gần đây nghe không ít lời đồn đại, nếu Đỗ Tư Nam khư khư cố chấp, thế gia tuyệt sẽ không nương tay.

"Đỗ Xá nhân đã quyết định rồi? Thánh nhân và Thái tử bảo đảm được cậu một thời, không bảo vệ được cậu cả đời, chưa nói gϊếŧ được thỏ mổ chó săn, các triều đại đổi thay, có mấy thần tử như Đỗ Xá nhân có được kết thúc yên lành?"
Khóe miệng Đỗ Tư Nam khẽ nhếch, hồ đồ không thèm để ý: "Thương Ưởng* dù ngũ mã phanh thây chết thảm, cuối cùng vẫn cải cách thành công, tên lưu sử sách, Trịnh Thị lang, ngươi ta sở cầu khác biệt, Tử làm sao biết cá có vui*?"

*Chính trị gia, cải cách gia, nhà tư tưởng, quân sự gia, thời Chiến quốc, phụ tá Tần Hiếu công, tích cực thi hành cải cách, sau khi Tần Hiếu công chết, ông bị công tử Kiền vu là mưu phản, xác bị đem đến Hàm Dương ngũ xa phanh thây.

**"Trang Tử không phải cá, làm sao biết cá có vui" – đừng dùng cái nhìn của mình áp cho người khác.

(minh: 2 ông thần văn nói chữ phải tra qua lại mới hiểu, dốt văn thật khổ)

Trịnh Cảnh cười cười, yên lặng một hồi, chợt hỏi: "Đỗ Xá nhân không muốn cưới con gái thế gia là có liên quan đến Thất công chúa à?"
Đỗ Tư Nam cứng đờ.

Trịnh Cảnh cười nói: "Đỗ Xá nhân tự phụ tài hoa, khư khư bảo mình xuất thân hàn tộc. Lúc ở Nam Sở từng trước mặt đám đông lập lời thề, không phải con gái thế gia không cưới, nên mới nóng nóng vội vội, thề phải nổi bật, thế gia trong kinh muốn đem đích nữ gả cho, sao cậu lại cự tuyệt?"

Đỗ Tư Nam xụ mặt, lạnh lùng liếc Trịnh Cảnh, chế giễu lại: "Trịnh Thị lang là con cái danh môn, xuất thân cao quý, tiền đồ vô lượng, đến nay vẫn chưa lấy vợ, trong phủ chỉ có thϊếp hầu, bếp núc còn do mẹ và chị gái trông nom, sao Trịnh Thị lang cũng chưa cưới vợ?"

Nụ cười trên mặt Trịnh Cảnh từ từ từ từ tháo hết.

Hai người nhìn nhau không nói.

Trịnh Cảnh xoay người, nhìn cây lựu xanh um tươi tốt trước sảnh, đứng khoanh tay khẽ nói: "Ta từng gặp được nữ lang như Thất công chúa, lại tự mình đưa nàng gả đi xa..." Nàng một thân hoa sai lễ y, trước mắt văn võ quần thần leo lên xe ngựa. Cả đời này, Trịnh Cảnh sẽ không quên được bóng lưng mảnh mai ấy.
Cậu không nhớ rõ mình thích Thất công chúa tự bao giờ, cũng không đến mức khắc cốt minh tâm, chỉ là ái mộ thiếu niên. Đến khi Thất công chúa gả xa, cậu xem như phần tình cảm này theo năm tháng sẽ từ từ phai nhạt, ai dè ngược lại, tiếc nuối không chỉ không phai mà còn khắc sâu vào lòng, để lại vết sẹo, trong phút lơ là sẽ chợt đau. Giống như rượu cũ cất trong hầm, tuổi càng lớn, càng thuần đậm.

Trịnh Cảnh chỉ nói một nửa, nhưng Đỗ Tư Nam có thể hiểu lời cậu.

"Đỗ mỗ ta xuất thân nghèo hèn... Không xứng với nữ lang thế gia." Đỗ Tư Nam lặng thinh mãi, mới ung dung nói.

Hai người trong phút chốc chẳng nói gì nữa.

Đứng một lúc, Trịnh Cảnh xuống bậc cấp, nhìn trái phải hạ giọng: "Không còn thấy Ngụy Minh."

Mí mắt Đỗ Tư Nam giật giật.

Trịnh Cảnh bình tĩnh nói: "Người hạ thủ là Vệ Quốc Công."
"Lý Trọng Kiền? Không phải ngài ấy đã đi Hà Lũng sao?"

Trịnh Cảnh nói: "Vệ Quốc Công biết Đông cung tăng cường đề phòng, lúc hồi kinh không ra tay ngay, chỉ gần đây mới không thấy người nữa, kẻ ra tay là người Vệ Quốc Công để lại."

Đỗ Tư Nam ra vẻ suy nghĩ, nói: "Giờ Vệ Quốc Công chỉ muốn nhanh tìm về Thất công chúa, không để nàng chôn xương tha hương... đợi Vệ Quốc Công về..."

Lý Trọng Kiền sẽ đích thân gϊếŧ Ngụy Minh. Sau đó thì sao?

Người ngài muốn gϊếŧ tuyệt đối không chỉ một Ngụy Minh.

Hai người sóng vai đi ra hành lang, bầu không khí có phần đông cứng lại, Trịnh Cảnh chợt đổi chủ đề: "Sau này Đỗ Xá nhân sẽ đầu nhập Đông cung nhỉ?"

Con ngươi Đỗ Tư Nam hơi co rút, ngẩng lên căm tức nhìn Trịnh Cảnh.

Trịnh Cảnh vẫn không đổi sắc.

Hai người nhìn nhau một lát, Đỗ Tư Nam câu môi cười lạnh: "Ta từng bị Thái tử nghi ngờ, tên Ngụy Minh kia nhiều lần gia hại ta, giữa ta với Đông cung đã có vết nứt."
Trịnh Cảnh híp mắt.

Đỗ Tư Nam hừ lạnh, nói: "Trịnh Thị lang đã biết tiếng thơm của ta rồi, vì muốn nổi bật ta không từ thủ đoạn, đợi khi trong triều ta đứng vững gót chân, mới có lực đàm phán với người."

Hai người trao đổi một ánh mắt, ngầm hiểu lẫn nhau. Họ đều là loại người lợi ích trên hết, lý trí tỉnh táo, mọi việc làm lúc này cũng vì leo đến đỉnh cao quyền lực. Vì thế, dù có phẫn nộ Lý Đức để Thất công chúa hòa thân, họ vẫn vì quyền thế bước ra triều đình, bôn ba vì công danh lợi lộc.

Thất công chúa gả xa làm họ càng hiểu, chỉ có nắm giữ quyền hành, mới bảo vệ được người mình để ý. Cho đến khi đó, họ không quan tâm sẽ trung thành với ai, hợp tác với người xuất thân thế nào.

Về phần hai người họ có thành kẻ địch hay không, đó là chuyện sau này. Chí ít, trước khi Lý Trọng Kiền trở về, lợi ích của họ là một.

...

Lý Huyền Trinh gặp Lý Đức bẩm báo kế sách của Đỗ Tư Nam, thật ra những kế hoạch này đã âm thầm áp dụng trước, giờ họ cần ra quyết định: Có tiến đánh Tây Thục hay không?

Lý Đức sợ Bắc Nhung quay đầu Nam chinh, cho rằng có thể chờ lại.

Lý Huyền Trinh nói: "Lúc Hải Đô A Lăng công lâu không được quả quyết lui binh, cũng là bởi vì binh lực chủ yếu của chúng tập trung ở Bắc Tây Vực, lương thảo quân bị không đủ, lúc này Nam Sở vừa mới đổi Trữ, còn biếm mấy vị Đại tướng, trong phút chốc không cách nào điều binh khiển tướng, chúng ta hứa hẹn chỗ tốt, chắc chắn họ sẽ khoanh tay đứng nhìn, giờ đây đúng là thời cơ tốt để chúng ta tiến đánh Tây Thục, nếu kéo dài mãi, chờ Bắc Nhung quay đầu Đông chinh, chúng ta hai mặt chịu địch, làm sao chống cự?"

Lý Đức vẫn do dự.
Lý Huyền Trinh đứng lên, nói: "Thần nguyện lập quân lệnh trạng, trong vòng ba tháng nếu không thể đánh chiếm phủ Thành Đô, mặc cho Thánh thượng xử lý."

Lý Đức nhíu mày, ngước mắt, ánh mắt rơi xuống mặt Lý Huyền Trinh.

Tháng qua hắn luôn chinh chiến bên ngoài, về Trường An vì chuyện đánh Tây Thục rong ruổi khắp nơi, gầy đi rất nhiều, nhìn có phần tiều tụy, nhưng đôi mắt phượng lại sáng rực, như hai ngọn lửa cháy hừng hực.

Lý Đức thở dài.

Chu Lục Vân không thấy tăm hơi, nó điên thành thế này sao? Đứa con trai này mình xem nó lớn lên... Lý Đức cân nhắc mãi, ra hiệu Thái giám bày giấy mực, viết chiếu thư phát binh.

Ông không ngăn nổi con trai.

Trong triều bắt đầu vì chuyện xuất chinh mà khua chiêng gõ trống chuẩn bị, Đỗ Tư Nam đi sứ Nam Sở lần nữa, khuyên Nam Sở liên thủ với Đại Ngụy chia cắt Tây Thục, đồng thời thả ra tin đồn rằng Tây Thục chuẩn bị liên thủ với Đại Ngụy chia cắt Nam Sở, kéo dài thời gian, ngăn cản Nam Sở Tây Thục kết minh.
Lý Huyền Trinh tự xin làm tiền phong, lãnh đội phi kỵ xuất phát trước.

Trịnh Bích Ngọc tiễn hắn xuất chinh, tâm tình nặng nề.

Đêm qua, Lý Huyền Trinh dặn dò nàng: "Nếu có tin Hà Lũng truyền về, phải phái khoái mã đưa đi tiền tuyến, dù lớn hay nhỏ, không được trì hoãn."

Ngực Trịnh Bích Ngọc chợt nhói: "Tin từ Hà Lũng ạ?"

Lý Huyền Trinh liếc nàng: "Ta phái người đi theo Lý Trọng Kiền, cách mấy ngày một lần bọn hắn sẽ gửi tin về."

Hai tay Trịnh Bích Ngọc nhẹ run: "Sao Điện hạ lại phái người đi theo Vệ Quốc Công?"

Mắt phượng hẹp dài của Lý Huyền Trinh như vũng nước đọng, không một tia gợn sóng. "Ta muốn biết hắn có tìm được không."

Trịnh Bích Ngọc nhìn gương mặt bình tĩnh đến gần như quỷ dị của chồng, không dám hỏi tới.

Lý Huyền Trinh đã thay đổi.

Chàng giống như rất nóng nảy vì chuyện trước mắt, một lòng chỉ muốn mau mau đánh tan Tây Thục, không hề để ý chuyện khác, Chu Lục Vân biến mất đã lâu vậy mà chàng không hỏi một câu.
Một dự cảm bất thường quanh quẩn nơi đầu tim của Trịnh Bích Ngọc, nàng trằn trọc, không dám yên giấc, mỗi ngày phái người nghe ngóng tin tiền tuyến, sợ Lý Huyền Trinh xảy ra bất trắc.

Chừng nửa tháng, ba tuyến đại quân tuần tự xuất phát, chia ba nhánh tấn công Tây Thục.

Vua tôi Nam Sở quả nhiên thiển cận, đồng ý liên thủ với Đại Ngụy liên thủ đánh Tây Thục, nhanh phái hai đại quân đi đường thủy tiến đánh thị trấn quan trọng nhất phía Nam Tây Thục.

Hai nước đột nhiên tấn công, Tây Thục vội vàng đối phó, Mạnh thị không thể không chia binh nghênh địch.

Lý Huyền Trinh xung phong đi đầu, dẫn ba vạn đại quân tấn công quan ải phía Bắc Tây Thục, thế như chẻ tre, thế trận dũng mãnh, trong một tháng liên tiếp phá hơn mười tòa thành trì, phủ Thành Đô báo nguy, vương công quý tộc trong thành nhao nhao gom của cải trốn đi, trong Tây Thục rất nhanh phát sinh nội loạn.
Sau nửa tháng, binh sắp sửa hạ thành, trong tuyệt vọng Thục vương chém chết cơ thϊếp, một mồi lửa đốt đi hoàng cung tự mình chủ trì xây dựng, lấy thân đền nợ nước.

Lý Huyền Trinh tắm trong biển máu hứng chiến, dẫn đầu đội phi kỵ chặn ngang cắt đứt phòng tuyến cuối cùng của quân Thục, xông lên vách núi, hoành đao lập mã, một người nhung trang dính máu, áo giáp rách nát, trên mặt trầy trụa, ngóng nhìn lửa lớn trong thành cháy rực tận trời, trong mắt phượng như có hai ngọn lửa lạnh như băng chập chờn.

Đám Tần Phi một đường chém gϊếŧ, đi tới phía sau hắn, theo ánh mắt hắn nhìn, trong lòng chợt nổi trống.

Thái tử sợ lửa, đây là bí mật các tướng lĩnh ngầm hiểu.

Mấy người nhìn nhau, Tần Phi cười cười, giục ngựa tiến lên nửa thân ngựa, nói: "Điện hạ, trời sắp tối rồi, các tướng sĩ chém gϊếŧ mấy ngày mấy đêm, hay chỉnh đốn tại chỗ trước? Sáng sớm mai mới vào thành."
Lý Huyền Trinh cúi đầu, trường đao quét lên tay áo, xóa đi vết máu đặc. "Truyền lệnh xuống, lập tức vào thành."

Tần Phi sững sờ, không dám hỏi nhiều, quay qua mấy người kia nháy mắt.

Hai ngày sau, tuyên bố thắng trận truyền về Trường An, Lý Đức cực kỳ vui mừng, ngợi khen tam quân, văn võ cả triều sơn hô vạn tuế.

Khắp nơi vui mừng.

Nửa tháng sau, Lý Huyền Trinh hồi triều. Dân chúng Trường An tươi cười, đắm chìm trong niềm vui đại quân chiến thắng, ngóng trông đội phi kỵ sớm ngày trở về.

Lý Huyền Trinh mặc một bộ trang phục quân sĩ bình thường, xuyên qua đám người chen chúc, xuất hiện trước cửa cung.

Cấm vệ nhận ra hắn, giật nảy mình. Lý Huyền Trinh ra hiệu cấm vệ đừng kinh động những người khác, thẳng về Đông cung.

Trịnh Bích Ngọc đang đưa Thái tôn đá xúc cúc trong đình viện.

Lý Huyền Trinh đi xuống hành lang, cung nữ, thái giám nhìn thấy hắn, định cúi người hành lễ, hắn khoát tay, đám người không dám lên tiếng, lặng yên lui ra.

Thái tôn đứng đá xúc cúc dưới hiên, còn chưa đá chuẩn, quả bóng lăn tròn một vòng lớn, vừa vặn lăn đến dưới chân Lý Huyền Trinh.

Lý Huyền Trinh nhìn xúc cúc dưới chân, vẻ hơi hoảng hốt.

Trịnh Bích Ngọc cười ngẩng đầu, nhìn thấy Lý Huyền Trinh, khẽ giật mình. Lý Huyền Trinh nhặt xúc cúc, đi đến trước mặt con trai, sờ đầu nó.

Con trai với hắn không gần gũi mấy, mấy tháng không gặp, hắn còn mặc y phục tướng sĩ, trong phút chốc có phần không dám nhận, sợ hãi lùi hai bước, trốn ra sau lưng Trịnh Bích Ngọc.

Lý Huyền Trinh lắc đầu bật cười.

Lòng Trịnh Bích Ngọc như đã cảm giác, chấn động cả người, nhắm mắt nhận xúc cúc chồng đưa đến.

Lý Huyền Trinh nhìn nàng, môi rung rung mấy lần, không biết nên nói gì, khóe miệng kéo: "Ngọc Nương, bảo trọng."

Hốc mắt Trịnh Bích Ngọc thoáng chốc đỏ lên, cười cười: "Đại Lang, bảo trọng."

Vợ chồng mấy năm, giữa họ không có yêu thương, nhưng trên đời này có lẽ không ai hiểu đối phương bằng chính họ.

Trịnh Bích Ngọc đã nhìn ra dự định của Lý Huyền Trinh từ lâu, chỉ không muốn tin thôi, giờ Lý Huyền Trinh đánh xong Tây Thục, đảo loạn Nam Sở, đề bạt một nhóm dũng tướng, tiến cử mấy chục con cháu nhà hàn môn, an bài xong cho con trai, chàng đã hết sức vì trách nhiệm của mình, đến lúc sống cho chính mình.

Nàng trăm mối cảm xúc ngổn ngang, có thiên ngôn vạn ngữ muốn nói, cuối cùng một chữ đều nói không ra miệng.

Lý Huyền Trinh cười cười với nàng, quay đi.

Nụ cười này, từ khi quen biết nhau, lần đầu Trịnh Bích Ngọc mới thấy chàng bật cười thật tình.
Nàng nhìn bóng lưng của hắn, nước mắt ào ào. 

-----------CHƯƠNG 63---------------

Trường An, cung Thái Cực.

Đã gần xế chiều, ánh sáng lờ mờ, thái giám cầm một đoạn nến ngắn thắp từng cây đèn nến mạ vàng, tới trước ngự án, từ lư hương toan nghê phun ra từng luồng uất kim hương thanh nhạt.

Lý Đức cúi đầu phê duyệt tấu chương, khi thấy thư xin hàng của Mạnh thị Tây Thục dâng lên, rèm châu khẽ động, ngoài bình phong có tiếng bước chân dồn dập.

"Bệ hạ!" Thái giám mặt trắng bệch, đầu đầy mồ hôi, chạy vội vào nội thất, đầu gối mềm nhũn, trượt quỳ trước ngự án. "Thái tử điện hạ trở về!"

Lý Đức khẽ giật mình, nhẹ cau mày, buông thư xin hàng xuống: "Sao nó về tới rồi?"

Thái giám run rẩy cả người, lắp bắp: "Bệ hạ... Hữu vệ của Kim Ngô Vệ nói xin ngài tạm lánh đến hậu đường, Thái tử điện hạ... Điện hạ..."
Lý Đức sầm mặt: "Thái tử thế nào?"

Mặt Thái giám không còn giọt máu, quỳ sát đất, cẩn thận lựa lời, giọng hơi run: "Bệ hạ, Thái tử điện hạ không có chiếu đã vào cung, Kim Ngô Vệ không dám để ngài vào điện, Thái tử điện hạ vẫn cố xông vào!"

Lý Đức cứng đờ, trầm mặt đứng dậy, thái giám bước lên đỡ ông ra hậu đường, bị ông hất ra. Thái giám té xuống đất, không dám lên tiếng, lồm cồm đứng dậy thất thểu đuổi theo Lý Đức.

Ánh nến chập chờn, trước cửa điện bóng người xao động, tiếng la hét ầm ĩ, Kim Ngô Vệ tay cầm trường đao, canh giữ trước bậc, lớn tiếng cản đường, tiếng bước chân rối loạn.

Lý Đức ra khỏi phòng, Kim Ngô Vệ canh giữ ở trước cửa vô cùng hoảng sợ, quỳ xuống nói: "Bệ hạ, xin ngài tạm lánh..." Còn chưa nói xong, Lý Đức đã đi qua mặt họ.

Kim Ngô Vệ khϊếp vía, đầu đầy mồ hôi lạnh, liếc nhau, bất đắc dĩ đuổi theo.

Lý Đức đứng ở tiền sảnh, khoanh tay. Dưới thềm, một bóng người cao lớn đi ngược dòng người từng bước một đạp lên nguyệt đài, một thân áo đen lạnh lẽo như đao, trong tay cầm kiếm.

Chỉ thoáng chốc, Lý Đức đã nhận ra bóng dáng con mình.

Lý Huyền Trinh một mình đến đây, tuy mạo phạm nhưng tội không đáng chết, Kim Ngô Vệ biết Lý Đức coi trọng ngài ấy nên không dám ra tay làm bị thương, chỉ đành bao vây trùng điệp phòng hờ ngài ấy nổi điên đánh người.

Kim Ngô Vệ khổ khuyên Lý Đức: "Bệ hạ, hình như Thái tử điện hạ có vẻ điên cuồng, mời bệ hạ tạm lánh ạ!"

Lý Đức ánh mắt âm trầm. "Bắt lấy nó, không được đả thương."

Kim Ngô Vệ được lệnh, tăng thêm sức mạnh, ôm quyền vâng lời, bỏ đao kiếm, đổi trường thương, bay nào tới định đánh văng trường kiếm trong tay Lý Huyền Trinh.
Lý Huyền Trinh rất bình tĩnh, mắt phượng nhìn Lý Đức sau đám người, huơ kiếm chặt đứt trường thương, tiếp tục bước tới. Ánh kiếm lấp lóe, hắn không đánh bị thương ai nhưng thế thủ như tường đồng vách sắt, mưa gió không lọt, từng bước một đến gần hành lang.

Kim Ngô Vệ bất đắc dĩ, đành thủ thế, cận vệ bọc hậu trước điện nghe lệnh, cắn răng xông lên trước, như thủy triều tuôn tới Lý Huyền Trinh, trong ánh kiếm như bạc, mười mấy cánh tay như quạt hương bồ chụp tay chân hắn. Lý Huyền Trinh không thể động đậy, loảng xoảng, trường kiếm rơi xuống đất.

Kim Ngô Vệ mừng rỡ nhanh chóng đá văng trường kiếm, vặn chặt cánh tay hắn.

Lý Huyền Trinh vẫn dửng dưng, đứng dưới thềm, nhìn Lý Đức trong hành lang.

"Bệ hạ..." Trung Lang Tướng dè dặt hỏi, "Thái tử Điện hạ mất kiểm soát, xử lý sao ạ?"
Trên mặt Lý Đức mây đen giăng đầy, quay người vào điện: "Dẫn nó vào đây!"

Đám người nhìn nhau, không dám hó hé.

Vẻ mặt Lý Huyền Trinh rất khác thường, mắt tràn đầy lệ khí hung ác, Kim Ngô Vệ lo lắng bất an, sợ có biến cố, trói hay tay hắn ra sau lưng, cẩn thận rà soát không có vũ khí khác trên người rồi mới đưa vào trong điện. Lý Đức đứng trước ngự án, mặt đầy giận dữ, phất tay ra hiệu tất cả lui ra.

Trung Lang Tướng không ngừng thầm kêu khổ, ôm quyền lui ra.

Chờ tiếng bước chân đi xa, Lý Đức đi đến trước mặt Lý Huyền Trinh, bốp, một cái tát nặng nề vung tới thằng con trai. Ông là người luyện võ, bạt tai này không hề nhẹ, Lý Huyền Trinh bị đánh đến cả người té ngửa trên gạch vàng, môi tràn ra tơ máu.

"Ngươi học ai không học? Học Lý Trọng Kiền à?"

Giọng Lý Đức lạnh băng, "Trẫm là Hoàng đế, trong cung cấm vệ nghiêm ngặt, một mình ngươi mà muốn xông tới gϊếŧ trẫm? Nếu Trẫm không ra ngăn đám Kim Ngô Vệ thì chúng có thể ra tay gϊếŧ ngươi đó! Ngươi thân là Thái tử một nước, trước mặt mọi người rút kiếm xông vào cung, chuyện này truyền ra ngoài sau này phục chúng thế nào! Đàn áp đại thần thế nào! Trẫm có thể sắc lập ngươi, cũng có thể phế bỏ ngươi đó!"
"Mưu lược ẩn nhẫn bình thường của ngươi đi đâu rồi?" Lý Đức biết Lý Huyền Trinh muốn gϊếŧ mình nhưng ông không nghĩ đứa con sẽ lỗ mãng, xúc động bậc này! Cánh chim còn chưa đủ lông đã mưu toan đơn thương độc mã xông vào cung!

Ông lạnh lùng thốt: "Chương nô, ngươi thật muốn gϊếŧ trẫm thì phải nên ẩn nhẫn ẩn núp, triệu tập đội ngũ, thu mua lòng người, coi như dù không thể không có chỗ hở, thì chí ít phải làm trẫm không có lực phản kích, để đại thần trong triều không dám lắm miệng, để hoàng tử khác không nắm được đằng chuôi của ngươi!"

"Hành động của ngươi hôm nay, ngu xuẩn biết chừng nào!"

Lý Huyền Trinh ngửa mặt lên, vết máu đỏ bên môi như điên cuồng: "Tôi đúng là ngu xuẩn, nếu tôi học Lý Trọng Kiền được một chút, đâu biến thành như ngày hôm nay?"
Lý Đức nhìn hắn sưng đỏ mặt, đè cơn giận, giọng nhẹ nhàng hơn: "Chương Nô, con là con trai cha thương yêu nhất. Lý Trọng Kiền châm ngòi cha con chúng ta, con để trúng kế vậy sao?"

Lý Huyền Trinh không phản ứng, ánh mắt nhìn Lý Đức chỉ chán ghét hơn. "Cha con ta đâu cần ai châm ngòi nhỉ?"

"Lý Đức, tôi nên gϊếŧ ông từ lâu... Từ lúc mẹ chết, tôi nên ra tay rồi."

Lý Đức là Đại tướng quân quận Ngụy, là thống lĩnh đại quân cả ngày có hổ tướng đầy rẫy bên cạnh, Trung Nguyên chia năm xẻ bảy, thời cuộc bất ổn, hắn không nắm chắc gϊếŧ được Lý Đức, cũng biết gϊếŧ Lý Đức rồi nhất định thiên hạ sẽ đại loạn, hắn không có sức thu thập tàn cuộc, sẽ chỉ làm đa phần dân chúng sống không yên ổn, nên hắn tiếp tục diễn cùng Lý Đức phụ từ tử hiếu, hắn dẫn Ngụy quân xông pha chiến đấu, bình định phân loạn, phụ tá Lý Đức thành lập Đại Ngụy.
Đợi ngày thiên hạ thống nhất, là lúc chính tay hắn hạ đao với Lý Đức. Giây giây phút phút hắn đều nhớ rõ lời dặn lúc Đường thị lâm chung, đời này vì báo thù mà sống, hắn có thể đợi.

Nhưng bây giờ hắn không đợi được nữa.

Hắn mệt mỏi, muốn cầu một sự giải thoát.

"Mẹ bảo tôi gϊếŧ ông, gϊếŧ người Tạ gia, mẹ nói gì, tôi nghe nấy... Tôi có lỗi với mẹ..." Lý Huyền Trinh rướm nước mắt.

Lý Đức nhìn thằng con, thở dài, mệt mỏi phất tay. "Chuyện hôm nay trẫm sẽ xử lý tốt, ngươi về tỉnh táo hối lỗi trước đi."

Lý Huyền Trinh cười lạnh: "Thánh thượng định xử lý thế nào?"

Lý Đức vuốt mi tâm, "Trẫm sẽ che đậy cho ngươi."

Lý Trọng Kiền bướng bỉnh không thuần, thanh danh đã sớm hủy, hắn đau xót mất đi em gái, hành thích vua trước chúng, đại thần trong triều không ngoài suy đoán, người xin tha cho hắn không ít.
Lý Huyền Trinh không giống, hắn là Thái tử một nước, chuyện hôm nay tuyệt đối không thể truyền ra ngoài!

Trong góc hẻo lánh mấy tên thái giám run lẩy bẩy, hơi lạnh xông lên từ lòng bàn chân, bò khắp.

Thái tử xông thẳng vào cung trước chúng, không nể mặt Thánh thượng, hôm nay ở đây có kẻ nào tính kẻ nấy, trốn không thoát!

Thái giám tổng quản tuyệt vọng nhắm hai mắt, gần vua như gần cọp mà.

Trong yên lặng nghẹt thở, vang lên vài tiếng cười trào phúng, Lý Huyền Trinh câu khóe môi: "Thánh thượng không cần tốn lòng vì tôi, chuyện giữa hai chúng ta, không cần liên lụy những người khác."

Hắn có thể triệu tập binh mã tiến đánh cung Thái Cực, nhưng thời cơ chưa chín, hắn chưa đủ thực lực chống lại Lý Đức, tùy tiện bức thoái vị sẽ chỉ liên luỵ càng nhiều người vô tội.

Hắn không muốn chờ.
Mi tâm Lý Đức chợt nhảy: "Ngươi đã làm gì?"

Lý Huyền Trinh cười lạnh: "Làm chuyện tôi nên làm từ lâu."

Vừa dứt lời, ngoài màn có tiếng thái giám hoảng sợ run run đến chói tai: "Bệ hạ! Thế tử Hàn Vương đến!"

Lý Đức sửng sốt, thấy rèm châu kịch liệt dao động, một bóng người thất tha thất thểu xông vào đại điện, ngã nhào xuống đất, khắp người run rẩy, khóc rống. Mùi máu tươi nồng đậm đập vào mặt.

Lý Đức cúi đầu, Thế tử Hàn Vương là cháu trai ông, cha y theo ông Nam chinh Bắc chiến, sắc phong làm Hàn Vương.

Thế tử Hàn Vương quỳ sát dưới chân ông, tóc tai bù xù, run rẩy, khóc đầy nước mũi nước mắt, áo bào trên người lộn xộn, tỏa mùi hôi thối, máu tươi theo ống tay áo vạt áo nhỏ đầy đất, trên gạch vàng kéo vết máu thật dài.

Lý Đức nhìn Lý Huyền Trinh: "Ngươi đã làm gì?"
Không đợi Lý Huyền Trinh mở miệng, Thế tử Hàn Vương đã hu hu khóc lớn hơn, đầu đập đất vang bình bịch. "Bệ hạ! Thái tử điên rồi! Thái tử gϊếŧ cha thần! Gϊếŧ Tam thúc, Tứ thúc của thần... Sáu người, sáu người sống đó! Tất cả đều chết dưới kiếm của Thái tử! Tất cả tân khách trong phủ đều tận mắt nhìn thấy! Chắc chắn Thái tử điên mất rồi! Tay ngài ấy chém thân tộc, đến chú ruột mình cũng ra tay!"

"Bệ hạ! Cha thần theo bệ hạ chinh chiến, trước bảo an sau bọc hậu, trung thành tuyệt đối, có công với xã tắc, vốn nên được sống đến trăm tuổi, không ngờ chết thảm dưới kiếm Thái tử, oan uổng quá!"

"Thái tử điên cuồng bạo ngược, tàn nhẫn ngoan độc, gϊếŧ sạch chú mình, nguy hiểm như thế, sao đáng là Thái tử?! Chất nhi thân là con của người, quyết không thể ngồi nhìn cha ruột vô tội chết thảm mà nén giận im lặng, nếu bệ hạ không cho chất nhi và người Lý thị một công đạo, chất nhi có liều chết cũng phải xin cho gia phụ!"
Trong điện vắng vẻ, không ai lên tiếng, chỉ có tiếng khóc lớn của Thế tử Hàn Vương quanh quẩn góc vắng nội điện.

Qua tường thuật đứt quãng, mọi người hiểu được ngọn nguồn. Hôm nay trong buổi đại yến ở phủ Hàn Vương phủ, dòng họ Lý thị đang ngồi, rượu vào tai nóng, Lý Huyền Trinh chợt xuất hiện, họ vừa mừng vừa sợ, đang định hỏi chuyện chiến sự tiền tuyến, bỗng hắn rút kiếm, một kiếm gϊếŧ Hàn Vương.

Lập tức náo loạn, người ngã ngựa đổ.

Vệ binh Vương phủ lập tức rút đao nghênh đón, nhưng không phải đổi thủ của Lý Huyền Trinh, hắn một người một kiếm, gϊếŧ từ đại sảnh đến nội viện, tự tay gϊếŧ sáu người nhà Lý thị, đầy người đẫm máu, hai mắt đỏ rực như ác quỷ bò ra từ lòng đất. Vương phủ ngập trong tiếng khóc, mẹ của Thế tử khóc đến hôn mê.
Da mặt già nua của Lý Đức co quắp mấy lần, nhìn Lý Huyền Trinh, run người lặng thinh mãi, bỗng rên một tiếng, té bật ngửa.

"Bệ hạ!"

"Thánh nhân!"

Bọn thái giám cùng tiến lên đỡ Lý Đức. Lý Đức đẩy ra, ụa một búng máu tươi, ngón tay chỉ thẳng vào Lý Huyền Trinh: "Nghiệt chướng! Nghiệt chướng!"

Trước chúng hắn chính tay đâm ruột thịt, chuyện hẳn đã đồn khắp Trường An, thu dọn làm sao đây?

Mắt phượng hẹp dài của Lý Huyền Trinh móc lên, quét qua Thế tử Hàn Vương đang còn rấm rứt, đáy mắt lướt qua vẻ lệ khí hung tợn. Thế tử tận mắt nhìn sáu người nhà bị gϊếŧ, đã bị dọa mất mật, đến giờ nhìn bộ dáng như hung thần ác sát ngay trước mặt Lý Đức, chợt rùng mình, bò ra ngoài: "Thái tử muốn gϊếŧ người diệt khẩu!"

Lý Huyền Trinh không thèm để ý, thừa dịp mọi người chú ý vào Thế tử Hàn Vương, chợt nhảy vọt đến ngự án, keng một tiếng, rút bảo kiếm bên cạnh ngự án, mũi kiếm chỉ thẳng vào Lý Đức.
Đám người quá sợ hãi, cuống quít xông lên ngăn cản. Lý Huyền Trinh một chưởng hất tay thái giám nhào lên, mũi kiếm từng tấc từng tấc đâm vào vai phải Lý Đức.

Lý Đức không có trốn tránh.

Chân đám người run lẩy bẩy: Họ có thể không chút do dự bắn chết Lý Trọng Kiền, nhưng người hành thích hiện giờ là Thái tử, Lý Đức không lên tiếng, ai dám ra tay với Lý Huyền Trinh chứ?

Lý Huyền Trinh khóa bả vai Lý Đức, trong tay tiếp tục dùng sức: "Phụ thân, ngài biết tại sao tôi muốn gϊếŧ người của Lý thị không?"

Lý Đức giận tím mặt, đánh ra một chưởng hùng hậu. Bảo kiếm tuột khỏi tay Lý Huyền Trinh, như không muốn sống hắn tiếp tục nhào đến.

Lý Đức kinh hãi, sợ làm bị thương thằng con, cắn răng thu lại song chưởng, cổ tay khẽ đảo, lật mu bàn tay chụp về phía Lý Huyền Trinh, Lý Huyền Trinh ngã sấp xuống trước ngự án.
Thái giám run rẩy tiến lên định xử lý vết thương cho Lý Đức, Lý Đức đẩy ra, rút bảo kiếm trên vai.

Rèm châu lắc lư, Kim Ngô Vệ chạy tới.

Lý Đức nghiêm nghị nói: "Tất cả lui ra!"

Kim Ngô Vệ nhìn nhau, cười khổ lùi ra ngoài bình phong.

Lý Đức ném bảo kiếm, "Sao lại muốn gϊếŧ chú ngươi chứ?"

Lý Huyền Trinh nhìn ông cười lạnh: "Năm đó loạn quân đánh vào quận Ngụy... Tất cả đã chạy ra ngoài, chỉ có Mẹ tôi và tôi bị vây ở trong thành nội, ngài cho đấy là trùng hợp sao?"

Con ngươi Lý Đức trợn lớn. Lý Huyền Trinh bò dậy, nói tiếp: "Loạn quân là bị chúng cố ý thả vào thành, vì chúng muốn để mẹ và tôi chết chung một chỗ. Khi đó, có phải ngài đã bắt đầu nói chuyện cưới xin với thế gia khác không?"

Mặt Lý Đức cứng đờ. Lý Huyền Trinh lạnh lùng nhìn cha mình: "Ngài là Đại tướng quân, người người đều nói sau này ngài sẽ trở thành chúa tể một phương, mẹ không xứng với ngài, chúng mới muốn đem một chủ mẫu giúp ích cho Lý gia về, lúc ấy Hàn vương lãnh binh giữ quận Ngụy, biết rất rõ ràng Mẹ với tôi lâm nguy, cố ý thấy chết không cứu, chậm chạp không phái cứu binh..."
Hắn nhắm cặp mắt. "Đêm đó cửa chính đã bị chúng khóa ngoài, còn quăng đuốc muốn thiêu chết mẹ con tôi. Mẹ với tôi chạy đi, khắp nơi đều là loạn binh, tôi sợ khóc lớn, mẹ an ủi tôi rằng, cha tôi là đại anh hùng, chỉ cần tìm thấy cha sẽ tốt, không ai dám khi dễ bọn tôi nữa."

Hắn mở to mắt, trong mắt phượng hoàn toàn vắng lặng. "Lý Đức, khắp nơi rối loạn, Mẹ chỉ là một phụ nữ tay trói gà không chặt, còn dẫn theo một đứa bé, ngài có biết bà gặp chuyện gì không?"

Lý Đức bỗng nhiên trừng to mắt, hai tay run rẩy. Lý Huyền Trinh không lộ chút cảm xúc.

Lý Đức tiến lên một bước, siết chặt cổ áo Lý Huyền Trinh, khuôn mặt già nua vặn vẹo dữ tợn, không còn bình tĩnh thư thái như thường. "Ngươi điên rồi, dám bôi nhọ mẹ ngươi!"

Lý Huyền Trinh nhìn ông: "Ngài vĩnh viễn không biết Mẹ với tôi chịu bao nhiêu đau khổ."
Sắc mặt Lý Đức xanh trắng gần như lệ quỷ, răng nghiến ken két, buông tay lảo đảo lùi ra sau.

Lý Huyền Trinh đứng thẳng nhìn ông: "Mẹ trải qua nhiều khổ sở vậy, luôn nghĩ chỉ cần tìm được ngài sẽ ổn, rồi sao, khi bọn tôi tìm được ngài... Ngài đang cưới con gái Tạ gia, ngài trước mặt Mẹ tôi nói với con gái Tạ gia, vĩnh viễn không tướng phụ."

Vĩnh viễn không tướng phụ, chính là lời thề mà Lý Đức chính miệng lập trong đêm thành thân với Đường Doanh.

Lý Đức không đứng vững, rầm một tiếng ngã ngồi trước ngự án, đổ cả lư hương Toan Nghê, khuôn mặt méo mó: "Sao nàng không nói cho ta? Vì sao?!"

"Nói cho ngài?" ánh mắt Lý Huyền Trinh lạnh băng, "Tại lúc ngài cưới kẻ khác nói với ngài, rồi lại bị ngài vứt bỏ à?"

Đường Doanh không còn tin Lý Đức, bà chịu ở lại bên cạnh chỉ bởi vì đã nhận rõ hiện thực. Cho nên, khi bà và người nhà Lý thị, tỳ nữ Tạ gia cãi nhau, nghe thấy người nhà Lý thị ngấm ngầm bảo bà không xứng là phu nhân, vừa sợ vừa giận, sợ người Tạ gia biết trên đường bà chạy nạn gặp phải chuyện gì.

Lý Huyền Trinh từng chữ nói: "Mẹ chỉ là một người đàn bà bình thường không có kiến thức, bà thực sự quá sợ hãi, kết quả động thai khí đẻ non, đứa bé sinh ra đã không có hơi thở."

Lý Đức mặt trắng bệch, môi run run, không nói ra chữ. Doanh nương đã sinh non?

"Lúc ấy mẹ đã lo liệu xong, mẹ cho người chôn đứa nhỏ. Sau này nhũ mẫu nói với tôi, nếu ai cũng biết mẹ đẻ non, sẽ chỉ cho là bà thương tâm ấm ức mới tự vẫn, vậy thì sao ngài không quên được bà cả đời được? Cho nên bà bảo nhũ mẫu giấu diếm giùm bà, ngay khi ngài về nhà sẽ một đuốc mà đốt viện tử, chỉ làm vậy mới khiến ngài minh tâm khắc cốt, áy náy cả đời."

Bà chết, bảo toàn thanh danh, tranh thủ vị Thế tử cho Lý Huyền Trinh. Lý Đức cả đời không quên được bà.

Lý Huyền Trinh nhặt bảo kiếm trên đất: "Mẹ đã đạt được thứ bà muốn... Nhưng mà Mẹ chưa từng hỏi tôi, tôi có muốn làm Thế tử không?"
Trong thời loạn hắn không cầu gì khác, chỉ muốn cùng mẹ sống tốt, hắn khuyên Đường Doanh đừng tranh chấp với Tạ thị, tâm nguyện duy nhất là loạn thế sớm kết thúc, ai ai đều yên ổn.

Khi biết mẹ mang thai, hắn mừng như điên. Hắn là anh trai, hắn sẽ bảo vệ em trai, em gái hắn thật tốt, vì họ mà chống đỡ một mảng trời, cho họ vô ưu vô lự lớn lên.

Em gái vừa ra đời đã chết, không kịp lớn lên. Mẹ cũng đã chết, lúc chết còn điên điên khùng khùng, bảo hắn báo thù cho bà.

Lý Huyền Trinh quỳ gối trước mặt Mẹ, rưng rưng lập lời thề. Hắn hận Lý Đức, hận cuộc đời loạn lạc này, hận tất cả mọi người, hắn muốn tất cả chôn cùng mẹ hắn. Áy náy vì mẹ đã làm hắn mất lý trí, thay đổi thất thường.

Hắn biết rõ Lý Dao Anh vô tội, lần lượt mềm lòng, lại lần lượt nhớ tới mẹ mà trở nên cứng rắn.

"Tôi đã tra rõ, người đêm đó sai kẻ hầu khóa lại cửa sân đã chết dưới kiếm của tôi, lúc ngài cưới con gái Tạ gia, người ngăn mẹ và tôi đi dự lễ không phải người Tạ gia, là người của dòng họ Lý thị."

"Ta gϊếŧ cả rồi."

"Tôi không thể hoàn thành tất cả nguyện vọng của mẹ, tôi có lỗi với mẹ, đợi xuống dưới cửu tuyền, tôi sẽ nhận tội với mẹ." Lý Huyền Trinh quay người, đi qua ngự án, chém xuống một kiếm.

"Thái tử dừng tay!"

Một tiếng xé gió mà tới, mưa tên xé rách không khí, hung hăng đáp trên vai Lý Huyền Trinh. Lý Huyền Trinh không chút lung lay, trường kiếm trong tay vẫn chém tới Lý Đức.

Kim Ngô Vệ muốn rách mí mắt, bay tới, ngăn lực chém như ngàn quân, ôm Lý Đức lộn mấy vòng. Đám khác tiếp tục bắn tên.

Vẻ mặt Lý Huyền Trinh chết lặng, lại giơ lên bảo kiếm. Hàng đêm hắn gặp ác mộng, người không ra người, quỷ không ra quỷ, chỉ có một đoạn thời gian ngắn ngủi an bình ở Xích Bích kia không bị ác mộng quấn quanh.
A Nguyệt mang đến an bình một thoáng, bị hắn tự tay đưa đến đường cùng.

Hắn tự làm tự chịu. Mặt Lý Huyền Trinh nặn lên một nụ cười nhạt nhẽo.

Mũi tên như mạng nhện, bao phủ bay về phía hắn. Môi hắn vẫn mang nụ cười, ngã xuống.

"Không!"

Lý Đức đẩy Kim Ngô Vệ ra, bò dậy: "Dừng tay hết cho trẫm!"

Kim Ngô Vệ vội vàng thu cung tên.

Lý Đức bước qua tên loạn đầy đất, vọt tới trước Lý Huyền Trinh, đỡ hắn dậy. Lý Huyền Trinh máu me khắp người, giãy dụa sờ lấy một mũi tên, đâm về Lý Đức.

Lý Đức đẩy tay hắn ra: "Chương Nô, con điên rồi!" Nó không nên ép mình hạ lệnh Kim Ngô Vệ gϊếŧ nó? Nó là Thái tử, là Hoàng đế sau này, toàn bộ thiên hạ mình đều để lại cho nó, vì thứ gì mà nó chẳng thèm ngó ngàng?

Lý Huyền Trinh nhếch môi, hàm răng bị máu tươi nhiễm đỏ: "Lý Đức, ngài không chết, thì tôi vong..."
Chỉ thế hắn mới có thể giải thoát. Hắn muốn làm Trường Sinh nô của mẹ, không muốn dùng mạng của mẹ đổi lấy vị trí Thế tử đâu!

Lý Đức muốn rách cả mí mắt.

...

Sau nửa canh giờ, cung Thái Cực truyền ra một tin, Thái tử Lý Huyền Trinh say rượu phát cuồng, ngộ sát mấy người Hàn Vương, Lý Đức nổi giận, hạ lệnh giam ngài vào địa lao.

Tất cả chấn kinh.

Dòng họ Lý thị vô cùng bất mãn, mấy vị Vương phi đốt giấy để tang, quỳ trước cửa cung khóc rống, đại thần trong triều dâng sớ vạch tội, đều bị Lý Đức lấy thủ đoạn lôi đình trấn áp. Vài ngày sau, Đại Lý Tự tra ra Hàn vương xem mạng người như cỏ rác, cướp bóc lương dân, thu hối lộ, chiếm ruộng tốt mấy chục tội trạng, Hàn Vương thế tử cũng bị liên luỵ, mang tội phải vào tù.

Lý Đức chém một nhóm quý thích, chưa xong việc mà thu tay, vẫn tiếp tục tra rõ tôn thất, người người bất an, ông thừa cơ lưu đày mấy vị thân Vương, ra tay tàn nhẫn, không hề lưu tình, đại thần trong triều câm như hến. Trong khi đó, Lý Đức không ngừng cho người thuyết phục Lý Huyền Trinh, Lý Huyền Trinh vẫn không nói gì.
Vài hôm sau, Thái tử phi Trịnh Bích Ngọc vào cung, gặp chồng trong địa lao.

"Đại Lang..." Nàng đưa một cuộn da cừu niêm phong sáp, "Này từ Y Châu gửi về."

Lý Huyền Trinh không nhúc nhích. Trịnh Bích Ngọc nói khẽ: "Văn Chiêu công chúa còn sống."

Lý Huyền Trinh cứng đờ người, mở choàng mắt. "Nàng nói gì?" Hắn khàn giọng hỏi.

Trịnh Bích Ngọc nói: "Người chàng sắp xếp đưa Chu Lục Vân đi Y Châu, trong lúc vô tình họ nghe ngóng được, Văn Chiêu công chúa còn sống, em ấy bị Hải Đô A Lăng bắt đi."

Chu Lục Vân vô cớ biến mất, Lý Huyền Trinh không nghe không hỏi tới, Trịnh Bích Ngọc chẳng hiểu thế nào, mãi đến khi Đỗ Tư Nam gửi đến cuộn da cừu. Thì ra người là do Lý Huyền Trinh đưa tiễn, Chu Lục Vân muốn đoàn tụ với người cô, hắn thành toàn, thuận tiện phái thân binh ẩn mình bên cạnh, tra rõ tai mắt Bắc Nhung cài vào Đại Ngụy. Trước đó hắn làm bộ không biết, chỉ để che mắt người Bắc Nhung.

Người này an bài vì mọi người hết rồi. Chàng đã chuẩn bị chờ chết.

Trịnh Bích Ngọc nhìn ánh mắt Lý Huyền Trinh, thỏ thẻ: "Đại Lang, giờ chàng không gϊếŧ được Thánh thượng... Trong lòng chàng vẫn còn vướng bận, Văn Chiêu công chúa là ràng buộc của chàng, em ấy vẫn còn sống, chàng đi tìm đi, là chàng đã đưa em đi, thì cũng nên là chàng đón về."

"Đây là chàng đã mắc nợ em ấy."

Lý Huyền Trinh cúi đầu, nắm chặt cuộn da dê, mu bàn tay nổi gân xanh. 

-----------CHƯƠNG 64---------------

Nước chảy róc rách, bóng hòe xanh rì, liễu rũ nhẹ phẩy theo gió.

Xe ngựa chạy tới trước cây cầu dài vượt sông, dừng trước bờ sông, hộ vệ tùy tùng lui xuống, Trịnh Bích Ngọc vén rèm, ánh mắt đảo một vòng, ra hiệu Lý Huyền Trinh có thể xuống xe.

Lý Huyền Trinh đầu chít khỏa bình*, mặc áo bào vải không mới không cũ, nhảy xuống xe ngựa, thân binh dắt ngựa đến, yên ngựa trang bị vật dụng, túi đựng tên, bao khỏa...
Trịnh Bích Ngọc không xuống xe, ngồi trong xe nhẹ nhàng nói: "Điện hạ, chỉ đưa được chàng đến đây."

Lý Huyền Trinh quay đầu nhìn nàng: "Ngọc Nương, tạ ơn nàng."

Trịnh Bích Ngọc cười: "Điện hạ không cần cám ơn ta, chỉ vì ta còn thiếu ân tình điện hạ năm đó."

Lý Huyền Trinh nhớ tới nam tử kia, giật mình.

Cạnh cầu gió lớn, Trịnh Bích Ngọc đưa tay vén sợi tóc mai bị gió thổi loạn: "Đại Lang, năm đó chàng không gϊếŧ Trịnh Võ, ta rất cảm kích chàng."

...

Trịnh Võ là người hầu của Trịnh gia, sau trở thành hộ vệ của Trịnh Bích Ngọc, khi nàng lấy chồng lần đầu, Trịnh Võ đưa nàng xuất các, nhìn nàng cùng chồng bước vào thanh lư, động phòng hoa chúc.

Trịnh Bích Ngọc chưa từng nhìn Trịnh Võ hơn một cái, nàng là đích nữ thế gia, xuất thân cao quý, danh tiếng hiền huệ truyền xa, hẳn sẽ gả vào vọng tộc làm chủ mẫu, đâu thể thiếu tự trọng, để ý nô bộc trong nhà?
Ngay hôm sau ngày nàng thành thân, Trịnh Võ rời đi.

Hắn ra chiến trận, theo Trịnh công tử chinh chiến sa trường, bắt đầu từ sĩ tốt nhỏ nhất, từng chút từng chút góp nhặt quân công. Hắn anh dũng gϊếŧ địch, lên chức rất nhanh, nhưng trong thời loạn người như hắn thực sự nhiều lắm, dù gì hắn cũng chỉ là thế bộc của Tạ gia, mặc hắn liều mạng cỡ nào cuối cùng cũng chỉ là Tiểu giáo úy cạnh Trịnh công tử.

Ngày chồng đầu của Trịnh Bích Ngọc chết trên tay Lý gia, trước mấy ngày thành phá, Trịnh Võ tìm đến nàng.

"Nữ lang... Triệu gia không phải đối thủ của Lý gia... vài ngày nữa quân Ngụy sẽ tấn công vào thành." Hắn cầm đao đứng dưới thềm, cả người đầy máu, vẻ thiếu tự nhiên, ánh mắt đen láy thẳng tắp nhìn Trịnh Bích Ngọc.

Cuối cùng, hắn lấy dũng khí nói ra: "Đi theo ta đi, ta dẫn nữ lang rời đi, sau này đối xử tốt với nữ lang cả đời."
Trịnh Bích Ngọc từ nhỏ thuộc lòng nữ huấn, gò bó khuôn phép, chưa hề làm qua chuyện gì khác người. Đêm đó, không biết từ đâu nàng có được quyết tâm, xách mép váy từng bước bước xuống thềm đá, đi đến trước mặt Trịnh Võ.

Trịnh Võ mở cờ trong lòng.

Họ đều không nói gì, nhìn nhau trong chốc lát.

Ngay lúc Trịnh Võ định mở miệng, chợt vang tiếng bước chân, người Trịnh gia phái tới trà trộn vào Triệu phủ tìm tới, quỳ dưới chân Trịnh Bích Ngọc: "Nữ lang, một chi xa của họ chúng ta đang ở dưới trướng đại tướng quận Ngụy, rất được tin tưởng, lang quân phái bộc đến báo cho nữ lang, Ngụy quân thế như chẻ tre, khí số của Triệu gia đã hết, dặn nữ lang đừng kinh hoàng, Lý đại tướng quân quận Ngụy đã truyền chỉ lệnh, Ngụy quân sẽ không mạo phạm nữ lang."
Thoảng như có cơn gió thổi qua, ngọn lửa mới dấy lên ở đầu quả tim Trịnh Bích Ngọc lập tức dập tắt.

Nàng ở lại Triệu gia, chờ người trong họ đến đón nàng. Trịnh Võ không nói không rằng, quay đi.

Không lâu sau, Triệu gia hủy diệt, Lý gia phái người đến cửa, Trịnh Bích Ngọc gả cho Lý Huyền Trinh.

Đêm thành hôn, nàng ngồi trong thanh lư, đoan trang dịu dàng, Lý Huyền Trinh ngồi cạnh nàng, tuấn lãng trầm tĩnh, hai người đều bình thản đến gần như lạnh lùng, không lộ vẻ gì vui mừng, bà chúc hỉ không khỏi ngượng mặt, không dám thốt ra lời ghẹo.

Lúc nửa đêm, nến đỏ treo cao, tân khách đều rời đi, Trịnh Bích Ngọc nhìn ánh nến chập chờn không biết vì sao bỗng nhiên đỏ mắt.

Lý Huyền Trinh nhìn nàng, đứng dậy, nói: "Nàng nghỉ ngơi trước đi."

Trịnh Bích Ngọc sững sờ.

Lúc này, ở tường sau vườn nghe tiếng đánh nhau ầm ĩ, có người cao giọng hét lên có thích khách. Lý Huyền Trinh vén rèm ra ngoài.
Không bao lâu, Trịnh Võ bị trói gô đưa đến trước mặt Lý Huyền Trinh, hộ vệ gặng hỏi, hắn không nói một lời.

Lý Huyền Trinh giơ đao lên.

Trong trướng Trịnh Bích Ngọc có linh cảm, lần ra ngoài, nhận ra Trịnh Võ, hơi thở đông cứng. Trịnh Võ thấy nàng, con mắt chăm chú nhìn nàng. Cả người Trịnh Bích Ngọc cứng ngắc, nhưng không mở miệng ngăn cản Lý Huyền Trinh.

Trường đao rơi xuống, nàng cắn chặt răng, không thốt một tiếng.

Trịnh Võ cũng không lên tiếng.

Hắn không chết, một đao kia chỉ gọt vài cọng tóc.

Trịnh Bích Ngọc chảy nước mắt.

Lý Huyền Trinh ra hiệu những người khác lui ra, cởi trói cho Trịnh Võ, quay nhìn Trịnh Bích Ngọc. "Các ngươi đi đi."

Hai mắt Trịnh Bích Ngọc rưng rưng, từng bước đi đến trước mặt Lý Huyền Trinh, cúi lạy. "Còn Thế tử phải làm sao?"

Lý Huyền Trinh xách đao, mặt không phẫn nộ cũng không căm hận, bình tĩnh nói: "Vợ của ta chỉ cần là đích nữ Trịnh thị là đủ. Ngọc Nương, ta không phải người chồng tốt, nếu Ngọc Nương chỉ cầu làm Thế tử phu nhân tôn vinh, ta cam đoan sẽ tôn kính nàng, đối xử tốt với nàng, còn cái khác, ta không cho được. Ngọc Nương lòng đã có nơi yêu thương, đừng uất ức chính mình, ta sẽ xử lý tốt mấy chuyện sau này, cha nàng sẽ không phái người truy sát các người đâu."
"Ta sẽ bảo Tần Phi hộ tống các người rời đi, trước tiên các người có thể đi Nam Sở tránh đầu gió, mai sau ta lại cưới một cô con gái khác của Trịnh thị, dòng dõi Trịnh gia vẫn hưng vượng."

Trịnh Bích Ngọc hạ giọng cảm ơn nước mắt ròng ròng, Trịnh Võ mừng rỡ, kéo tay nàng, dẫn nàng rời đi.

Không có nỗi lo về sau, không bị đuổi theo, không cần áy náy liên lụy gia tộc... mọi lo lắng của Trịnh Bích Ngọc đều sẽ không có, nàng có thể buông tất cả gánh nặng, theo Trịnh Võ rời đi.

Nhưng một khắc bước ra cửa sân, nàng lại dừng bước.

Trịnh Võ dừng lại, cúi nhìn nàng, vẻ mặt từ vô cùng vui mừng, nghi hoặc, ngớ người, chấn kinh, phẫn nộ, thất vọng, cuối cùng là lòng như tro nguội.

Hắn hiểu rất rõ Trịnh Bích Ngọc, nàng sinh ra là một nữ tử tính tình lạnh lùng, lý trí mà khắc chế.

Nàng là con gái thế gia, vứt bỏ thân phận cùng hắn rời đi, hai người sau này làm gì để sống qua ngày? Làm sao đối mặt với đàm tiếu của người đời?

Gả cho Lý Huyền Trinh, nàng chính là phu nhân của Thế tử Lý gia, sau này còn có thể trở thành Thái Tử Phi, thậm chí là thê bằng phu quý trở thành Mẫu nghi một nước, sao cam tâm vì một thế bộc thân phận hèn mọn từ bỏ mọi thứ?

Trịnh Võ cười tự giễu, nhẹ nhàng buông tay Trịnh Bích Ngọc. "Tôn ti có thứ tự, không thể vượt giới hạn. Bộc si tâm vọng tưởng, xin Thế tử và Thế tử phu nhân thứ tội."

Trịnh Bích Ngọc đưa mắt nhìn bóng lưng hắn biến mất trong bóng đêm đen kịt, phủi nhẹ nước mắt bờ mi, trở lại thanh lư, ngồi trơ suốt đêm.

Mấy năm sau, trong lúc vô tình Trịnh Bích Ngọc nghe được một tin dữ, Trịnh Võ chết rồi.
Trịnh Bích Ngọc không hề lộ cảm xúc, hờ hững ừm rồi tiếp tục cười nói với đám phụ nữ trong bữa tiệc, trở về nội viện, ôm con dỗ nó ăn canh nóng, trên mặt vẫn treo nụ cười.

Nàng cười cả ngày, thẳng đến nửa đêm, bỗng từ trong mộng bừng tỉnh, gọi tên Trịnh Võ.

Một tấm khăn đưa tới trước mặt nàng, Lý Huyền Trinh nhìn nàng, trong mắt phượng không hề có vẻ cười nhạo khinh thị, nói: "Ngọc Nương, nén bi thương."

Trịnh Bích Ngọc lã chã rơi lệ.

...

Trước cây cầu dài, yên liễu đưa tình.

Lý Huyền Trinh đứng cạnh tuấn mã, hỏi: "Ngọc Nương, nàng có từng hối hận không?"

Trịnh Bích Ngọc lắc đầu: "Điện hạ, thϊếp chưa hề hối hận." Nàng hiểu mình, có làm lại lần nữa, nàng vẫn chọn như vậy. "Đại Lang, thϊếp không hối hận... Nhưng mỗi lần nhớ đến Trịnh Võ, trong lòng đều thấy trống rỗng một khoảng, dù bù đắp cách nào cũng không thể lấp chỗ trống."
Trịnh Bích Ngọc nhìn Lý Huyền Trinh, chân thành nói: "Thϊếp đã không có cơ hội bù đắp, cho nên trước kia dù chàng và Chu Lục Vân loạn thế nào, thϊếp cũng hy vọng chàng có thể cùng người mình yêu song túc song tê*."

*chỉ loài chim trống mái gắn bó, tình cảm nam nữ sâu sắc như hình với bóng.

Mấy năm qua Lý Huyền Trinh đối với nàng không tệ, nàng là gái hai đời chồng, đêm tân hôn còn suýt rời đi cùng một người đàn ông khác, chàng biết toàn bộ, cũng hiểu sở cầu của nàng là vinh hoa, chưa hề giễu cợt khinh miệt nàng.

Nàng cảm kích chàng, thương hại chàng, nàng thanh tỉnh lý trí, lòng đã già nua từ lâu, chỉ cần gia đình yên ổn, hoàn toàn không quan tâm oanh oanh yến yến cạnh chàng. Chàng vẫn còn có cơ hội giày vò vì tình, tốt biết bao!

"Đại Lang, Văn Chiêu công chúa còn sống, chàng còn cơ hội chuộc tội, nhận rõ lòng mình, đừng vì thù hận che mắt chàng, người chết không thể sống lại, đừng để mình tiếc nuối."
Lý Huyền Trinh ngơ một lát, trở mình lên ngựa. "Ngọc Nương, mấy năm nay ta không chịu buông tha Lý Trọng Kiền, cuối cùng còn ép A Nguyệt hòa thân, vì đâu nàng ấy còn muốn liều chết cho thân binh cảnh báo ta?"

Trịnh Bích Ngọc hất cằm: "Điện hạ cho là Thất công chúa ghi hận trong lòng với chàng và toàn bộ triều đình, ngồi nhìn Bắc Nhung đánh lén Đại Ngụy, muốn Đại Ngụy và mấy triệu bách tính chôn cùng theo mình ư?"

Nàng cười một tiếng. "Điện hạ, chàng quá coi thường người."

Lý Huyền Trinh kéo cương: "Đúng, ta quá coi thường người. Ta luôn tự nhủ, Lý Đức là thiên tử, ông có chỗ bất đắc dĩ của mình, thiên hạ còn chưa nhất thống, ta không thể vì thù riêng mà gϊếŧ ông, nên ta để Lý Trọng Kiền ra tay, vị trí Thế tử là mẹ dùng mạng đổi lấy, không ai có thể cướp đi."
Hắn lặng thinh thật lâu, những năm qua đang lướt lên trong đầu. "A Nguyệt đã cho ta cơ hội... Nếu khi đó ta bình thản ôn hòa nhận thiện ý của nàng, sẽ không phát sinh những việc thế này."

Hắn quá bướng bỉnh. "Ta có gì khác Lý Đức chứ?"

Gặp thời loạn, nam nhi tốt, không nghĩ tới cứu giúp núi sông, bình định loạn thế, giải cứu vạn dân trong nước lửa, vì ước nguyện của mẹ không phân biệt thị phi, vô tri vô giác. A Nguyệt bị dồn vào đường cùng, vẫn giữa thù riêng và đại nghĩa quả quyết lựa chọn đại nghĩa, hắn có khát vọng chấm dứt thời loạn, lòng lại hẹp hòi, dung túng thuộc hạ tính toán trung lương.

Một phòng không quét, quét làm sao được thiên hạ?

Hắn bị tâm ma vây khốn, căn bản không xứng là Thái tử một nước.

"Ngọc Nương, nàng là một người mẹ tốt." Lý Huyền Trinh thúc nhẹ bụng ngựa, "Dạy con chúng ta cho tốt, đừng để nó lớn lên giống như ta."
Trịnh Bích Ngọc gật đầu: "Chàng yên tâm."

Tuấn mã tung vó, dần đi xa.

Nhưng đúng lúc này, tiếng vó ngựa từ cổng thành truyền đến như sấm, bụi mù tung kín, mấy chục khoái mã lao vụt mà tới.

"Thái tử điện hạ —— " Bùi Đô đốc dẫn đầu la to: "Dừng bước!"

Lý Huyền Trinh không quay lại.

Bùi Đô đốc gầm lên: "Điện hạ, Thánh thượng có lệnh, Điện hạ đi tiếp một bước, bọn ta sẽ bắn tên!"

Lý Huyền Trinh vẫn không quay đầu.

Khoái mã xông lên đầu cầu, Bùi đô đốc cắn răng, trầm giọng: "Bắn tên!"

Kim Ngô Vệ hô vâng, giương cung buông dây, một tiếng bén nhọn xé gió, mưa tên như châu chấu chụp về Lý Huyền Trinh.

Lý Huyền Trinh giục ngựa về hướng Tây, bóng lưng kiên định đơn độc. A Nguyệt còn sống, hắn còn có cơ hội xin tội, dù nàng có tha thứ hắn không, hắn vẫn muốn đi cứu nàng.
Lý Huyền Trinh trước kia đã chết.

Bùi Đô đốc đến cùng không dám hạ sát thủ, đành đưa mắt nhìn theo bóng Lý Huyền Trinh biến mất trong yên liễu khói sương, hồi cung nghe lệnh.

"Thánh thượng, Thái tử Điện hạ đã đi."

Vết thương kiếm đâm trên vai Lý Đức còn chưa tốt, nghe vậy, ụa ra một búng máu.

Vị trí Thái tử mà Đường Doanh dùng mạng đổi lấy, Lý Huyền Trinh nói không cần là không cần.

Tâm huyết nửa đời người của ông, cứ vậy bỏ đi!

Cô gia quả nhân... Cô gia quả nhân...

Lý Đức nhìn vết máu đỏ tươi trên tấu chương, hai tay run rẩy. Đứa con trai ông thương yêu trân trọng nhất cũng vứt bỏ ông mà đi.

Hương khói lượn lờ trước ngự án.

...

Lý Huyền Trinh rời Trường An, ra roi thúc ngựa, ăn uống trên lưng ngựa, bằng tốc độ nhanh nhất đuổi tới Lương Châu. Quan viên Lương Châu giật cả mình, Lý Huyền Trinh gọi tướng thủ thành đến, bố trí từng việc, chúng tướng tuân lệnh.
Hắn đổi con ngựa tốt, châm đầy túi nước, mang theo mấy con ngựa không ai ngồi dự bị, lên đường về phía Tây.

Cuối cùng dãy Kỳ Liên Sơn nguy nga đã xuất hiện nơi chân trời, hắn đội mũ mềm, thay áo da dày, không dừng lại ngủ đêm, tiếp tục đi đường.

Cảnh giới Bắc Nhung rất nghiêm ngặt, nghiêm cấm người Hán nhập quan, cũng may trước khi hắn xuất phát nhận được tuyến báo của thân binh, trên đường đi tránh các trạm gác của đối phương, hữu kinh vô hiểm tiến vào địa phận sông Lũng, ngẫu nhiên gặp được một đội binh tuần tra Bắc Nhung, bị nghi vấn, hắn không nói không rằng trực tiếp chém gϊếŧ, cướp ngựa, sau đó nhanh chóng đổi hướng đi tiếp.

Khắp nơi mênh mông vô ngần, tiếng gió rít gào, giữa trời đất không thấy bất cứ gì khác, dường như chỉ có một mình hắn.
Hôm ấy, hắn đã ba ngày chưa ăn, vừa mệt vừa đói vừa lạnh vừa khát, vượt qua núi non trùng điệp tuyết trắng bao phủ, đột nhiên nghe được một tiếng bén nhọn.

Một mũi tên sắt phá gió tuyết, bắn ra.

Lý Huyền Trinh ngửa người ra sau, né mũi tên, té xuống lưng ngựa. Tuấn mã chấn kinh, nâng vó trước, hí lên cao vút.

Mấy bóng đen từ dưới đất tuyết trồi lên, bổ vào trước đường núi, ghìm chặt con ngựa đang chấn kinh, một người đi đến trước mặt Lý Huyền Trinh, một đao chém xuống, khí thế ác liệt.

Gió lạnh thấu xương thổi rối bời tóc hắn, lộ ra đôi mắt phượng âm u.

Lý Huyền Trinh lộn một cái né tránh trường đao, tháo mặt nạ. Đối phương nhận ra hắn, run run, lập tức, trong mắt phượng dâng lên hừng hực lửa giận, nhấc cánh tay giơ đao, khuôn mặt dữ tợn.

Lý Huyền Trinh nhìn đối phương, không đánh trả: "Lý Trọng Kiền, Minh Nguyệt Nô còn sống."
Hắn luôn phái người đi theo Lý Trọng Kiền, biết hắn tìm kiếm xác Lý Dao Anh khu vực này, đến Hà Lũng là để báo tin cho Lý Trọng Kiền.

Nghe thấy tên em gái, Lý Trọng Kiền chấn động cả người, cứng rắn dừng trường đao trong tay, mắt phượng mở lớn, tiến lên một bước, túm cổ áo Lý Huyền Trinh: "Ngươi nói cái gì?"

Giọng khàn đặc, đôi mắt đỏ như máu, ánh mắt âm trầm như muốn ăn tươi nuốt sống người kia.

"Ta không lừa ngươi." Lý Huyền Trinh từng chữ nói, "ta lấy mạng ra thề, em ấy còn sống, lúc Diệp Lỗ bị diệt em ấy bị Hải Đô A Lăng bắt đi, tin từ Bắc Nhung đưa về, vô cùng chính xác."

Lý Trọng Kiền không nói, con mắt đỏ như nhỏ ra máu, cánh tay siết chặt cổ áo Lý Huyền Trinh run rẩy từng đợt. Hắn nhìn thân binh bên cạnh, động tác quỷ dị.

Thân binh quỳ rạp xuống đất, giọng run run, gật đầu: "Lang quân, không phải ngài đang nằm mơ! Ngài không có điên! Thất công chúa còn sống!"
Con mắt đỏ ngầu của Lý Trọng Kiền thoáng hiện vài tia sáng, "Minh Nguyệt nô còn sống..."

Mấy ngày qua hắn luôn mơ thấy Tiểu Thất, mơ thấy con bé gối đầu lên đầu gối hắn nũng nịu, mơ thấy con bé vô cùng vui sướng dạng chân tập đi, mơ thấy con bé tỉnh từ cơn hôn mê, nhìn thấy mặt hắn, hai mắt tỏa sáng: "Anh, anh còn sống!"

Hắn mơ thấy con bé một mình trơ trọi ngồi trong lều khóc, chung quanh đều là người Diệp Lỗ thô lỗ, con bé khóc gọi tên hắn, gọi hắn cứu mình. Hắn muốn cứu con bé nhưng cơ thể không thể động đậy, đành trơ mắt nhìn em chịu khổ.

Mỗi lần bừng tỉnh từ cơn ác mộng, trước mắt chỉ có một mảnh xám mênh mông hoang dã.

Đôi khi hắn mơ thấy mình tìm rồi lại tìm, tìm rất lâu không tìm được em mình, bỗng có người vỗ vỗ vai hắn, cười khanh khách: "Thất công chúa còn sống nha? Ngươi đang tìm cái gì?"
Trong mơ Lý Trọng Kiền mừng phát điên, đúng, hắn ngốc quá, Tiểu Thất còn sống mà! Sau khi tỉnh lại, hắn ngơ ngác ngồi dựa vào sơn động, hiểu ra vừa rồi chỉ là giấc mộng..

Cảnh trong mơ tươi đẹp đến chừng nào, vừa thức tỉnh có chừng ấy tê tim liệt phổi.

Ở ngoài ngàn dặm đột nhiên Lý Huyền Trinh xuất hiện ở trước mắt, hẳn đây cũng chỉ là một giấc mơ ly kỳ. Thân binh quỳ dưới chân hắn, nói đây không phải mộng. Tiểu Thất còn sống.

Lý Trọng Kiền quay đầu nhìn thẳng Lý Huyền Trinh, mắt phượng lóe ra ánh sáng lạnh lẽo hung ác như băng, sắc bạc lóe lên trường đao chém xuống.

Lý Huyền Trinh bay ra sau, né phát đao tàn nhẫn này. "Minh Nguyệt nô đang ở Bắc Nhung, Lý Trọng Kiền, bằng mấy người các ngươi, làm sao cứu em ấy đây? Cho là các ngươi cứu em ấy ra khỏi Bắc Nhung đi. Làm sao các ngươi về được Trung Nguyên?"

Hắn đứng trong đống tuyết, khuôn mặt trầm tĩnh. "Không có người dẫn đường, không có chỉ dẫn, bao lâu ngươi mới tìm được em ấy? Một năm? Hai năm?"

"Lý Trọng Kiền, giờ người của ta đang ở Nha trướng Bắc Nhung, ta có cách trong vòng hai tháng đến Y Châu, ngươi gϊếŧ ta, ai dẫn ngươi đi cứu Minh Nguyệt nô?"

Lý Trọng Kiền hé mắt.

Lý Huyền Trinh nói: "Món nợ giữa ngươi ta, sau sẽ tự có một ngày tính toán rõ ràng. Ngay lúc này, ta chỉ muốn cứu Minh Nguyệt nô trước."

Lý Trọng Kiền thu trường đao.

Không gì quan trọng bằng sự an nguy của Tiểu Thất.

Tiểu Thất, đừng sợ, chờ anh, anh tới cứu em. 

-----------CHƯƠNG 65---------------

Mười ngày sau, đoàn Lý Trọng Kiền, Lý Huyền Trinh đến Sa Châu.

Bắc Nhung ban bố lệnh cấm biên, bảo vệ cực kỳ nghiêm ngặt, đội buôn hay người đi đường qua lại phải qua kiểm tra cẩn thận.
Lý Huyền Trinh đã chuẩn bị từ trước, lúc xuất phát ở Lương Châu đã bố trí, lợi dụng mật thám của Trưởng công chúa Nghĩa Khánh bị bắt lúc trước, giả giấy tờ, ngụy trang thành thám tử Bắc Nhung, lấy danh nghĩa "dâng quà chúc thọ cho Trưởng công chúa Nghĩa Khánh" để thông qua kiểm tra của quân canh giữ Bắc Nhung, thuận lợi qua quan ải, còn nghênh ngang vào ở dịch trạm của Bắc Nhung, đi nhanh nói nhanh, yêu cầu ngựa tốt nhất nhanh nhất.

Trong lúc đó tình cờ có vị tướng thủ biên hoài nghi thân phận họ, mật thám kia liền nổi giận, quát lớn, vênh mặt hất hàm sai khiến, lên cơn ngang ngược, uy hϊếp rằng đến nha đình Y Châu sẽ mời Trưởng công chúa Nghĩa Khánh làm chủ cho gã, đuổi đám tướng thủ này đến Tát Mạt Kiện cuối ngọn gió Tây Bắc đi.

Sarmakand so với Toái Diệp, Khanh Quốc*, Sử Quốc, các vùng xa hơn nữa, sản vật phong phú, thương nhân tụ hợp, vừa vặn nằm trong con đường tơ lụa thông với Ba Tư, vô số đội buôn đi dọc đường, vận chuyển tơ lụa, đồ sứ, trà Trung Nguyên về phía Tây, vị trí địa lý hiểm yếu. Mấy năm gần đây Bắc Nhung rất nhanh mở rộng, Ngỏa Hãn Khả Hãn đối với những vùng đất phía Bắc Lĩnh Nam màu mỡ thèm nhỏ dãi đã lâu, trước đó từng phái một đội viễn chinh tiến xa nhất đến Sarmakand, sau đó không còn tin tức. Nội bộ của giai cấp Bắc Nhung rất nghiêm, đại bộ phận quân sĩ xuất thân bình dân đều sợ bị đày đi Sarmakand chịu chết. Tướng thủ biên đang nửa tin nửa ngờ, gặp thái độ thân binh phách lối, không dám đắc tội, lập tức cho đi.
*Trung Á Uzbekistan ngày nay.

Mật thám nói cho nhóm Lý Huyền Trinh, sau khi Trưởng công chúa Nghĩa Khánh hòa thân ở Đột Quyết, lần lượt gả cho ba cha con Lão Khả Hãn, sau này họ thần phục Bắc Nhung, Trưởng công chúa Nghĩa Khánh rơi vào tay của quý tộc Bắc Nhung, là lão sư của Hải Đô A Lăng.

Tiếng Hán của Hải Đô A Lăng chính là do Trưởng công chúa Nghĩa Khánh dạy, sở dĩ y nắm rõ phong thổ, triều đình các nước Trung Nguyên như lòng bàn tay đều nhờ vào Trưởng công chúa Nghĩa Khánh hết mình truyền đạt.

Cả nhóm bôn ba cả ngày lẫn đêm, thời tiết ngày càng lạnh, khắp nơi mênh mông, đi suốt mấy ngày không gặp bóng dáng một ốc đảo, khắp nơi chỉ thấy cát và lẫn trong cát là xương ngựa, xương lạc đà, thậm chí là xương người.

Thỉnh thoảng gặp được thành nhỏ xây cạnh ốc đảo, bọn hắn chui vào thăm dò tin tức từ dân thường, không thu hoạch được gì, đa số người dân vẻ mặt xanh xao chết lặng, không dám trò chuyện với người lạ. Sợ hỏi nhiều gây nghi ngờ, đành thôi.
Lý Huyền Trinh sầm mặt. Càng đi về Tây Bắc, hắn càng phát hiện con dân còn muốn khổ hơn hắn từng tưởng tượng.

Sa Châu, Qua Châu giờ đã thất thủ trước Bắc Nhung. Càng đi, bọn họ càng thấy người dân bất kể là người Hồ hay người Hán, tất cả đều phải thắt bím mặc áo chéo vạt trái giống như người Bắc Nhung, nói tiếng Hồ, dự lễ người Hồ. Bắc Nhung phân biệt cao quý bần tiện, dân chúng ở tầng lớp dưới cùng được xem như súc vật, cảnh ngộ bi thảm. Mỗi khi có binh sĩ Bắc Nhung đi ngang, dân thường phải né vào ven đường, cung kính hành lễ, không được nhìn thẳng. Ai dám cao giọng nói chuyện hay giương mắt nhìn binh sĩ, đều bị coi là bất kính, nhẹ bị quất roi trước chúng, nặng bị bẻ tay móc mắt, kết quả rất thê thảm.

Lý Huyền Trinh sợ bại lộ thân phận, trên đường gặp được lính Bắc Nhung ức hϊếp dân lành không thể tiến lên ngăn cản, đành yên lặng cắn răng.
Có lần, họ nhìn thấy lính Bắc Nhung xua đuổi một nhóm người già quần áo lam lũ, tóc trắng xoá, gầy trơ xương ra khỏi thành, rất nhiều trai gái khóc đuổi theo sau, nước mắt như mưa, gào khóc chia tay, bị lính Bắc Nhung đuổi về. Nhóm người già nước mắt tuôn đầy, quay nhìn thân nhân trong thành một chút rồi chùi nước mắt ra đi.

Trước cửa thành tiếng khóc động trời.

Lý Huyền Trinh nắm chặt hai đấm, hỏi mật thám: "Họ phạm tội gì thế? Bị đẩy đi đâu?"

Mật thám nhỏ giọng trả lời: "Người Bắc Nhung chuộng vũ lực, khỏe quý yếu khinh, cứ đến mỗi mùa đông, ra lệnh cưỡng chế các lão giã các bộ tộc từ sáu mươi trở lên, không còn khả năng trồng trọt săn bắt dời ra khỏi thành... khỏi lãng phí lương thực. Ai dám không theo, bắt buộc nộp thuế theo quy định, mỗi miệng ăn năm lượng vàng, mười đầu dê, hoặc một con ngựa, ba thạch lương*, hai mươi tấm lông cừu..."
*1 thạch = 100litre

Với dân chúng bình thường, trời mùa đông giá lạnh, mỗi nhà còn chưa đủ ăn, lấy đâu nộp thuế nặng để lấy lòng người Bắc Nhung, đào ở đâu mà để giành đủ năm lượng vàng đổi người nhà? Mấy người già phần lớn không muốn liên lụy người nhà, đành chịu xua đuổi đến vùng đất đói lạnh nghèo nàn chờ chết.

Từ biệt ở cửa thành chính là vĩnh biệt sinh tử.

Đám người Trung Nguyên nghe đến đó, lòng đầy căm phẫn. Thiên hạ còn có chuyện táng tận lương tâm thế sao!

Lý Trọng Kiền đưa mắt ra hiệu thân binh tạm thời ở yên đừng nóng nảy, họ đến tìm người, tốt nhất đừng gây thêm phức tạp. Hắn chỉ muốn cứu Minh Nguyệt nô về, sống chết kẻ khác không liên quan.

Rời Sa Châu, qua Ngũ Phong, xuyên qua sa mạc tám trăm dặm hoang tàn mênh mông, cách Y Châu ngày càng gần.
Hôm đó, mọi người dừng lại nghỉ ngơi ở một gò đất bị gió bấc ăn mòn mấp mô, Lý Huyền Trinh phái mấy thân binh chia ra đi Cao Xương, Quy Tư.

Lý Trọng Kiền cảnh giác hỏi: "Sao lại phái chúng đi Cao Xương?"

Lý Huyền Trinh dùng tay vẽ lên các mấy tuyến đường chính: "Đây là Y Châu, đây là Cao Xương, Yên Kỳ, Quy Tư, khu này là phía Bắc con đường tơ lụa, ngày xưa Vương triều ổn định, ở các nơi đều có Châu huyện, có binh đóng giữ, đường mua bán được yên ổn, người ở đông đúc, sau này Trung Nguyên đại loạn, Tây Vực thất thủ, con đường buôn bán bị cắt đứt, bây giờ những địa phương này phần lớn đã thần phục Bắc Nhung."

"Bắc Nhung còn man di, lấy thủ đoạn sắt để trấn áp từng bộ tộc, dung túng binh sĩ vơ vét cướp đội buôn, có lẽ vì tình thế bắt buộc, những nước nhỏ này đành trung thành với Bắc Nhung nhưng luôn vẫn có lòng người còn hướng về Vương triều Trung Nguyên, dù sao đại bộ phận vương công quý tộc vốn đều là danh môn vọng tộc một vùng Hà Tây sau này."
"Chúng ta muốn đi nha đình Bắc Nhung cứu người, không bằng phái người đi các nơi này thám thính tình hình thực tế, xem có thể thuyết phục họ nội ứng ngoại hợp với ta, sau này chung sức chống lại Bắc Nhung."

Lý Trọng Kiền gật gù, đã rõ dự định của Lý Huyền Trinh.

Bọn hắn xâm nhập Tây Vực, tứ cố vô thân, trước tiên phải thử tìm mấy người trợ giúp. Thứ nhất, nếu sau này bị người Bắc Nhung phát hiện, có thể bỏ chạy trước đến mấy chỗ này. Thứ hai, có họ tương trợ, khả năng bình an về Trung Nguyên sẽ lớn hơn. Thứ ba, dĩ nhiên là kế vì thiên hạ, vì triều đình thu phục đất cũ.

Lý Trọng Kiền không quan tâm đến điểm thứ ba, cứu Lý Dao Anh được rồi hắn sẽ lập tức mang nàng về Trung Nguyên.

"Còn một chỗ, ta cần tự mình đi một chuyến." Ngón tay Lý Huyền Trinh chỉ vào một điểm tận cùng phía Bắc. "Ở đây có một Phật Quốc khiến thế lực Bắc Nhung không cách nào tiến sâu vào, Khả Hãn Bắc Nhung từng bại dưới tay Quân chủ Phật Quốc, các nước Tây Vực hẳn đều ôm tâm tư."
Mày rậm Lý Trọng Kiền nhẹ vặn: "Phật Quốc à?"

Lý Huyền Trinh mấp máy đôi môi đã bong da: "Vương Đình sùng Phật, Quân chủ của họ cũng là cao tăng, khoảng mười một năm trước, hắn dẫn binh đánh lui Khả Hãn Bắc Nhung, tên tuổi vang dội toàn Tây Vực."

Hai năm trước, Lý Huyền Trinh, Lý Đức và nhóm phụ tá từng bàn về khả năng thu phục Tây Vực. Lúc ấy họ đều nhận định, Trung Nguyên muốn thu phục Tây Vực, cũng giống như đoạt mồi trong miệng mãnh hổ là Bắc Nhung ngày càng lớn mạnh.

Ngoài ra, phía Bắc Tây Vực còn có một quốc gia giàu có cũng không thể khinh thường, Quân chủ của họ tiếng tốt lan xa, được dân rất kính yêu, lệnh một tiếng trên dưới cả nước đều có thể theo hắn lao ra chiến trận.

Lý Huyền Trinh cảm thán: "Mười một năm trước, Khả Hãn Bắc Nhung đang tuổi sung mãn không kẻ bì kịp, đánh đâu thắng đó, lại đại bại dưới tay Phật Tử, vị Quân chủ này anh tài ngút trời, nếu có lòng muốn lớn mạnh chắc chắn là một kình địch rất lớn... Cũng may hắn ta là cao tăng đắc đạo, một lòng bảo vệ Phật quốc, không có dấu hiệu mở rộng ra ngoài."
"Hải Đô A Lăng quỷ kế đa đoan, không biết chúng ta có thể thuận lợi cứu Minh Nguyệt nô ra không. Ta phái người dọc theo con đường Cao Xương nghe ngóng tin tức trước, nếu cần, ta tự mình đi sứ Phật Quốc, thể hiện thân phận ra chỗ Phật Tử, xin hắn viện thủ, mâu thuẫn Phật quốc và Bắc Nhung trùng điệp, ta dùng minh ước thuyết phục thì có thể hắn sẽ kết minh với chúng ta."

"Sau khi đến Y Châu, nếu có biến, chúng ta theo các đường đã vạch, nếu bình an chạy đến Bắc Nhung, gặp nhau ở Phật quốc."

Mấy năm liền Lý Trọng Kiền lãnh binh đánh trận, trong người tự có tính toán trước, dù không am hiểu nhiều về Tây Vực, nhưng bỏ công suy tư có thể nhìn rõ cục diện, tính toán thật nhanh, cân nhắc lợi hại, gật gù.

Dọc đường Lý Huyền Trinh rất an phận, trước khi cứu Minh Nguyệt Nô ra an toàn, hắn có thể nhẫn nại tạm thời không gϊếŧ Lý Huyền Trinh. Chờ cứu em rồi, hắn lại ra tay vậy.
...

Trong lúc mấy người Lý Trọng Kiền xuyên qua sa mạc tám trăm dặm thẳng tới Y Châu, Dao Anh đang đi về phía Nam.

Để né đoàn người của Tiểu Vương tử Bắc Nhung, họ chạy liên tục mấy ngày đường.

Trời đông giá rét, đóng băng ngàn dặm, trong phạm vi mắt nhìn được khắp nơi óng ánh trắng muốt, núi tuyết liên miên chân trời, mây che đỉnh núi mù sương, thi thoảng lộ ra vài góc đá lởm chởm, tươi đẹp tráng lệ.

Con ưng của Đàm Ma La Già luôn đi theo họ trở thành trinh sát, tuần tra canh chừng. Dù trời trong hay trời tuyết, Dao Anh thường xuyên trông thấy bóng nó bay lượn trên không.

Hôm ấy, nàng thấy con ưng đáp xuống, đậu trên vai Tô Đan Cổ, nhớ tới những chuyện bữa giờ, gọi Tề Niên tới hỏi ông có thấy chỗ mấy Hồ thương bán ưng đưa thư không.

Tề Niên cố nhớ lại, lắc đầu: "Người bán ưng không ít, nhưng bán ưng để đưa thư thì chưa từng nghe. Công chúa muốn nuôi ưng ạ? Bộc có thể hỏi thăm một chút cho người."
Dao Anh lắc đầu, bỏ ý định.

Thuần dưỡng ưng trung thành để đưa thư chỉ có thể gặp mà không thể cầu, ưng của Đàm Ma La Già và Hải Đô A Lăng đều thuần dưỡng bắt đầu từ ưng con, hơn nữa, ưng đưa thư phải quen thuộc hoàn cảnh mới phát huy tác dụng, cho rằng nàng mua được ưng đưa thư thì ngay lập tức cũng không thể dùng được.

Nàng giương mắt chằm chằm nhìn con ưng đến ngây người, con ưng đứng trên đầu vai của Tô Đan Cổ, con mắt sắc bén liếc nàng.

Dao Anh cười khẽ, móc ra thịt khô. Ưng vẫn liếc.

Dao Anh xoay đi không nhìn nó, lòng bàn tay vẫn hướng lên trên. Chỉ sau chốc lát, trong lòng bàn tay hơi nhói, ưng đã mổ thịt khô trong tay.

Một người một ưng đang chơi đùa, đội ngũ chợt ngừng lại, Duyên Giác đi đầu lao vụt về, "Là cướp đường!"

Đám người thất kinh, lật đật cảnh giác, hộ vệ rút trường đao, bày ra chiến trận, bảo vệ Lý Dao Anh vào chính giữa, đám Tề Niên nhanh chóng trèo vào xe ngựa.
Tô Đan Cổ quay lại, đôi mắt xanh dưới mặt nạ bình tĩnh không lay động, ra hiệu cho Duyên Giác.

Duyên Giác vâng lời, dẫn người lùi về cạnh Dao Anh, ra hiệu họ tránh sang một bên gò núi.

Tất cả rút lui đến gò núi, Dao Anh nhìn ra xa, đúng là có một đám người ngựa tay cầm gậy gộc đao kiếm chạy nhanh về phía bọn họ, khí thế hùng hổ, ánh đao lấp lóe.

Nhóm cướp đường này rất giảo hoạt, biết mượn nhờ địa hình che dấu vết, che tiếng vó ngựa, lại mặc áo khoác ngắn tay mỏng màu trắng, giữa vùng đất tuyết, ưng rất khó phát hiện chúng.

Tiếng hò hét của đám cướp đến gần, trong chớp mắt đã nhào vào trước mặt họ.

Tạ Thanh rút đao, đá bụng ngựa định tiến lên, thân binh Vương Đình đưa tay ngăn lại, nhìn Tô Đan Cổ, nín thở tập trung.

Dao Anh nhìn theo.

Tô Đan Cổ để tất cả lui lại, một mình tiến lên, đánh ngựa leo lên một chỗ địa thế tương đối cao, ung dung không vội, khí thế ngưng tụ.
Lòng Dao Anh rất gấp, thầm nghĩ: Không phải ngài muốn một mình gϊếŧ sạch hết cướp chứ?

Duyên Giác đánh ngựa đi theo sau lưng Tô Đan Cổ, dâng lên một cây cung sừng trâu và mấy mũi tên sắt. Tô Đan Cổ cởϊ áσ khoác đen bên ngoài, cầm lấy trường cung, gài tên, giương cung căng đầy, tay vượn giãn ra.

Trong nháy mắt, tất cả khí thế lạnh thấu xương của con đường tuyết gập ghềnh này đều tụ về người hắn.

Tên cướp đầu sỏ nhìn thấy Tô Đan Cổ, cười gằn tiếp tục chạy đến, người bình thường bắn hơn một trăm mười bước đã gọi là cao thủ, cách xa thế này, giữa gió tuyết tràn ngập, bắn tên được cái thá gì? Chỉ là thủ đoạn dọa người thôi!

Tô Đan Cổ tập trung lên cung tên, đầu mũi tên chĩa về xa xa, không nhúc nhích. Thấy đạo phỉ càng lúc càng gần, hắn vẫn không bắn.
Mấy người Tạ Xung, Tạ Bằng muốn kìm không nổi, không bày ra trận phòng thủ sẵn, đợi chúng công tới, họ sẽ không có đường lui!

Dao Anh quay sang lắc đầu, ra hiệu chờ một chút.

Tiếng cướp cười to phách lối theo gió truyền đến, đúng lúc này, chỉ nghe dây cung mấy tiếng nhẹ vang, tiếng mũi tên đáp lại vụt ra, như cầu vồng xuyên mặt trời, xé gió tuyết lao thẳng về phía đám cướp.

Khoảng cách quá xa, tên cầm đầu cũng không rối, đưa đao ngang lên chặn, vừa nâng, đã nghe tiếng rít bên tai, mũi tên sắt nhanh như sét đánh, thẳng về phía trước ngực gã!

Tên cầm đầu ngây người, vẻ mặt đầy dữ tợn, mắt trợn muốn rớt ra ngoài, chửi một tiếng, đưa tay định gạt tên, lại phát hiện tên này nhìn như rất bình thường nhưng vô cùng có lực, xa hơn hai trăm bước, trực tiếp xuyên thủng áo giáp gã!
Mấy tên người Hồ nhìn rõ gã bị thương, rất ngạc nhiên lo sợ. Gã cầm đầu cắn răng: "Tiếp tục xông đến!" Gã thúc ngựa tiếp tục tiến lên.

Ngựa Tô Đan Cổ trụ trên gò tuyết, nhìn xuống đám cướp đằng xa, như quan sát đàn kiến hôi, lại giương cung, vèo vèo vèo, mũi thứ hai, thứ ba, thứ tư liên tiếp bắn ra, thế như gió đuổi.

Mấy tiếng rơi bịch bịch, gã cầm đầu người Hồ rơi xuống lưng ngựa, miệng há lớn, chết không nhắm mắt, trước ngực cắm đầy tên sắt.

Mỗi một tên đều không sai không lệch bắn lên một mình người gã, khí thế vạn quân, vẫn mang ung dung như ngắt hoa trong nháy mắt.

Thấy tên cầm đầu đã chết, đám còn lại hoảng hốt, không dám thúc ngựa tiến lên tiếp, cả xác của tên cầm đầu cũng bất chấp, lập tức quay đầu ngựa, chạy tứ tán.

Tô Đan Cổ không tiếp tục bắn.
Mấy người Tạ Xung thấy mà than thở, nhỏ giọng: "Tài bắn tên của Nhϊếp Chính Vương thật điêu luyện."

Đám cướp đã chạy trốn, hẳn không còn dám tới, cả đám xuống gò núi, tiếp tục đi. Mấy người Tạ Xung không dám lơ là, hễ nghe tiếng vó ngựa tới gần liền tranh thủ rút đao canh chừng.

Duyên Giác cười trấn an: "Mọi người yên tâm, mấy đám cướp Cao Xương lúc này hoặc là dân trôi dạt khắp nơi, hoặc là lưu dân làm thuê cho quý tộc, phần lớn không phải người cùng hung cực ác, một đám ô hợp thôi, Nhϊếp Chính Vương đã gϊếŧ tên cầm đầu, đám còn lại tự nhiên tan thôi. Từ đây đến Cao Xương sẽ không còn ai cản đường."

Tạ Xung không tin, vẫn giữ cảnh giác, nhưng thật sự như lời Duyên Giác nói, hành trình sau đó quả nhiên bình an vô sự, không còn giặc cỏ dám cản đường cướp bóc.
Hai ngày sau, họ bình an đến Cao Xương. 

-----------CHƯƠNG 66---------------

Cao Xương nằm sâu trong lục địa, địa thế thuận lợi, khống chế từ Nam đến Bắc Thiên Sơn, pha trộn người nhiều bộ tộc.

Là một tiểu quốc giữa ốc đảo, nó từng lệ thuộc vào các chính quyền khác nhau cát cứ, sinh tồn chật vật giữa kẽ hở của nhiều thế lực lớn mạnh. Lúc Vương triều Trung Nguyên còn giàu mạnh, nó luôn tìm cách phụ thuộc vào Vương triều Trung Nguyên, từng nhập vào bản đồ của Vương triều thời Đường, trở thành trạm gác quan trọng thời Đường, các phong tục lễ nghi, chính sách Pháp lệnh, văn tự quan phủ, ngôn ngữ sử dụng đều giống Trung Nguyên.

Trung Nguyên đại loạn, giữa chiến loạn phân ly, Hà Lũng thất thủ, các Châu ở Tây Vực bị cô lập, Tây Châu lại trở thành Cao Xương, rất nhiều vọng tộc ở Hà Tây, Lũng Tây và dân thường rối rít đến Cao Xương tị nạn, người Hán, người Đột Quyết, người Túc Đặc, người Thiết Lặc và rất nhiều bộ tộc định cư nơi đây, trong đó người Hán chiếm đa số.
Uất Trì thị vốn là vọng tộc Lũng Tây, sau khi dời đến Cao Xương liên hôn với Vương tộc bản địa, cuối cùng đổi vị thành Quốc chủ. Quốc chủ tại vị là Uất Trì Đạt Ma, từng cưới con gái của vọng tộc Trương thị, mấy năm trước đại quân Bắc Nhung trấn áp, Cao Xương thần phục Bắc Nhung, Uất Trì Đạt Ma cưới cháu gái Ngỏa Hãn Khả Hãn, xưng thần với Bắc Nhung.

Vương thành Cao Xương xây dựa vào con sông, địa thế hiểm yếu, mấy chục dặm ngoại thành hoàn toàn là vùng đất hoang lương, càng tới gần thành quách, người càng dày đặc, đón gió Bấc khô lạnh, từng đội buôn từ các thành bang khác nhau lui tới như cát chảy, tiếng lục lạc du dương quanh quẩn từng đợt, đội buôn lạc đà xếp hàng chờ vào thành nối đuôi lòi ra thật dài.

Đoàn Dao Anh lục tục xuống ngựa chờ vào thành. Họ đã chuẩn bị sẵn giấy qua cửa từ sớm, không lo bị kiểm tra, chỉ sợ lộ thân phận.
Nhân lúc xếp hàng, Duyên Giác nhỏ giọng trò chuyện với Dao Anh, cậu là một trong rất ít người trong đội biết mục đích thật của chuyến đi này.

Cậu nhìn Tô Đan Cổ đứng đầu đoàn, gãi gãi đầu, nhỏ giọng hỏi: "Công chúa, có một việc tôi nghĩ mãi không rõ. Uất Trì Quốc chủ tên là Đạt Ma, hẳn Vương thất Cao Xương là người tin Phật, phần lớn người Cao Xương tin Phật, dân chúng vô cùng tôn kính Vương, hàng năm đều có rất nhiều người đi Thánh Thành nghe Vương tuyên giảng, Vương công quý tộc tranh nhau cúng dường. Không phải chỉ cần chúng ta nêu danh của Vương họ sẽ đồng ý kết minh ngay sao? Sao công chúa phải tự mình đến Cao Xương?"

Dao Anh cười cười, nói: "Vương thất Uất Trì gốc Hà Tây, chịu ảnh hưởng Nho giáo rất sâu, phong tục ở đây hơi khác Vương Đình, ta tự mình đến càng có thành ý."
Mặt Duyên Giác không tin tưởng lắm. Dao Anh cũng không giải thích nhiều.

Cao Xương sùng Phật, Quốc chủ Uất Trì mỗi năm đều tiến cống rượu nho đến Vương Đình, nhưng nặng về Vương quyền hơn. Đây từng là Châu huyện theo Vương quyền của Vương triều Trung Nguyên, người Hán chiếm đa số, người học làm quan đều học hành nghiên cứu Nho gia kinh điển, Ngũ kinh, chư sử, dù mấy năm qua dưới tình thế ép buộc không được học theo, mà đổi sang phong tục người Hồ, nói tiếng Hồ giống các tiểu quốc thần phục Bắc Nhung khác, nhưng ảnh hưởng Trung Nguyên rất nhiều năm qua vẫn còn sâu tận gốc rễ.

Năm đó sau khi Pháp sư Huyền Trang thỉnh kinh về Trung Nguyên, được cha con Lý Thế Dân, Lý Trị dùng lễ đãi ngộ, hoàng thất lui tới tấp nập, ngài là một vị sư thông minh, hiểu rằng phải dựa vào hoàng thất mới phát dương quang đại Phật đạo. Ngài từng đưa ra hai thỉnh cầu với Lý Trị: Xếp Phật giáo trước Đạo giáo, huỷ bỏ Pháp lệnh tăng ni phạm pháp cũng chịu tội giống dân thường, cho các sư đặc quyền nhất định. Lý Trị mặc dù rất tôn sùng Pháp sư Huyền Trang vẫn quả quyết bác bỏ thỉnh cầu đó. Ở Trung Nguyên, sa môn xuất thế hay nhập thế đều luôn phục tùng dưới Vương quyền. Làm một Hoàng đế, Lý Trị không ngốc mà đồng ý lời thỉnh cầu của Pháp sư Huyền Trang.
Tương tự, Uất Trì Đạt Ma dù tôn kính Đàm Ma La Già đến đâu, nhắc đến việc kết minh ông ta vẫn phải cân nhắc lợi hại vì lợi ích cho Cao Xương, không xử lý theo cảm tính.

Duyên Giác và các thân binh từ nhỏ lớn lên ở Vương Đình, cuồng nhiệt sùng bái Đàm Ma La Già, nghĩ vương công quý tộc thần phục Phật Tử là chuyện đương nhiên, Dao Anh giải thích nhiều hơn cũng vô ích.

Mấy năm qua Đàm Ma La Già có thể làm yêu ma quỷ quái kinh sợ, không đơn thuần chỉ dựa vào Phật pháp đâu!

Tâm tư Dao Anh chợt động. Xét từ biểu hiện của Duyên Giác, có thể suy ra thái độ của sứ giả Vương Đình đi sứ sẽ ngạo mạn bậc nào, vậy nên lần trước Tô Đan Cổ đi sứ Cao Xương mới thất bại phải không nhỉ?

Nàng nhìn Tô Đan Cổ, lắc đầu bật cười. Tô Đan Cổ đúng là lệ khí đầy người nhưng cũng chẳng phải loại người cao ngạo đến thất lễ, có điều hắn ít nói, tuyệt không phải người thích hợp đi sứ, sao khi Đàm Ma La Già bệnh nặng cứ phải đuổi hắn đi sứ Cao Xương nhỉ?
Rõ ràng A Sử Na Tất Sa mới là người đi sứ hợp lý nhất...

Một tràng tỳ bà cắt mạch suy nghĩ của Dao Anh, phía trước người người nhốn nháo, đến phiên họ vào thành.

Cả đoàn tiến vào thành, tiếng gió lập tức nhỏ đi rất nhiều, một luồng hơi nóng hầm hập đập vào mặt đầy mùi vị khói lửa nhân gian hỗn tạp.

Dao Anh mang mạng che, luôn để ý quan sát người qua lại, lông mày nhẹ chau. Cả đoạn đường dù nam nữ già trẻ, không ai phục sức theo Trung Nguyên. Đàn ông phụ nữ đều mặc áo tay hẹp, tóc tết bím rủ xuống lưng, đàn ông hông đeo chủy thủ, phụ nữ trang trí bím tóc bằng châu ngọc.

Đây vốn là đất cũ của Trung Nguyên.

Dao Anh vừa đi vừa ngạc nhiên nhìn đến ngây người, không để ý phía trước có người đột ngột dừng bước, quay lại nhìn nàng, bị va vào. Nàng không kịp phản ứng, hơi lảo đảo còn đối phương kiên cố như bức tường, không nhúc nhích.
Duyên Giác kế bên mở to hai mắt nhìn.

Dao Anh xoa trán, ngửa mặt lên, đối diện với đôi mắt xanh sâu thẳm của Tô Đan Cổ. Nàng cười cười với hắn, đôi mắt đẹp chớp chớp, khuôn mặt che dưới tấm mạng không thấy rõ biểu lộ, đôi mắt lộ ra vẻ quyến rũ phá lệ.

Mặt Duyên Giác đầy kỳ lạ.

Đợi Dao Anh đứng vững lại, Tô Đan Cổ nói: "Ba ngày sau, Uất Trì Đạt Ma sẽ đi Vương Tự lễ Phật."

Dao Anh hiểu ý, gật gù, sẽ là thời gian họ gặp Uất Trì Đạt Ma.

"Tô Tướng quân, vậy mấy hôm nay ta muốn đi dạo phố chợ tí." Dao Anh nghĩ nghĩ, bổ sung một câu, "Ta muốn nghe chút tin tức, lúc đàm phán với Uất Trì Đạt Ma có thêm phần thắng."

Tô Đan Cổ ừ.

Dao Anh thở phào, đừng thấy Tô Đan Cổ hung thần ác sát, thật ra rất dễ nói chuyện, cả đường đi hễ nàng cần thương lượng gì, chỉ cần nói lý do hắn đều nghiêm túc cân nhắc.
Họ tìm một dịch xá trọ lại, chưởng quỹ nhiệt tình đón tiếp: "Khách quan đi đường mệt mỏi, mời vào tiền đường nghỉ ngơi một chút."

Trong tiền đường đốt lò sưởi, cả đoàn vừa mệt vừa đói, ngồi vây quanh dùng canh sưởi ấm.

Dao Anh mỏi mệt không chịu nổi, uống bát canh nóng ăn mấy miếng bánh Hồ rồi về phòng nghỉ ngơi. Tiểu nhị mang thùng tắm nước nóng đến, nàng lập tức tỉnh táo lại, cởi bộ đồ đầy bụi đất tuyết bùn, ngâm mình vào trong nước thơm ấm áp, thoải mái đến chẳng muốn động một ngón tay.

Đi cùng một đám đàn ông, nàng không muốn trở thành vướng bận, luôn cắn răng đi nhanh, đói ăn lương khô cứng lạnh lẽo, lạnh mặc thêm mấy lớp áo, mệt mỏi để nguyên áo quần mà nằm. Đừng nói tắm rửa, ngay cả dùng nước nóng lau người còn là hy vọng xa vời. May là giờ này mùa đông, nàng còn chịu được.
Ngâm trong nước nóng một hồi, tứ chi cứng ngắc từ từ thả lỏng, vừa mỏi nhừ vừa đau, Dao Anh thấy buồn ngủ, dưới lầu chợt nghe tiếng người ngựa ồn ào, có người cao giọng quát tiểu nhị, ngựa hí cao vút.

Nghe tiếng bước chân lên cầu thang. Dao Anh lập tức đứng dậy, vội vàng lau khô tóc dài ướt đẫm, nhanh tay vấn tạm búi tóc, mặc y phục.

Có tiếng gõ cửa, giọng Tạ Thanh. "Tiểu Vương tử Bắc Nhung theo đến."

Dao Anh hơi hồi hộp, "Hắn phát hiện chúng ta à?"

Tạ Thanh lắc đầu: "Chúng không biết chúng ta nhưng trùng hợp cũng ở dịch xá này, tất cả mười tám người, đang chặn ở viện dưới lầu. Duyên Giác xin chỉ thị Nhϊếp Chính Vương, Nhϊếp Chính Vương bảo lấy bất biến ứng vạn biến."

Dao Anh nhíu mày. Oan gia ngõ hẹp một lần là đủ, cứ nghĩ đã cắt đuôi được Tiểu Vương tử Bắc Nhung, không ngờ họ vừa chân trước vào ở, chúng chân sau đã thò vào.
Nàng trầm ngâm một lát: "Nhϊếp Chính Vương nói rất đúng, lấy bất biến ứng vạn biến. Chúng ta mới vừa vào ở, vô duyên vô cớ đổi dịch xá sẽ bị người Bắc Nhung hoài nghi, chi bằng cứ ở tiếp. Chúng ta biết thân phận chúng, vừa vặn mượn cơ hội tìm hiểu mục đích chúng đến Cao Xương."

Dịch xá này vốn là một cứ điểm của Vương Đình ở Cao Xương, nếu không bọn Tô Đan Cổ sẽ không vào ở, ánh mắt Tiểu Vương tử tốt thật, chọn đại trúng chỗ nguy hiểm nhất.

Tạ Thanh vâng lệnh, ra dặn đám Tạ Xung làm việc cẩn thận, không có việc gì tốt nhất đừng ra ngoài. Họ là người Hán, quá chói mắt.

Đoàn Tiểu Vương tử ngang ngạnh hống hách, vừa vào phòng đã bắt đầu cao giọng sai bảo tiểu nhị, đuổi các lữ khách khác, chiếm lấy lò sưởi, gọi một nhóm Hồ nữ hát rong hát ở tiền sảnh mua vui, tiếng tỳ bà lúc sục sôi, lúc u oán, thỉnh thoảng vang lên tiếng mấy cô gái Hồ nũng nịu rồi mắng yêu.

Dân buôn bán vào dịch xá vào Nam ra Bắc đã thấu sự đời, thấy cách ăn mặc của bọn chúng biết chúng không phú thì quý, giận mà không dám nói gì.

Đám Dao Anh đã sức cùng lực kiệt, về phòng ngủ lại từ lâu, không ra khỏi cửa.

Huyên náo đến mãi nửa đêm còn chưa có dấu hiệu dừng lại. Giọng Tiểu Vương tử vừa lớn vừa vang, làm Dao Anh lăn lộn ngủ không được, mãi sau nửa đêm Tiểu Vương tử yên tĩnh bớt, nàng mới mơ màng thϊếp đi, bỗng nhiên bừng tỉnh từ trong mộng, ngẩn người, xuống đất rót cho mình chén nước lạnh.

Trước cửa sổ có một bóng đen đứng đó không nhúc nhích, quỷ mị.

Dao Anh giật nảy mình, làm rơi chén sành trong tay.

Nghe tiếng vỡ, bóng đen bỗng nhúc nhích, đẩy cửa sổ, một gương mặt nạ Dạ Xoa xuất hiện trong bóng tối.

Cánh tay Dao Anh nổi đầy da gà, cứng người, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, đến khi ánh mắt đối diện với cặp mắt xanh của đối phương, giật mình, dở khóc dở cười: "Tô Tướng quân?"
Tô Đan Cổ nhìn mặt nàng, không nói gì, ánh mắt chậm rãi lia xuống quét mắt một vòng chỗ chén vỡ.

Dao Anh nhỏ giọng: "Ta khát nước, uống nước, không cẩn thận đánh rơi."

Tô Đan Cổ ừm, không nói gì, quay đi.

Dao Anh đưa mắt nhìn hắn đi xa, lấy cái chén khác rót chén nước, uống vào mấy ngụm, ngồi lại giường, ngây một lúc rồi nằm xuống ngủ tiếp.

Chỉ sau chốc lát, ngoài cửa sổ lại có tiếng bước chân cố hết sức nhẹ bước.

Dao Anh lập tức mở to mắt, cặp mắt sáng rực trong bóng đêm, đảo quanh một vòng, rất cẩn thận ngồi dậy, xuống giường, rón rén đi đến cửa sổ, đẩy cửa ra.

Bóng đen đứng trước cửa, một đôi mắt xanh dưới tấm mặt nạ bình tĩnh chăm chú nhìn nàng.

Dao Anh không khỏi ngượng ngùng, xem ra hắn biết nàng không ngủ được. 

-----------CHƯƠNG 67---------------
Mặt nạ Dạ Xoa dữ tợn hung ác, cặp mắt trừng trừng, trong ánh sáng lờ mờ càng thấy nanh ác, giống lệ quỷ bò ra từ lòng đất tới lấy mạng.

Nửa đêm bừng tỉnh, chợt phát hiện có một người đứng lặng trước cửa sổ thế này, nếu nhát gan đã bị dọa mất nửa mạng. Xem như Dao Anh còn trấn định, chỉ làm rơi một chén sành, không thét lên.

Bởi ngay tức khắc nhìn thấy mặt nạ Dạ Xoa nàng đoán chắc phần lớn người ấy là Tô Đan Cổ.

Đây không phải lần đầu.

...

Trên đường đi Cao Xương, mỗi đêm nghỉ ở dịch xá lữ điếm, phòng của Tô Đan Cổ luôn rất gần phòng Dao Anh.

Hắn đóng cửa không ra, không một tiếng động, nàng hầu như chẳng phát hiện sự tồn tại của hắn, mãi đến một hôm nàng đi vệ sinh vô ý đụng ngã lò sưởi trong phòng phát ra tiếng động, chỉ sau chốc lát Tạ Thanh chạy tới, hai người dọn dẹp lộn xộn trong phòng, nàng mở cửa cho thoáng mùi, vô tình liếc qua hành lang thấy trong góc khuất có một bóng người cao ngất.

Dao Anh không phản ứng gì. Suốt hành trình sau đó nàng để ý quan sát Tô Đan Cổ.

Đôi lúc họ không thể không ngủ ngoài hoang mạc, nàng nằm cạnh đống lửa và quần áo, một mình Tô Đan Cổ cách xa đoàn, lúc nàng mơ mơ tỉnh tỉnh, phát hiện xa xa hắn không nghỉ ngơi, luôn canh chừng. Có mấy đêm, Dao Anh bị lạnh đông cứng đến tỉnh, không muốn đánh thức Tạ Thanh, khoanh tay run lập cập, nghe tiếng gió lớn gào thét, nghĩ cảnh mình xa Trung Nguyên, không biết anh trai thế nào rồi, khó tránh xót xa, bóng Tô Đan Cổ một mình ngồi cách đoàn người rơi vào mắt, lòng nàng dần bình tĩnh lại.

Biển sao mênh mông, khắp nơi hoang vu, núi tuyết tráng lệ, cốc sâu thăm thẳm, giữa trời đất mênh mông người đàn ông này một mình ngồi đó, như một ngọn núi lồng lộng đứng sừng sững.

Hắn một vai chống đỡ mọi gian khó, có hắn ở đây, cả đoàn sẽ bình an trở về Vương Đình. Cảm giác làm cho người cảm thấy vô cùng yên ổn, an tâm này, trên người một người khác, Dao Anh cũng từng cảm nhận qua.
Khi đó lá cờ tuyết trắng thêu chỉ vàng phần phật bay trong gió, Đàm Ma La Già thân cưỡi ngựa trắng, dẫn vạn quân xuất hiện ở nơi sa mạc cát bay đầy trời.

Nên Dao Anh không sợ Tô Đan Cổ.

Đàm Ma La Già dù lạnh lùng thanh cao, nhưng ôn hòa.

Tô Đan Cổ hung thần ác sát, giữa chiêu chiêu thức thức lại luôn lộ một lòng từ bi mạnh mẽ, chỉ là nó quá lặng lẽ, là từ bi che giấu bởi vẻ lạnh lùng.

...

Hôm nay họ vào trọ ở dịch xá, Tô Đan Cổ ở ngay cạnh Dao Anh. Vừa rồi nàng gặp ác mộng có lẽ đã kêu thành tiếng, Tô Đan Cổ nghe tiếng động cho là nàng xảy ra chuyện, chạy tới xem xét tình huống.

Hẳn hắn sẽ thức cả đêm nay.

Dao Anh đoán bóng người là Tô Đan Cổ, rất nhanh tỉnh táo lại, chỉ không ngờ hắn đã đi còn quay lại, sợ chui ra dọa hắn giật mình, lại bị hắn tóm gọn, ngượng ngùng cười cười.
Tô Đan Cổ không nói gì chỉ nhìn nàng, không một câu giải thích.

Dao Anh không bị ánh mắt lạnh lùng hờ hững của hắn dọa lùi, nhô nửa người ra khỏi cửa sổ, tóc đen rối thả xuống, mi cong cong, mắt sáng như sao, nhỏ giọng hỏi: "Tô Tướng quân, Pháp sư cho ngài hộ tống bọn tôi tới Cao Xương, là bởi vì tôi à?"

Bóng Tô Đan Cổ không nhúc nhích.

Dao Anh nhìn thẳng cặp mắt xanh của hắn tự nói tiếp: "Vốn là Tướng quân A Sử Na sẽ theo hỗ trợ tôi đi sứ Cao Xương, đáng tiếc anh ấy bị thương, có phải Pháp sư lo Hải Đô A Lăng lại đột nhiên xuất hiện không?"

Tất Sa không thể làm Hải Đô A Lăng biến khéo thành vụng, mình lại bị thương, Đàm Ma La Già cho Tô Đan Cổ từng thất bại thay Tất Sa đi sứ lần nữa, hẳn để đề phòng Hải Đô A Lăng. Hải Đô A Lăng võ công cao cường, mấy hộ vệ này đều không phải là đối thủ của hắn.
Dao Anh nghĩ đến một khả năng: Con ưng của Đàm Ma La Già sở dĩ luôn theo đoàn, mục đích chính yếu nhất không phải truyền tin như Duyên Giác nói, mà là tìm kiếm con ưng trắng kia của Hải Đô A Lăng.

Đàm Ma La Già đã chiêu cáo thiên hạ, lúc này Hải Đô A Lăng không dám xuống tay với nàng, nhưng chuyến này họ không thể bại lộ thân phận, ngộ nhỡ Hải Đô A Lăng biết được hành trình của họ thừa cơ đoạt người thì sao?

Tiểu Vương tử Bắc Nhung Kim Bột đột nhiên xuất hiện ở Cao Xương, nói không chừng Hải Đô A Lăng đang ở đâu gần đây. Cho nên Tô Đan Cổ không dám lơ là.

Dao Anh không chớp mắt chăm chú nhìn Tô Đan Cổ, gặng hỏi: "Tô tướng quân, có phải Hải Đô A Lăng đã theo đến không? Tướng quân sợ tôi bị dọa nên mới giấu tôi?"

Đôi mắt xanh sâu thẳm của Tô Đan Cổ cuối cùng có phản ứng, một tia kinh ngạc thoáng qua.
Dao Anh thở dài, nói: "Tướng quân cứ nói thật cho tôi, có Tướng quân ở đây, tôi không sợ." Nàng dựa vào trước cửa sổ, tóc xanh dày mượt phủ đầy vai đen nhánh, càng tôn làn da tuyết trắng, đôi mắt sáng trong.

Tiểu Vương tử ầm ĩ cả ngày đã ngủ, trong dịch xá vắng vẻ như nước. Phòng họ ở trong cùng, thân binh phía ngoài đều đang ngủ say, yên tĩnh đến tiếng kim rơi cũng nghe được.

Tô Đan Cổ lặng thinh mãi lâu, rồi một giọng khàn khàn vang lên: "Kim Bột đã tới Cao Xương, có thể Hải Đô A Lăng cũng sẽ xuất hiện, có điều tạm thời ta chưa phát hiện tung tích của y."

Dao Anh cười cười: "Cả đoạn đường này Tướng quân vất vả rồi." Quả nhiên, hắn luôn âm thầm bảo vệ nàng.

Tô Đan Cổ dời mắt, nói: "Công chúa ngủ ngon đi." Nói xong, không đợi Dao Anh mở miệng, đôi tay mang găng da màu đen đã nhẹ khép cửa sổ.
Trước mắt nàng chỉ còn song cửa sổ bám bụi bẩn.

Dao Anh lắc đầu bật cười, lại kéo mở cửa sổ. "Tô Tướng quân." Nàng nhẹ giọng gọi hắn, "Ta muốn hỏi ngài một việc."

Tô Đan Cổ cúi đầu nhìn nàng.

Dao Anh cười híp mắt hỏi: "Tô Tướng quân từng đi sứ Cao Xương, chắc biết rõ mấy phố chợ ở Cao Xương, mai ta dẫn đám lão Tề đem mớ hàng hóa đi bán, Tướng quân có biết chỗ ô phố nào buôn bán hợp lý nhất không?"

Tô Đan Cổ không chần chừ, thản nhiên nói: "Cao Xương chỉ có một chỗ phố chợ Hồ thương tụ tập, ngày mai Duyên Giác sẽ dẫn đường cho người."

Dao Anh gục gặc, ánh mắt dừng thật lâu trên tấm mặt nạ kinh khủng kia. Từ phản ứng của hắn mà xem, có vẻ như hắn từng đi Cao Xương thật...

Tô Đan Cổ lại khép cửa.

Khóe miệng Dao Anh nhẹ kéo..

Nghe có tiếng sột soạt ngay cửa trước, Tạ Thanh đẩy cửa vào, vẻ cảnh giác, thấy Dao Anh đứng trước cửa sổ, nhướng mày. Mấy ngày liền bôn ba, Dao Anh sợ nàng mệt nên đêm nay không cho phép nàng gác đêm, nàng ngủ sát vách, nghe bên này như có tiếng nói chuyện, sợ Dao Anh xảy ra chuyện, vội mò mẫm qua kiểm tra.
"A Thanh, ta không sao, chỉ uống miếng nước." Dao Anh đuổi Tạ Thanh, ngáp nằm xuống ngủ tiếp. Đêm nay nàng không còn bị ác mộng, dù nàng biết Hải Đô A Lăng có lẽ ở rất gần.

Hôm sau, Dao Anh dậy thật sớm, cùng với mấy người thân binh, Duyên Giác đi dạo phố chợ náo nhiệt nhất Cao Xương.

Tiểu vương tử Kim Bột còn đang ngủ, Duyên Giác để lại mấy người tìm hiểu mục đích hắn đến Cao Xương, một vài người chia ra tìm hiểu tin tức các nơi.

Lúc Dao Anh đi ngang phòng của Tô Đan Cổ nghiêng tai lắng nghe chốc lát, không thấy tiếng động, nghĩ thầm: Trên mặt hắn vết sẹo rất lớn, phải dùng mặt nạ che lại khiến người khác đừng quá chú ý, ban ngày không tiện hành động, hơn nữa không biết đêm qua hắn gác đến chừng nào, chắc bây giờ đang nghỉ ngơi. Nàng căn dặn thân binh ở lại canh dịch xá đừng quấy rầy Tô Đan Cổ, tất cả vâng dạ.
Duyên Giác nghe Dao Anh căn dặn, ánh mắt lấp lánh mấy lần. Dao Anh quét mắt nhìn qua, cậu lập tức ra vẻ điềm nhiên thu tầm mắt như không có việc gì.

Nhóm người ra dịch xá từ cửa bên, bọn Tề Niên kéo xe ngựa xa xa phía sau.

Phố chợ duy nhất ở Cao Xương là một con phố dài rộng chừng hai chiếc xe ngựa song song, nhỏ hơn Vương Đình rất nhiều, nhưng mật độ người dày đặc, vô cùng náo nhiệt, cửa hàng san sát, người người nhốn nháo, tiếng rao hàng đủ loại ngôn ngữ hỗn tạp pha trộn, vang tận mây xanh.

Trên đường đi Duyên Giác giới thiệu cho Dao Anh từng cửa hàng mua bán, Dao Anh chăm chú nghe, thỉnh thoảng chỉ vào vật lạ hiếm thấy hỏi thăm, Duyên Giác kiên nhẫn giải thích.

Ven đường còn có quầy bánh Hồ nướng, cả đám dừng lại, chờ đợt bánh ra lò tiếp theo.

Dao Anh bỗng bất thình lình hỏi: "Nhϊếp Chính Vương cũng giống cậu, là đệ tử tục gia à?"
Nàng quan sát đã nhiều ngày.

Duyên Giác ngớ ra. Dao Anh cười híp mắt nhìn cậu: "Xưa nay không thấy Nhϊếp Chính Vương ăn cơm với mọi người, đồ ăn thức uống đều do cậu đưa qua, ta thấy như ngài ấy giữ giới."

Mặt Duyên Giác cứng đờ, lấy lại bình tĩnh, cười nói: "Cận vệ cạnh Vương nếu không phải võ tăng thì là đệ tử tục gia, Nhϊếp Chính Vương cũng vậy."

Dao Anh lại hỏi: "Thế Nhϊếp Chính Vương là võ tăng hay đệ tử tục gia?"

Duyên Giác nói: "Là đệ tử tục gia."

Dao Anh tiếp tục hỏi: "Nhϊếp Chính Vương võ nghệ cao cường, ngài học ai thế? Tướng quân A Sử Na bảo họ là sư huynh đệ, hẳn là cùng một sư phụ nhỉ? Sao chiêu thức của Nhϊếp Chính Vương chẳng giống Tướng quân A Sử Na? Họ không học cùng một công phu à? Nhϊếp Chính Vương bắt đầu học võ lúc nào thế?"

Trán Duyên Giác bắt đầu rịn mồ hôi, nói: "Sư phụ của Nhϊếp Chính Vương là vị cao nhân, nghe nói từng đảm nhiệm chức Thủ lĩnh cấm vệ trong Vương cung, bọn tôi đều chưa từng gặp, tuy Tướng quân A Sử Na và Nhϊếp Chính Vương là sư huynh đệ nhưng công pháp học ban đầu không giống, nên chiêu thức khác nhau. Cả hai đều tập võ từ nhỏ..."
Bánh Hồ ra lò, mùi mè thơm nức mũi bay ra, người bán bánh mũi cao sâu rao bán thật lớn.

Duyên Giác không để ý giải thích cho Dao Anh nữa, xông tới sợ không giành kịp bánh với mấy người Hồ. Dao Anh nhìn bóng lưng cậu, như nghĩ điều gì.

Tề Niên đánh xe ngựa, đi tới thị thự trước nộp tiền thuế, rồi quay lại phố chợ giao dịch với mấy người buôn hàng. Dao Anh không quản lý việc bán hàng, nàng mang thân binh đi dạo một vòng, cố ý dừng lại quan sát các cửa hàng đang bán tơ, châu báu ngọc thạch thật lâu, nghe ngóng các mẫu mã mà mấy phu nhân Cao Xương yêu thích nhất, loại trang điểm nào đang thịnh hành trong cung, Uất Trì Đạt Ma và công chúa Đột Quyết có hòa thuận không.

Trước lúc mặt trời lặn, nàng và mấy người Duyên Giác về lại dịch xá. Thân binh báo cáo, Tiểu Vương tử Kim Bột dù ngang ngược nhưng không nghênh ngang tiến cung, mà có vẻ đang che giấu tung tích, cả ngày hôm nay không ra ngoài, chỉ gọi ca cơ người Hồ tới uống rượu mua vui.
"Lạ nhỉ, hắn quen sống an nhàn suиɠ sướиɠ sao lại không vào Vương cung ở?" Giờ đây Cao Xương đang xưng thần với Bắc Nhung, chỉ cần lộ thân phận, Uất Trì Đạt Ma cũng phải kính Kim Bột, hơn nữa hắn và công chúa Đột Quyết còn là anh chị em họ.

Duyên Giác nhỏ giọng: "Chắc chắn Tiểu vương tử có mục đích không thể để lộ!"

Lòng Dao Anh hơi động, gõ cửa phòng Tô Đan Cổ. "Tô Tướng quân, là ta."

Trong phòng rất nhanh có tiếng bước chân, Tô Đan Cổ mở cửa, ánh mắt rơi xuống mặt Dao Anh, sửng sốt.

Dao Anh đứng trước mặt hắn, người mặc y phục người Hồ, áo phiêu sắc, váy đỏ thạch lựu, tóc tết bím điểm xuyết đầy trân châu ngọc thạch rũ xuống đầu vai, trên tay cầm chiếc mặt nạ, che trước khuôn mặt nhỏ.

Một chiếc mặt nạ lão ông mặt mũi hiền lành, bên xanh bên đỏ, giống như hai gương mặt.
Tô Đan Cổ thật lâu không nói.

Dao Anh gỡ mặt nạ, lúm đồng tiền trên gò má động đậy, trực tiếp chui dưới cánh tay hắn mà vào phòng, hạ giọng hỏi: "Tô tướng quân, ngài có thể nhắn với Pháp sư một câu giúp tôi không?"

Tô Đan Cổ không đuổi nàng ra ngoài, lạnh nhạt hỏi: "Nhắn thế nào?"

Giọng Dao Anh đè càng thấp: "Kim Bột đến Cao Xương, Hải Đô A Lăng cũng đến, e là Bắc Nhung đã loạn, họ cùng chung mục đích với chúng ta, đều tìm đến Uất Trì Đạt Ma."

Người Tô Đan Cổ khẽ động, lát sau nói: "Đêm nay chúng ta vào Phật tự của Vương cung gặp Uất Trì Đạt Ma."

Dao Anh gật gật đầu, ngước mắt nhìn chăm chú mặt nạ trên mặt của Tô Đan Cổ.

Hắn phản ứng nhanh và quyết đoán như thế... sau khi Đàm Ma La Già chết bệnh, vì đâu mà hắn vô duyên vô cớ biến mất nhỉ? 

-----------CHƯƠNG 68---------------
Vào lúc mặt trời lặn phố chợ đã sớm đóng cửa, phố dài dần vắng vẻ hẳn.

Cảnh tượng trong dịch xá ngược lại ca múa náo nhiệt, Tiểu Vương tử Kim Bột chiếm đoạt phòng khách, vừa uống rượu ngon thả cửa vừa xem Hồ cơ ca múa. Trời mùa đông khắc nghiệt, nước đóng thành băng, Hồ cơ vẫn áo mỏng lộ ra chút da thịt tuyết trắng, đạp chân uốn éo lắc lư, váy dài bay cao, dáng múa tỏa sáng.

Trong Vương thành Cao Xương cấm đi lại ban đêm, các thương nhân trong dịch xá không thể ra ngoài, ngồi trong góc xa thưởng thức dáng người uyển chuyển của Hồ cơ, thỉnh thoảng la rầm khen ngợi, người có tâm tư linh hoạt chủ động tiến đến nịnh nọt Kim Bột, vô cùng a dua.

Kim Bột uống đến say khướt, mặt chữ điền đỏ bừng, dương dương tự đắc, không xua đuổi ai, hào phóng mời họ cùng uống rượu.
Phòng khách rất huyên náo.

Dao Anh người mặc một bộ cẩm bào nửa tay áo, tóc dài thắt bím, chân mang ủng da như nam tử, đứng ở góc nhỏ, nhìn sảnh dưới lầu, nói với đám Tạ Thanh bên cạnh: "Các ngươi để ý theo dõi Tiểu Vương tử, nếu có biến cố hãy bảo đảm mạng hắn, tuyệt đối đừng để hắn chết."

Cả đám thưa vâng, Tạ Thanh hỏi: "Ai muốn gϊếŧ Tiểu Vương tử chứ? Uất Trì Đạt Ma ạ?"

Dao Anh lắc đầu: "Người Bắc Nhung."

...

Trước đây, vì Dao Anh từng mấy lần nhắc nhở, Ngõa Hãn Khả Hãn đã dấy lên lòng nghi ngờ Hải Đô A Lăng, mấy vị Tiểu Vương tử khác cũng bắt đầu cảnh giác Hải Đô A Lăng, mâu thuẫn nội bộ Vương thất Bắc Nhung sớm bộc phát.

Kim Bột là đứa con trai được Ngõa Hãn Khả Hãn yêu chiều nhất trong tất cả Vương tử, bất hạnh thay cũng là kẻ xúc động lỗ mãng nhất, chí lớn nhưng tài mọn, hắn luôn bất mãn Hải Đô A Lăng năm mười lăm tuổi đoạt danh tiếng của hắn tại Lễ Tế thần, nhiều lần đối nghịch với Hải Đô A Lăng, nhiều lần ăn nói châm ngòi trước mặt Ngõa Hãn Khả Hãn.
Khổ nhục kế của Hải Đô A Lăng bị bại lộ, Vương thất Bắc Nhung chắc chắn giương cung bạt kiếm, dòng nước ngầm chảy mãnh liệt.

Kim Bột ghi hận Hải Đô A Lăng nhiều năm, muốn trừ khử cho sướng tay, lúc này không ở cùng các anh em khác ở Nha đình đánh chó mù đường, mà che dấu thân phận Bắc tiến Cao Xương, mục đích không khó đoán —— hắn muốn mượn binh từ Uất Trì Đạt Ma và công chúa Đột Quyết công chúa Hina gϊếŧ Hải Đô A Lăng.

Ngõa Hãn Khả Hãn lúc trẻ chí lớn mạnh mẽ ngút ngàn, dẫn đầu bộ lạc quét ngang thảo nguyên, quật khởi lớn mạnh vô cùng nhanh. Tuổi càng lớn, tác phong ông càng cẩn thận bảo thủ, nhất là sau khi đại bại trong tay Đàm Ma La già, đa phần vì trong lòng có vết, làm việc có phần sợ đầu sợ đuôi, không còn quả quyết. Dù biết Hải Đô A Lăng là tai hoạ ngầm, ông vẫn không thể trong mấy tháng ngắn ngủi quyết định gϊếŧ đứa con nuôi tình như cha con.
Thứ nhất, Ngõa Hãn Khả Hãn tự khoe là hậu nhân của Thần Sói, kiêu ngạo tự phụ, cho rằng trong bộ lạc chuyện dũng sĩ khiêu chiến thủ lĩnh là thiên kinh địa nghĩa, cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh làm vua, bản thân là thủ lĩnh, ông không thể vì nghi ngờ vô căn cứ của mình mà gϊếŧ bộ hạ.

Thứ hai, dù Hải Đô A Lăng không phải con ruột ông, nhưng mấy năm nay Nam chinh Bắc chiến nhiều lần lập chiến công, chí lớn bừng bừng, dũng mãnh hơn người, danh vọng vượt hẳn các Vương tử khác. Cho đến giờ A Lăng luôn cung kính với ông, chưa từng thể hiện ra ý đồ không tốt, nếu ép người quá đáng, A Lăng giơ cao tay hô hào chắc chắn người đi theo như mây, đến lúc đó ai thắng ai thua vẫn còn chưa định. Không bằng cứ lấy tĩnh chế động, tìm cơ hội tốt.

Thứ ba, một khi Vương thất Bắc Nhung có nội loạn chắc chắn sụp đổ, các bộ tộc bị ép thần phục thừa cơ khởi sự, đến lúc đó bốn phía bất ổn, mấy Vương tử tự gϊếŧ nhau, những mảnh đất dũng sĩ Bắc Nhung chém gϊếŧ nhiều năm chinh phục phải chắp tay nhường người.
Hiểu con không ai khác ngoài cha, Ngõa Hãn Khả Hãn biết mấy đứa con trai ruột mình không phải là đối thủ của Hải Đô A Lăng, càng không có khả năng dẫn dắt bộ tộc khai cương thác thổ. Ông muốn bảo vệ con mình, nhưng ông cũng là Khả Hãn Bắc Nhung, nếu chỉ được chọn một giữa bộ tộc huy hoàng, ổn định, phồn vinh và tính mệnh nhi tử, ông sẽ chọn thứ đầu.

Vậy nên dù nghi ngờ Hải Đô A Lăng, cuối cùng Ngõa Hãn Khả Hãn vẫn không thể quyết định gϊếŧ y.

Đám con trai của Ngõa Hãn thì khác, họ ghét hận Hải Đô A Lăng đã lâu, hận không thể ăn sống hắn. Ngõa Hãn Khả Hãn chậm chạp không ra tay chứ họ kiềm chế không được.

Kim Bột đúng là đến Cao Xương mượn binh.

Dao Anh có được kết luận thế này, một là căn cứ vào hiểu biết rõ ràng với Vương thất Bắc Nhung, hai là nàng biết lý do Hải Đô A Lăng chính tay đâm cha con Ngõa Hãn Khả Hãn là vì mấy vị Vương tử khác bố trí cạm bẫy hãm hại y. Kỵ binh Bắc Nhung tinh nhuệ trung thành với Khả Hãn, bình thường sẽ không tham dự vào cuộc nội đấu giữa các Vương tử, chắc chắn họ phải tìm kiếm ngoại viện, mà mối quan hệ của Hina công chúa và Kim Bột xưa nay thân thiết.
Nàng chưa giải thích cho Tô Đan Cổ, Tô Đan Cổ lập tức hiểu ý, quyết định sớm đi gặp Uất Trì Đạt Ma.

Kim Bột một mặt che giấu thân phận, một mặt dung túng thân binh vênh váo, cả đoạn đường kiêu căng ngang ngược, vô cùng phô trương, nói không chừng dấu tích hắn đã bị Hải Đô A Lăng dò đến từ sớm, Hải Đô A Lăng tâm ngoan thủ lạt, ngoài thô trong tinh, cuộc loạn động của Vương thất Bắc Nhung rất có thể đã như tên lắp trên cung, thế lực các phe sớm hãm sâu trong đó, chỉ chờ bắn ra.

Trước khi Kim Bột vào cung họ phải thăm dò ý của Uất Trì Đạt Ma, còn phải bảo vệ mạng sống của Kim Bột, không thể để hắn chết trong tay Hải Đô A Lăng.

...

Dao Anh nhìn Kim Bột trong phòng khách trái ôm phải ấp, âm thầm lắc đầu.

Thảo nào Hải Đô A Lăng có thể lấy ít thắng nhiều, chỉ một trận loại trừ toàn bộ đối thủ. Kim Bột và mấy anh em từng ra tay gϊếŧ y, biết y giấu tài, giả sa vào tửu sắc, mà còn lơ là như thế, sợ không ai biết hắn đến Cao Xương sao.
Mặt khác hẳn mấy vị Vương tử đã chia nhau đi các nơi khác nhau cầu ngoại viện, nếu họ cũng giống Kim Bột không biết thu liễm, e Hải Đô A Lăng đã sớm nhìn thấu kế hoạch của họ. Nói cho cùng, là trong mắt họ không có ai, xem thường Hải Đô A Lăng, cho là y vốn cô nhi không cha không mẹ, không xứng kế thừa vị Khả Hãn, vốn không thể đánh đồng với họ. Không biết rằng, người Bắc Nhung trung thành tuyệt đối với Ngõa Hãn Khả Hãn không có nghĩa cũng sẽ như vậy với con trai ông ta.

Tiếng tì bà dưới lầu du dương vui vẻ, Dao Anh thu tầm mắt, quay về phòng.

Tạ Thanh cùng đi sau lưng nàng, nhỏ giọng nói: "Tôi đưa công chúa đi Vương Tự."

Dao Anh lắc đầu: "Trong thành có giới nghiêm, đi đông ngược lại không an toàn, Duyên Giác quen thuộc đường trong thành, có cậu ấy hộ tống ta sẽ không sao. Cô ở lại tiếp ứng ở dịch xá."
Họ bí mật gặp Uất Trì Đạt Ma, muốn tránh tai mắt, càng ít người càng tốt.

Tạ Thanh nhíu mày, thấy Dao Anh kiên quyết, trầm giọng vâng lời.

Đã đến giờ xuất phát, Dao Anh chuẩn bị xong đồ tùy thân, mang mặt nạ che hết khuôn mặt chỉ lộ ra một đôi mắt, theo Duyên Giác từ cửa sổ lầu hai rời dịch xá.

Dao Anh không biết công phu, lúc sắp nhảy xuống đất lòng bàn chân bị trượt nhẹ, Duyên Giác giật nảy mình, đưa tay kéo nàng không kịp, một bóng người hiện dưới ánh trăng bạc, cánh tay dài mở ra, tiếp được Dao Anh, ôm nàng nhanh chóng nhảy xuống đài đất dốc đứng.

Là Tô Đan Cổ.

Tiếng gió vù vù bên tai, Dao Anh dựa vào lồng ngực kiên cố của Tô Đan Cổ, mượn ánh trăng trong lạnh dò xét hình dáng cái cằm rõ ràng lộ dưới đáy mặt nạ. Mấy hôm nay nàng phát hiện, lúc ban đầu mỗi lần vô tình tới gần hắn, hắn có hơi cứng nhắc —— không phải xấu hổ không tự nhiên, đơn thuần chỉ là chưa thích ứng, vẻ như hắn chưa từng chạm tới nữ tử, càng về sau dọc đường nàng trượt chân suýt ngã, hắn đưa tay đỡ, động tác tự nhiên hơn nhiều.
Hình như trong mắt hắn, nàng không có gì khác biệt mấy thân binh khác.

Trên người hắn có mùi thuốc nhàn nhạt. Dao Anh nhịn không được hít thử, không nghe ra là thuốc gì.

Nàng còn đang thất thần, hai chân đã vững vàng đạp trên tuyết nghe kít nhỏ một tiếng, Tô Đan Cổ buông nàng xuống, xoay người đi dẫn ngựa, động tác lưu loát dứt khoát.

Dao Anh trong lòng có quỷ, người chao đảo, suýt cắm đầu vào trong đống tuyết. Tô Đan Cổ quay sang nhìn nàng, dưới bóng đêm, ánh mắt xanh biếc như hai dòng nước trong vắt rơi trên mặt nàng như mang theo mấy phần lực.

Dao Anh chợt chột dạ, tim đập nhanh hơn, hai gò má nóng lên.

Duyên Giác đứng dưới tường viện, nhìn Tô Đan Cổ, lại nhìn Dao Anh, vẻ mặt mờ mịt.

Dao Anh bị ánh mắt Tô Đan Cổ chiếu tê cả da đầu, tranh thủ lấy thăng bằng, một đường lướt nhẹ như không, mấy bước đi đến cạnh tuấn mã đạp lên yên ngựa, động tác quá nhanh, thấy đầu hơi choáng váng, vội vàng giật gấp dây cương.
Sau mấy hơi, nàng cảm giác được ánh mắt Tô Đan Cổ dời khỏi người mình.

Tranh thủ bóng đêm ba người cưỡi ngựa ra phố dài, sau đó đi bộ. Dao Anh không biết đường, theo thật sát sau lưng Duyên Giác, sau bảy lần tám lượt rẽ ngoặt rất lâu, địa thế hình như càng lúc càng thấp. Sau nửa canh giờ, cuối cùng cũng đi vào một ngõ sâu chật hẹp, Duyên Giác gõ vang cửa, có người ra mở, hai người thấp giọng trao đổi ám hiệu bằng tiếng Phạn, cửa từ bên trong kéo ra.

Duyên Giác dẫn Dao Anh đi vào, nàng nhìn lại, phát hiện không thấy Tô Đan Cổ nữa.

Người này luôn luôn xuất quỷ nhập thần.

Nàng nén nghi hoặc, theo Duyên Giác vào chùa. Điện vũ của Vương Tự rộng lớn, nền lát đá xanh, ánh đèn rực rỡ đổ bóng thăm thẳm, trong đêm tối, các bích họa trên tường lộ ra vẻ mặt dữ tợn.

Dao Anh phát hiện bố cục của Vương Tự rất giống với Trung Nguyên.

Hai người đi theo người dẫn đường qua hành lang và vài toà đình viện trống, vào một thiền phòng âm u yên lặng, người dẫn đường khom người đưa tay mời, nhỏ giọng nói với Duyên Giác: "Quốc chủ nói khách của Phật Tử chính là khách của ngài, mời hai vị chờ một lát, Quốc chủ lập tức đến ạ."

Duyên Giác và Dao Anh cất bước vào trong, vừa mới đạp lên bậc thềm đá, chợt lỗ tai Duyên Giác giật giật, dừng bước, kéo cánh tay Dao Anh lại.

Đúng lúc này, đột ngột vang lên tiếng thét chói tai dồn dập, như nước lạnh rớt vào chảo dầu, đánh vỡ bóng đêm yên tĩnh như mặt nước.

Không khí đọng lại chốc lát.

Ngay sau đó, cả ngôi chùa như tỉnh giấc, chim đêm giật mình sải cánh bay lên không trung, tiếng thét nổi lên bốn phía, khắp nơi đầy tiếng bước chân hỗn tạp, hộ vệ, tăng binh rối rít xông ra cửa phòng, nhào về hướng tiếng động, đuốc lốm đốm như mấy đầu cự long, rất nhanh bao vây viện tử.
Duyên Giác giận dữ, bắt lấy người dẫn đường, siết chặt cổ họng gã: "Có mai phục?"

Người dẫn đường lấy lại tinh thần, cuống quít phủ nhận: "Trước giờ Quốc chủ luôn tôn kính Phật Tử, sứ giả của Phật Tử đến Quốc chủ vui mừng không kịp, sao làm chuyện hèn hạ thế chứ? Trong đêm chùa có giới nghiêm, tôi cũng không biết đã xảy ra chuyện gì!"

Duyên Giác không tin, ép người dẫn đường nhanh chóng rời đình viện.

Hai người nhanh chóng rời khỏi viện tử, phía trước có tiếng bước chân rất nhỏ, một bóng người bay vụt tới họ, nghe như cao thủ, thấy bóng người ngày càng gần, Duyên Giác đổ mồ hôi lạnh chặn trước mặt Dao Anh, định dùng người dẫn đường làm con tin, người kia đã nhảy xuống hành lang, ánh trăng trải trên mặt hắn, là tấm mặt nạ Dạ xoa.

Duyên Giác thở phào, thấy tim về chỗ cũ, nhỏ giọng nói vài câu tiếng Phạn. Tô Đan Cổ trả lời một câu, trực tiếp kéo Dao Anh.
Dao Anh biết chuyện khẩn cấp, không nói tiếng nào đuổi theo.

Duyên Giác nắm người dẫn đường, hỏi hắn: "Tướng quân, xử lý hắn thế nào ạ?"

Người dẫn đường run lẩy bẩy xin tha: "Tôi thề trước Phật! Quốc chủ chúng tôi tuyệt đối không bố trí cạm bẫy! Các ngài là sứ giả của Phật Tử sao Quốc chủ chúng tôi dám hãm hại? Chư vị hảo hán tha mạng! Phật Tử lòng dạ từ bi, các ngươi gϊếŧ lầm người tốt, sau Phật Tử biết được, nhất định sẽ trách tội các ngài đó!"

Sau lưng có tiếng bước chân, hô to "Bên kia có người" rồi đuổi theo, ánh đao lấp lóe.

Tô Đan Cổ ôm lấy Dao Anh, nói: "Dẫn theo."

Duyên Giác gật đầu, bắt lấy người dẫn đường phóng lên trên tường viện, biến mất trong màn đêm.

Phía bên kia, Tô Đan Cổ ôm Dao Anh lướt qua từng dãy nóc nhà, lưu loát thoát khỏi truy binh, nhảy xuống một ngõ hẹp yên tĩnh, không còn nghe tiếng la gϊếŧ, bên giếng có một con ngựa buộc, hắn đỡ Dao Anh lên ngựa, hai người cùng cưỡi một ngựa vượt qua mấy đường tắt tĩnh mịch, ngừng lại ở một góc đường.
Cách đó không xa tiếng người huyên náo, ánh lửa ngút trời.

Dao Anh nhìn theo hướng nhìn của Tô Đan Cổ, tay chân lạnh buốt: Là hướng dịch xá! 

-----------CHƯƠNG 69---------------

Lửa lớn cháy hừng hực, khói đặc cuồn cuộn. Xem tình thế, hẳn toàn bộ dịch xá đã bị thiêu đến không còn hình, có tiếng người gào thét trong lửa, thảm thiết thê lương, cuồng loạn.

Dao Anh nhớ Tạ Thanh và thân binh đều ở dịch xá, đầu váng mắt hoa, trên lưng rịn một lớp mồ hôi lạnh. Gió đêm thổi qua, người nàng run nhè nhẹ.

Bên tai vang lên một giọng nói: "Người dịch xá đã ra khỏi thành, phóng hỏa là để cảnh báo cho chúng ta, có người tập kích ban đêm." Lạnh nhạt không hề mang chút ấm áp lại đầy trấn an lòng người.

Tim Dao Anh thả lỏng, chầm chậm thở ra. Nàng tin tưởng Tô Đan Cổ, hắn không nói nhiều, đã nói hẳn đã có bảy tám phần nắm chắc. Giữa hắn với đám thân binh chắc có ám hiệu định trước.
Dao Anh từ từ lấy lại tinh thần, "Người tập kích muốn đánh vào chúng ta ư? Uất Trì Đạt Ma để lộ tin tức chăng?"

Tô Đan Cổ lắc đầu.

Một tia chớp sáng như tuyết lóe trong đầu, Dao Anh chấn động, "Là vì Kim Bột! Hẳn Hải Đô A Lăng đã tới Cao Xương?"

Uất Trì Đạt Ma chỉ biết họ là sứ giả Đàm Ma La Già phái tới chứ nào biết rõ thân phận, ông ta là người khéo đưa đẩy, co được dãn được, mỗi năm gửi quốc thư đến Vương Đình từ ngữ khiêm tốn, sẽ không vô duyên vô cớ đắc tội Đàm Ma La Già, chí ít sẽ xuống tay gϊếŧ họ trước buổi hop mặt bí mật, tập kích ban đêm này chắc hẳn là kẻ khác làm chủ.

Dao Anh chỉ có thể nghĩ đến Hải Đô A Lăng.

Tô Đan Cổ nói: "Chưa chắc y tự ra tay."

Dao Anh gật đầu, nhớ đến mấy hộ vệ ngổ ngáo cạnh Kim Bột, chợt lóe một ý tưởng, nói: "Nói không chừng lúc Kim Bột xuất phát, Hải Đô A Lăng đã sắp xếp sát thủ cạnh hắn rồi, đợi đến khi Kim Bột đến Cao Xương sát thủ lập tức ra tay, Hải Đô A Lăng đang ở Bắc Nhung, không những xóa khỏi hiềm nghi mà còn giá họa được cho Uất Trì Đạt Ma."
Ngõa Hãn Khả Hãn coi trọng danh dự con cháu Lang tộc, không đánh sau lưng, Hải Đô A Lăng thì không, huống chi đám anh em Kim Bột từng mấy lần bố trí cạm bẫy hại đến tính mạng y, nếu y không mưu dũng hơn người, e đã sớm chết trong tay họ.

Trong mắt Dao Anh lướt qua một tia kinh hãi, lẩm bẩm: "Nếu Hải Đô A Lăng bố trí sát thủ cạnh mỗi Vương tử thì..."

Mấy Vương tử giấu Ngõa Hãn Khả Hãn mượn viện binh diệt trừ Hải Đô A Lăng, Hải Đô A Lăng tương kế tựu kế, ở lại Bắc Nhung, âm thầm phái sát thủ phục sẵn cạnh họ. Cứ như vậy, hắn không chỉ thần không biết quỷ không hay trừ được đối thủ, còn có thể nhờ Uất Trì Đạt Ma tình thế cấp bách bất đắc dĩ liên thủ với hắn, đến khi Ngõa Hãn Khả Hãn kịp phản ứng đã không còn cách cứu vãn.

Dao Anh càng nghĩ càng thấy hãi.
Hải Đô A Lăng dã tâm bừng bừng, một khi thay thế Ngõa Hãn trở thành Khả Hãn mới của Bắc Nhung tất nhiên sẽ chỉ huy san bằng Trung Nguyên. Mong Tạ Thanh nhớ kỹ lời nàng, cứu Kim Bột, dù Kim Bột ngốc nghếch nhưng cũng là con ruột của Ngõa Hãn, nói không chừng sẽ có chỗ dùng.

Tô Đan Cổ quay đầu ngựa, chở Dao Anh xuyên mấy đường tắt trống, hắn phản ứng linh hoạt luôn tránh được cấm vệ tuần sát.

Hướng dịch xá không ngừng phát ra tiếng lửa cháy to lớn, ngọn lửa khổng lồ chiếu sáng nửa bầu trời, ảnh lên vùng tuyết đọng trên mái một vầng đỏ đồng, Dao Anh như cảm nhận được hơi nóng tạt đến từ nơi xa, gương mặt phát nóng.

Nàng vừa lo lắng an nguy của Tạ Thanh, vừa suy nghĩ về Hải Đô A Lăng còn có âm mưu quỷ kế nào nữa không, tinh thần hoảng hốt, không biết qua bao lâu, tiếng vó ngựa bỗng nhiên ngừng lại.
Họ dừng trước một trạch viện yên tĩnh, trước cửa hiên treo hai ngọn đèn.

Ánh đèn chập chờn, chụp xuống bóng người bên trong đang đứng, nghe thấy vó ngựa lộc cộc, có người nhanh chóng ra đón, là một trong các thân binh ở lại canh dịch xá.

Thân binh cung kính hành lễ xong nhỏ giọng mấy câu bằng tiếng Phạn.

Tô Đan Cổ đáp lời, xuống ngựa.

Dao Anh cưỡi chung con ngựa với hắn, hắn khẽ động, sau lưng nàng bỗng trống rỗng, cả người lung lay, ngã quỵ xuống.

Thân binh rớt miệng.

Dao Anh mê man, người nhũn ra, muốn giãy dụa lấy lại thăng bằng thì người đã rơi xuống, trong lòng mơ mơ màng màng nghĩ: Chỗ này tuyết dày ghê, té cũng không biết đau?

Cánh tay đột nhiên căng ra, một đôi tay mang bao da nắm chặt bờ vai nàng, đỡ nàng tránh ngã xuống.

Dao Anh cảm giác được ngón tay gầy khỏe của Tô Đan Cổ ôm vai mình, cằm gác lên đỉnh đầu mình, trên người hắn có mùi thuốc nhè nhẹ.
Sau một khắc, nàng té nhào vào ngực hắn.

Tô Đan Cổ tưởng nàng trượt chân mới dìu nàng đứng vững rồi lập tức thu tay, nàng theo động tác của hắn ngã luôn về trước, cả người mềm mại rơi hẳn vào ngực hắn, giãy dụa muốn gượng dậy nhưng không có lực, mềm oặt không xương.

Lông mày Tô Đan Cổ nhẹ vặn, cúi nhìn Dao Anh, bắt gặp đôi mắt đỏ của nàng. Hai gò má ửng đỏ, ánh mắt mơ màng, hai vai khẽ run, như nhánh hoa lê dính mưa xuân, nhìn rất đáng yêu.

Thân binh quan sát Dao Anh, trợn mắt: "Nhϊếp Chính Vương... Văn Chiêu công chúa cô ấy..."

Tô Đan Cổ ôm ngang Dao Anh lên, quay người đi vào đình viện.

"Nàng bệnh rồi." Hắn còn tưởng đây cũng chỉ là một lần thăm dò.

Thân binh ngây ra, Tô Đan Cổ đã ôm Dao Anh vội vàng vào vườn. Thân binh nhanh chóng tỉnh táo lại, dắt ngựa theo vào cửa hiên, cài cửa, theo vào nhà chính, nghĩ nghĩ, không theo vào phòng, khoanh tay đứng chờ ngoài bình phong.
Tô Đan Cổ bước nhanh vào trong căn phòng phía Nam, đặt Dao Anh xuống, rủ mắt, nhẹ vén ống tay áo trên cổ tay nàng, ngón tay đặt lên cổ tay lộ ra trắng như tuyết.

Người Dao Anh chợt nóng chợt lạnh, nhẹ run lẩy bẩy.

Tô Đan Cổ nhìn trán nàng rịn một lớp mồ hôi mỏng, thu ngón tay lại, đứng dậy, vòng qua bình phong ra gian ngoài, hỏi thân binh: "Tất cả mọi người đã ra khỏi thành rồi à?"

Thân binh ôm quyền trả lời: "Bẩm Nhϊếp Chính Vương, vừa nãy trong dịch xá, hộ vệ của Tiểu Vương tử Kim Bột và vũ cơ đột nhiên ám sát Tiểu Vương tử, Bách phu trưởng theo chỉ thị của Tướng quân, che chở Tiểu Vương tử trốn thoát, vì sợ trong thành còn sát thủ nên ra khỏi thành trước, chỉ còn thuộc hạ cùng A Lan Nhược theo lệnh chờ Nhϊếp Chính Vương ở đây."

...

Trước khi vào thành, Tô Đan Cổ đã căn dặn, nếu có biến, tất cả mọi người rút lui khỏi Vương thành Cao Xương, nếu trong thành giới nghiêm không còn chỗ để đi thì tập hợp ở sân vườn, A Lan Nhược là người trông coi đình viện này.
Đêm nay sau khi mấy người Tô Đan Cổ rời đi, trong tiền đường dịch xá vũ cơ đang nhẹ nhàng nhảy múa đột nhiên lắc đôi tay một cái, một thanh chủy thủ sáng như tuyết trong tay áo trượt ra, nhào đến Kim Bột đang uống say khướt. Hộ vệ của Kim Bột kịp phản ứng rút đao đón lấy, lập tức máu tươi văng khắp nơi, cả trận lóe đầy đao kiếm, mấy gã buôn người Hồ đang xem ca múa chạy trối chết, la hét mắng chửi sợ hãi lộn xộn.

Nhìn thấy Kim Bột sắp chết thảm dưới kiếm của Hồ cơ, Tạ Thanh lập tức rút bội đao xông thẳng ra ngoài cứu Kim Bột, còn Tạ Xung và mấy hộ vệ khác hỗ trợ khống chế đám Hồ cơ.

Kim Bột suýt thì đổ máu tươi tại chỗ, còn đang sợ hãi mà chưa tỉnh rượu, túm lấy tay Tạ Thanh không thả, kêu to: "Đa tạ vị tráng sĩ này ra tay cứu giúp!"

Tạ Thanh trầm mặt hất tên Kim Bột ra, mấy tên hộ vệ bên cạnh cười ha hả. Đúng lúc này lại sinh biến cố, hộ vệ Kim Bột một đao chém chủ nhân mình!
Cả đám đang trong trận rất ngạc nhiên, lại thấy mấy hộ vệ Bắc Nhung khác nổi loạn, thừa lúc một khắc cả đám sững người, giơ tay chém xuống, gϊếŧ người kế bên, vô cùng rối loạn.

Kim Bột bị chặt một đao, máu tươi phun ra ngoài, lúc này mới tỉnh hẳn, rống oa oa.

Lúc này, phía ngoài dịch xá đầy tiếng vó ngựa, dây cung chấn động. Nhóm thương nhân người Hồ co cẳng chạy tứ tán. Mấy người Tạ Thanh nhìn nhau, nghi ngờ đám cận vệ cạnh Kim Bột phản bội hắn, hơn nữa chúng còn có trợ giúp, dịch xá không phải nơi ở lâu, không chần chừ, trực tiếp chộp lấy Kim Bột xông ra ngoài.

Thân binh còn lại, nhắc đoàn người Vương Đình bên này chạy khỏi thành rồi một mồi lửa đốt dịch xá, cảnh báo với Tô Đan Cổ tránh bị rơi vào bẫy đối thủ khi quay lại.

...

Nhà chính chỉ châm một ngọn đèn dầu, ánh đèn lờ mờ, không rõ nhìn rõ hình vẽ trên bức bình phong.
Tô Đan Cổ nghe thuật lại sơ chuyện, hỏi: "Trong viện có thị nữ không?"

Thân binh sững ra, lắc đầu nói: "Chỉ có mỗi A Lan Nhược trông coi, ngoại trừ cậu ta cũng chỉ có mấy con ngựa, hai con lạc đà, không ai nữa."

Tô Đan Cổ lặng thinh một lát, "Mang ít nước nóng đến đây." Nói xong, vòng qua bình phong, đi vào phòng

Thân binh mới kịp hiểu: Văn Chiêu công chúa bệnh, cần người chăm sóc nhưng người của cô ấy đều ra khỏi thành hết nên Nhϊếp Chính Vương mới hỏi đến thị nữ.

Hắn đi tìm A Lan Nhược lấy một bình nước nóng đưa đến nhà chính.

"Nhϊếp Chính Vương... Thuộc hạ vừa mới hỏi A Lan Nhược, lửa dịch xá đã được dập tắt, phía Vương cung không rõ thế nào, vừa rồi có cấm vệ đến từng nhà thông báo, trong thành bây giờ ban bố lệnh giới nghiêm, hễ ai ra ngoài đi lại sẽ bị bắt giam ạ."
Nói cách khác, Lý Dao Anh nhất định phải sống qua đêm nay, đêm hôm khuya khoắt, đừng nói ra ngoài mời lang trung hay tìm thị nữ, chỉ cần có tiếng mở cửa thì có thể cấm vệ đến ngay.

Tô Đan Cổ ừm một tiếng, cầm lấy bình đồng: "Tìm một bộ đồ sạch sẽ đi."

Thân binh: "Nhϊếp Chính Vương, y phục sẵn trong phủ đều của nam tử."

Tô Đan Cổ đã quay người vào phòng, giọng khàn khàn truyền qua bức bình phong: "Lấy đi."

Thân binh vâng lời, tìm vài món quần áo sạch sẽ, chăn đệm khăn sạch, nấu mấy thùng nước nóng lớn cùng A Lan Nhược bưng đến nhà chính, đem vào phòng.

Sau tấm bình phong, ngọn đèn nhỏ sáng như sau nhẹ nhàng lay động.

Tô Đan Cổ đứng trước giường, bóng người cao lớn thon gầy. Màn buông dầy, không nhìn rõ tình hình Văn Chiêu công chúa trên giường, chỉ mơ hồ thấy dáng người con gái yểu điệu mảnh mai, tiếng thở dốc đứt quãng truyền ra.
A Lan Nhược nhịn không được ngẩng đầu nhìn qua, một ánh mắt lạnh như băng quét đến. Tô Đan Cổ liếc hắn.

Giống như có chậu nước tuyết dội vào đầu, A Lan Nhược chợt không rét mà run, vội vùi đầu lui ra cùng thân binh khép cửa.

Trong phòng, Tô Đan Cổ quay mặt sang chiếc giường, đưa tay vén màn lên.

Trong ánh đèn mờ ảo, Dao Anh nghiêng người nằm trên gối, ôm chặt hai tay cuộn mình thành một cục tròn nho nhỏ, cổ áo xộc xệch lộ ra một phần da thịt, lớp áo trong cùng đã ướt đẫm mồ hôi, ẩn hiện làn da trắng, tóc mai cũng đẫm mồ hôi, sợi tóc dính trên mặt, ươn ướt phát sáng.

Nàng ý thức mơ hồ, cảm giác được ánh sáng, mở mắt, mi dày run run yếu ớt nói: "Chuốc thêm phiền cho Tô Tướng quân rồi... Là bệnh cũ, không có gì đáng ngại." lúc này giọng nàng vẫn mềm mại ôn hòa, đoan trang tỉnh táo.
"Công chúa quên uống thuốc hay sao?" Tô Đan Cổ hỏi.

Dao Anh lắc đầu, "Còn chưa tới lúc... Tôi đã tính..." Nàng sinh thiếu tháng, mỗi tháng đều phải uống Ngưng lộ hoàn, lần uống thuốc trước nàng nhớ rất kỹ, là trên đường đi Cao Xương, mới được mười ngày. Đêm nay nàng thấy chóng mặt, hơi nóng, còn tưởng mình cảm giác lầm, ai ngờ đúng là bệnh cũ.

Tô Đan Cổ hỏi tiếp: "Trên người công chúa có thuốc sẵn không?"

Dao Anh ôm thật chặt hai tay, run lẩy bẩy không nói. Tô Đan Cổ cúi người ngồi trước giường, nói: "Xưa nay công chúa cẩn thận, chắc hẳn có mang sẵn thuốc viên trên người."

Dao Anh không lên tiếng.

Tô Đan Cổ hỏi: "Hay công chúa sợ trong lúc thuốc tan không ai trông chừng?"

Đáy lòng Dao Anh run lên, nhướng mi nhìn Tô Đan Cổ.

Bốn mắt đụng vào nhau, đôi mắt hắn tĩnh mịch, ánh mắt trầm tĩnh như từ đám mây quan sát nàng, như nhìn thấu hết tâm tư của nàng. Trên khuôn mặt tái nhợt của Dao Anh nhẹ vẽ ra nụ cười trong vắt, nói khẽ: "Không sao, tôi ngủ một giấc sẽ ổn... qua đêm nay sẽ không sao."
Tô Đan Cổ nhìn nàng: "Ta có biết chút y lý, công chúa không cần che giấu."

Dao Anh khẽ giật mình.

Tô Đan Cổ bình tĩnh nói: "Tuy nói nam nữ khác biệt, nhưng với ta thì công chúa chỉ là một bệnh nhân, ta là đệ tử cửa Phật, có thể trông chừng công chúa, công chúa không cần khó xử, uống thuốc đi."

Âm điệu hắn vắng lạnh, mỗi chữ mỗi câu từ trong miệng hắn như dòng suối tĩnh lặng chảy qua bãi đá, vừa lạnh vừa trong. Lại mang phần uy lực như có như không, ôn hòa vẫn mạnh như ngàn quân, khiến người có phần không thở nổi.

Cả người Dao Anh rất khó chịu, mắt mỏi nhừ, vẫn ôm chặt cánh tay, ừm trầm thấp.

Tô Đan Cổ hỏi: "Thuốc viên đâu?"

Dao Anh buông tay, run rẩy lục khắp người ra một chiếc bình ngọc nhỏ tinh xảo. Tô Đan Cổ nhận bình ngọc từ giữa ngón tay nàng, đổ ra một viên thuốc, ngón tay nâng cằm nàng, đút thuốc.
Thuốc xuống bụng, người Dao Anh dần nóng lên. Người nàng đã ướt đẫm, nhất định phải thay bộ khác khô mát, vùng vẫy cố đứng dậy: "Tướng quân, nhờ ngài chịu cực dìu tôi chút..."

Tô Đan Cổ dìu nàng đứng dậy đến cạnh thùng gỗ, để nàng dựa vững vào rồi quay người lui ra. Sau mấy bước chân, hắn dừng lại, đứng trước cửa, đưa lưng về phía bình phong, dáng người thẳng tắp.

Dao Anh không nhìn thấy bên ngoài, đành bất chấp nỗi ngượng ngùng, cởϊ qυầи áo, cố sức giặt khăn lau người.

Trong phòng đốt một lò than, nàng chóng mặt, đầu nặng cᏂị🇨Ꮒ, người mềm nhũn, chỉ mấy động tác đã thở hồng hộc. Lúc này không có Tạ Thanh, Tô Đan Cổ là đàn ông... Nàng cắn đầu lưỡi ép mình phải tỉnh táo, vội vàng mặc quần áo treo cạnh bình phong, quay người trở về.

Vừa bước ra, chân nhũn đi, cả người ngã xuống đất.
Rầm một tiếng nặng nề, Tô Đan Cổ đứng cạnh cửa lập tức xoay người đến cạnh tấm bình phong dừng bước chân, "Công chúa?"

Dao Anh ngã xuống đất, đau khắp người, khẽ cắn môi, định gượng tự đứng dậy, mới chống tay xuống đất đã thấy trước mắt trời đất quay cuồng, trong bụng buồn nôn, bất đắc dĩ, đành phải nhẹ giọng đáp lại.

Bước chân nhẹ vang, bóng người trước tấm bình phong nhẹ lay, đôi ủng da từng chút từng chút tiến gần nàng. Tô Đan Cổ cúi người ôm Dao Anh đưa lên giường.

Dao Anh sức cùng lực kiệt, thấp giọng cảm ơn, đầu vừa chạm gối mắt đã nhíu chặt, mi run rẩy.

Tô Đan Cổ buông nàng xuống, ánh mắt khẽ quét qua vạt áo tán loạn trên người nàng, kéo chăn đắp lên, kéo tay nàng nhẹ nhàng vén tay áo lên, đặt ngón tay bắt mạch.

Nàng đã uống thuốc, mạch ổn định hơn nhưng còn phải sống qua đêm thuốc tan này. Người nhiều năm phải uống thuốc như nàng, lúc thuốc tan cả người chợt nóng chợt lạnh, phải nằm trên giường nghỉ ngơi đợi dược tính tan đi sẽ khỏe hơn.

Tô Đan Cổ buông tay Dao Anh ra.

Lòng bàn tay nàng nóng lên, hơi rịn mồ hôi, ngón tay lại lạnh buốt, đốt ngón tay như búp hành, mềm mại nhỏ nhắn, từng ngón như ngọc.

Tô Đan Cổ dừng một chút, nắm tay Dao Anh đặt dưới đệm, kéo mền gấm đắp kín sợ gió lọt vào, ngón tay đè lên góc chăn.

Hắn đứng dậy, buông màn.

Có tiếng gõ cửa, thân binh đưa tới hai bát bánh canh* nóng hổi, nói: "Nhϊếp Chính Vương, trong phủ chỉ có sẵn vài thứ thuốc trị thương, không có thuốc khác." Vừa nói vừa kiễng chân đi đến nhìn quanh.

*tên gọi chung cho các món dùng bột mì kéo sợi, cán dẹp nấu với nước dùng

Bình phong che khuất, không nhìn thấy gì.

Thân binh lặng thinh mãi, ảo não nói: "Nhϊếp Chính Vương... Tôi chưa hề nghe thấy công chúa có bệnh trong người... Một lần cũng không..."

Từ lúc Văn Chiêu công đến Vương Đình, hắn phụ trách bảo vệ công chúa, từ Vương cung đến Phật tự, hắn luôn theo hầu công chúa, công chúa luôn phấn chấn lạc quan, xinh đẹp động lòng người, chỉ hai hôm nay mới tiều tụy đi chút, cứ nghĩ do nàng mệt nhọc, không ngờ là ngã bệnh.
Tô Đan Cổ nhận bánh canh, không nói gì.

Cận vệ Vương Đình đương nhiên sẽ không biết Lý Dao Anh có bệnh, thậm chí thân binh của nàng cũng vậy. Người duy nhất biết nàng phải uống thuốc hằng tháng có thể chỉ có một mình Tạ Thanh.

Xinh đẹp và yếu đuối có thể chiếm được thương yêu cưng chiều, nhưng không đổi được lòng tôn kính.

Ở vùng ngoại vực cách xa Trung Nguyên này, danh hào công chúa Đại Ngụy giống như bọt biển hư ảo mờ mịt, cuối cùng rồi trút bỏ vầng sáng rực rỡ hư vô, nếu Lý Dao Anh mềm yếu sợ hãi, một thân binh nhỏ sẽ có thể không chút do dự phản bội nàng.

Nên nàng ấy không thể hèn nhát. Nàng nhất định phải vĩnh viễn lý trí tỉnh táo, vĩnh viễn ý chí kiên định, vĩnh viễn mục tiêu rõ ràng, như thế mới chân chính thu phục thuộc hạ, thu được lòng trung thành của bọn họ. Giờ đây, thân binh của nàng, đội buôn mới thành lập không lâu kia, tất cả đều trung với Lý Dao Anh nàng, không phải công chúa Ngụy quốc.
Nàng từng bước một bước tới, đầy vất vả. 

-----------CHƯƠNG 70---------------

Chưa tới nửa đêm, cả người Dao Anh nóng như lửa đốt, nước không uống nổi nói gì bát bánh canh.

Nàng cảm giác mình được ai đó nhẹ nhàng đỡ lên, đưa chén canh bên môi, mùi thức ăn thanh đạm xông vào mũi nhưng nàng thấy buồn nôn, giơ cánh tay đẩy bát ra.

Nước bắn tung tóe, bát lập tức dời.

Trong chăn ấm áp dễ chịu, như giấu lò lửa than sáng rực, cả người Dao Anh khô nóng khó nhịn, tốc chăn đang đè trên người ra. Vừa đẩy ra, chăn lại đắp lên lại, nàng lại đẩy ra, chỉ chốc lát sau, chăn nhẹ nhàng trở về chỗ cũ, nàng mang bệnh đến gắt gỏng, miệng hừ hừ bất mãn, hai chân ra sức đá văng chiếc chăn ra, một cước lại một cước đạp đạp chiếc chăn.

Hệt như con mèo cáu kỉnh.

Bóng người bên giường ngừng lại trong tích tắc.

Hơi nóng tản đi, Dao Anh thấy dễ chịu hơn chút, thả lỏng tay chân trở mình, gối lên cánh tay mình, cuộn tròn nằm ngủ, tóc dài đen nhánh chảy đầy đầu vai, bàn chân ngọc tinh xảo lộ ra, mu bàn chân hơi kéo căng, đáng thương nhỏ bé, so với dáng vẻ cáu kỉnh ban nãy tưởng như hai người.

Lát sau, chăn lại đắp lên người nàng.

Một bàn tay khớp xương rõ ràng nhẹ đè chèn góc chăn.

Dao Anh bỗng mở mắt, giương mắt nhìn, mi dài ướt sũng.

Động tác này cho nàng cảm giác rất quen thuộc, rất yên tâm.

...

Lúc nhỏ, Dao Anh uống thuốc mỗi ngày, cả đêm ngủ không được. Nhất là năm vừa mới tập đi, hai chân đau đớn khó nhịn, cô bé nằm trên giường lăn lộn, đổi tư thế nào cũng đau. Cô bé không muốn khóc vì nhịn đau không nổi nhưng nước mắt vẫn cứ rơi, ướt gối.

Lý Trọng Kiền nghe tiếng, cầm đèn vào phòng soi lên mặt cô bé: "Tiểu Thất?"
Dao Anh biết anh mình nóng nảy, sợ anh lo lắng, lập tức ngừng thở, không nhúc nhích, giả vờ ngủ. Lý Trọng Kiền cúi người, kéo cái chăn bị trượt xuống dưới bả vai đắp lên, nhẹ nhàng ấn dém góc đáy chăn hai lần, đứng cạnh giường một lúc mới đi ra.

Chân Dao Anh vẫn còn rất đau, nhưng lòng yên hơn rất nhiều, trở mình ngủ tiếp.

...

Trải qua nhiều năm, từ lâu Dao Anh đã quên mất những đêm trắng đêm khó ngủ, chỉ còn nhớ rõ bàn tay dịu dàng vụng về dém góc chăn của anh mình.

Ánh đèn ảm đạm mờ nhạt.

Dao Anh chăm chú nhìn cánh tay thon dài bên giường, ánh mắt từ từ lướt lên, nhìn thấy một chiếc mặt nạ dạ xoa dữ tợn.

Nàng giật mình, mơ mơ màng màng nghĩ, giấc mơ này có phần kinh khủng rồi.

Ánh mắt tiếp tục đi lên, một đôi mắt sâu màu xanh thẫm lẳng lặng nhìn nàng, ánh mắt trong suốt hờ hững.
Hốc mắt Dao Anh hơi nóng. Ấm ức đọng lại tận dưới đáy lòng, sợ hãi, bất lực, cô độc như sóng lớn cuồn cuộn, đột nhiên dâng lên trào ra từng đợt.

"Anh à..."

Thốt lên hai chữ, mũi chua chua, nước mắt ngân ngấn, túm lấy cánh tay đang định rút đi kia.

"Anh, em khó chịu quá." Biết là giấc mơ, nên không cần giấu diếm, có thể thỏa thích mè nheo kể lể.

Bàn tay nóng hổi bắt lấy bàn tay hơi lạnh, như có dòng điện lướt qua.

Lòng bàn tay giãy nhè nhẹ.

Dao Anh nắm thật chặt, giống như lúc bé đã nắm chặt đôi tay vô số lần dìu dắt nàng, dạy nàng từng học theo bước một, khuôn mặt nhỏ áp lên, ỷ lại cọ xát, im lặng làm nũng.

Bàn tay bị nàng siết chặt bất động, mặc cho nàng dán khuôn mặt nhỏ nóng hổi lên, lớp da dưới áo hơi lạnh, rất dễ chịu.

"Anh à..." Dao Anh ngửa mặt lên, mềm giọng mè nheo, "Đừng mang mặt nạ được không? Mặt quỷ doạ người quá."
Người ấy cúi nhìn nàng.

Khuôn mặt Dao Anh bị nóng đốt đỏ bừng, cặp mắt như say rượu, xuân sắc quyến rũ, yên lặng chăm chú nhìn hắn, nhận lầm người, phá lệ thẳng thừng, vừa ngọt vừa ngang ngược.

"Anh." Nàng thúc giục, giọng nhỏ yếu ớt, lông mày nhíu chặt như cố nén đau.

Người ấy không lên tiếng, chậm rãi tháo mặt nạ xuống. Dưới lớp mặt nạ Dạ xoa là một khuôn mặt đầy những sẹo.

Hắn cầm mặt nạ, chuẩn bị đeo lên lại.

Dao Anh đè lại cánh tay hắn, mày hơi cong, nhìn hắn ngòn ngọt cười, khóe mắt đuôi mày đều là ý cười yêu kiều, như hoàn toàn không để ý vết sẹo trên mặt hắn.

"Tốt hơn nhiều á." Dao Anh khẽ nói, lần này thấy yên lòng, ôm cánh tay hắn, nhắm mắt ngủ thϊếp.

Người kia run nhẹ.

Đến sau nửa đêm, Dao Anh bắt đầu phát lạnh.

Từng tia từng sợi ý lạnh chui vào từ trong xương, vọt ra khắp người, tay chân nàng lạnh buốt, ôm chặt lấy mình co rút lại.
Bàn tay bị nàng luôn siết chặt rút ra.

Đầu vai nặng hơn, có người đắp thêm một lớp chăn cho nàng, cũng vẫn nhẹ nhàng dém góc chăn hai lần.

Dao Anh run lẩy bẩy, nói khẽ: "Anh, em lạnh."

Bóng người bên giường rời đi một lát, đem thêm chăn đắp lên rồi dém chặt. Lò than được kéo đến cạnh giường, phát ra tiếng ken két nhỏ.

Dao Anh vẫn thấy lạnh, răng đánh lập cập.

Bóng người mạnh mẽ rắn rỏi lại ngồi vào cạnh giường vén lên một góc chăn, một bàn tay mò vào, ngón tay đặt trên cổ tay nàng.

Lòng bàn tay có lớp chai sần mỏng cạ qua mu bàn tay nàng, nàng run lên, ngay sau đó, một dòng nước ấm lan ra từ ngón tay chạm đến.

Chỗ lòng bàn tay dán vào thật ấm áp, Dao Anh thấy dễ chịu đôi chút, vô thức sán lại nằm thật gần, chậm rãi, toàn bộ thân thể mềm mại dán vào.

Bóng người không nhúc nhích, như một pho tượng.
Giày vò một đêm, đèn cháy hết, tản ra từng sợi khói xanh. Dao Anh lúc nóng lúc lạnh, nửa mê nửa tỉnh, mở mắt.

Trước giường lờ mờ, một chùm ánh trăng lạnh lùng tràn qua khung cửa sổ chiếu vào phòng, rơi trên người đàn ông cạnh giường, ánh trăng cắt qua khuôn mặt hắn làm nhạt nhoà vết sẹo, phác hoạ ra đường cong sắc sảo ưu nhã, mi mắt chụp xuống một hố đen nhạt, nổi bật cặp mắt xanh càng thêm thanh tĩnh.

Hắn rủ mắt, bờ môi dày nhẹ nhàng mấp máy, miệng niệm thành tiếng đọc kinh văn.

Dao Anh sẽ chỉ biết vài câu tiếng Phạn đơn giản, không hiểu hắn đang đọc gì, chỉ lõm bõm nghe thấy vài từ: Giải trừ ốm đau, không còn nỗi khổ.

Tô Đan Cổ quả nhiên là đệ tử cửa Phật, khi hạ đồ đao cũng sẽ niệm kinh.

Giọng hắn niệm kinh uyển chuyển trong lạnh, Dao Anh không hiểu một câu, chỉ hiểu hắn đang cầu chúc cho mình, trong lòng như có dòng nước ấm trào lên, yên ổn thuận theo, cơ thể dần dần không còn quá khó chịu, mí mắt sụp xuống, ngủ thật say.
Lần này, Dao Anh ngủ rất ngon. Đến khi lại mở mắt ra đã là sáng hôm sau.

Ánh ban mai nghiêng chiếu xuống mảnh tuyết đọng, trước cửa sổ một mảnh trời xanh nhạt trôi lững lờ.

Thuốc đã tan, Dao Anh lúc lắc cánh tay, người vẫn bủn rủn vô lực, quét mắt quanh phòng, sửng sốt.

Tô Đan Cổ ngồi dựa vào trước giường, hai mắt nhắm nghiền, như đang ngủ thϊếp đi.

Hắn trông nàng một đêm thật ư?

Dao Anh ngẩn người nhớ lại đủ loại chật vật đêm qua, sợ đánh thức Tô Đan Cổ, không dám đứng dậy, hai chân lúc lắc dưới đáy chăn.

Tay chân từ từ khôi phục sức lực, người nàng khô mát thoải mái dễ chịu, tinh thần dồi dào, lại có thể nhảy nhót rồi. Dao Anh nhẹ nhàng vặn mình trong chăn từ từ chuyển qua một bên khác trên giường, ánh mắt quay lại trên người Tô Đan Cổ.

Hắn ngồi dựa, vẫn là tư thế lúc tụng kinh, vai căng cứng, quanh vành mắt như có quầng xanh nhẹ.
Người đàn ông gϊếŧ người không chớp mắt này lại biết quan tâm chăm sóc người.

Dao Anh ngắm nhìn Tô Đan Cổ, kinh ngạc đến ngơ ngẩn.

...

Nàng thiên sinh lệ chất, thiếu niên lang ái mộ sắc đẹp nàng không đếm hết, chỉ cần nàng chịu cười một nụ với họ, thì họ có thể liều mạng vì nàng. Nhưng lòng ái mộ hừng hực như lửa ấy chẳng qua chỉ là nhiệt huyết nhất thời thiếu niên, họ ngưỡng mộ đó là công chúa xinh đẹp như hoa, cao cao tại thượng, là đệ nhất mỹ nhân, nàng không thể coi là thật.

Dao Anh biết, Trịnh Cảnh thích nàng, Tiết Ngũ thích nàng, Lang quân Bùi gia thích nàng. Lòng yêu thích đó không giả, song khi tính mạng của nàng và tiền đồ của họ không thể song toàn, có mấy ai vì nàng mà buông tay đánh cược một lần?

Như Trịnh Cảnh coi như chân tâm thật ý ái mộ nàng, cũng chỉ xúc động nhất thời mới mở miệng muốn nàng đi với cậu.
Dao Anh thậm chí chắc chắn rằng: Nếu Lý Đức hoặc Lý Huyền Trinh gϊếŧ nàng trước chúng, đám thiếu niên lang trong kinh kia sẽ phẫn nộ Lý Đức vô tình, sẽ tiếc hận cho nàng, sẽ rơi lệ vì nàng, sẽ vì nàng rút kiếm, sau đó thì sao? Tỉnh táo lại họ vẫn sẽ tiếp tục trung thành với cha con Lý Đức, như chưa từng có gì xảy ra. Rồi một ngày, đám thiếu niên lang đó dần dần già đi, con cháu đầy đàn, thê thϊếp thành đàn, có thể sẽ nhớ tới nàng hương tiêu ngọc vẫn, chán chường đôi chút.

Cũng không phải đám thiếu niên lang vô tình vô nghĩa, Dao Anh đối với họ ngay cả nói cũng chưa đến mấy câu, không yêu cầu xa vời. Ở trên đời này, khi nàng lâm vào tuyệt cảnh, người có thể không chấp xa ngàn dặm, một mực tới cứu nàng, vĩnh viễn chỉ có Nhị ca Lý Trọng Kiền.

Người liều lĩnh báo thù cho nàng, cũng chỉ có Lý Trọng Kiền.
Cho nên, lúc Dao Anh chạy đôn chạy đáo lo cho Lý Trọng Kiền, không khóc lóc tìm Trịnh Cảnh hỗ trợ, mà dùng gia tài của Tạ gia trao đổi với Trịnh gia. Còn liên lạc với Đỗ Tư Nam, nàng đem địa vị danh vọng mà y khát vọng nhất ra làm mồi nhử, liệt ra từng tiền cảnh đủ để y động tâm.

Đến chừng bị Hải Đô A Lăng bức đến tuyệt cảnh không đường trốn, mới không thể không xin Đàm Ma La Già giúp đỡ, Dao Anh tính toán rất nhanh, từng chữ từng câu đều có ám chỉ, dùng lợi ích đả động Đàm Ma La Già.

Đàm Ma La Già cứu nàng.

Không phải do nàng hứa hẹn thứ gì tốt, cũng không phải muốn kết minh với Đại Ngụy. Khi đó nàng không thể cam đoan bất kỳ việc gì, ngài vốn không xem là thật.

Về sau Dao Anh từng suy nghĩ rất kỹ, sở dĩ Đàm Ma La Già che chở nàng, cũng không phải vì nàng từng giúp Đề Bà Mông Đạt, gặp duyên gửi đến Thủy mãn thảo.
Ngài cứu nàng, chỉ vì ngài có thể cứu nàng.

Dù Đàm Ma La Già không còn nhiều thời gian, cũng sẽ thuận tay cứu người xa lạ là nàng.

Ngài hứa che chở nàng, thật sự chiêu cáo thiên hạ, để nàng lấy danh nghĩa theo chân cô gái Ma Đăng Già dừng chân nơi Phật Tự, thoát khỏi khao khát của Hải Đô A Lăng. Lúc này lại phái Tô Đan Cổ hộ tống nàng đến Cao Xương, giúp nàng nhanh đến ngày hồi triều.

Từ đầu đến cuối, ngài không cần nàng cảm kích, cũng không cần nàng lấy gì trao đổi.

...

Dao Anh ngồi dậy, nhớ buổi tảo khóa hôm ấy, Đàm Ma La Già ngồi ngay ngắn trên Phật điện, ánh mắt nhìn mình.

Ánh mắt của ngài mát lạnh xuất trần.

Dao Anh cười cười, thấy mặt mình hơi nóng.

Tô Đan Cổ hành tung quỷ bí, A Sử Na Tất Sa kỳ lạ, tín nhiệm của Đàm Ma La Già với Tô Đan Cổ cũng làm người mở mắt.
Trực giác nàng nhạy bén, vết sẹo rộng lớn trên mặt Tô Đan Cổ không phù hợp với ánh mắt ấy. Nàng hoài nghi thân phận của Tô Đan Cổ, mấy hôm nay nhiều lần cố gắng thăm dò. Hẳn hắn cũng đã biết, tuy vậy vẫn đối xử nàng như trước. Đàm Ma La Già phái hắn bảo vệ nàng, hắn trông coi nàng rất tốt.

Dao Anh chầm chậm ho ra một ngụm khó chịu.

Kệ cho giữa các sư huynh đệ Đàm Ma La Già, Tô Đan Cổ, Tất Sa đến cùng che giấu thứ gì, Tô Đan Cổ đến cùng là thân phận gì, đều là chuyện của họ, nàng không nên vạch bí ẩn của họ.

Quân lấy thành thật đối đãi, nàng cũng nên lấy thành thật để đáp lại. 


Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play

trướctiếp