Vương Tự Toản lúc này tâm hồn bất định quỳ gối trói gô trên sàng thuyền bên cạnh hắn là hai binh sĩ cao lớn thân mặc khôi giáp lạnh lùng canh gác.
Hít một hôi sâu lây lại bình tĩnh Vương Tự Toản biết lúc này hắn không thể mất bình tĩnh, cơ hội chỉ có một lần.
Gia tộc hắn trăm cay nghìn đắng mới bắt lại được liên lạc cùng người hợp tác phía bên kia, trăm ngàn khó khăn mới có được thông tin về quân Đại Việt cho nên hành động của hắn lại không thể sơ sảy mà thất bại.
Vương Tự Toản thậm chí còn biết được rằng cánh quân tấn công Liêm Châu là ai chỉ huy, tên họ là gì, chức vụ cùng một số tình báo về tính cách.v.v…..
Chỉ biết bị này chỉ huy là cháu trai của Lý Thái Úy tổng chỉ huy của quân Đại Việt, bên cạnh đó còn là một Hầu tước phò mã, trấn thủ một Lộ. Tuy tài năng không có bao nhiêu nhưng danh phận là cực kỳ không thấp. Thậm chí Phó chỉ huy nơi này là Thân Cảnh Phúc thì Vương Tự Toản cũng biết đến.
Ngô Khảo Ký khoác áo choàng lớn gương mặt ngái ngủ xuất hiện, mấy ngày nay hắn thực sự khá mệt mỏi. Mãi mới có được một ngày có cảm giác ngủ ngon thì bị đánh thức nên thái độ là không dễ chịu lắm.
Đáng lẽ thân binh không có chuyện quá hệ trọng thì cũng không muốn đánh thức Ngô Khảo Ký. Nhưng tên tự nguyện tù binh họ Vương này nhất thiết muốn gặp Chỉ huy có chuyện quan trọng trình báo trong đêm cho nên thân binh không thể không đánh thức Ngô Khảo Ký dậy cho được.
“ Nói đi, nói ngắn gọn nhất ngươi có thể?”
Đêm đông lạnh lẽo Ngô Khảo Ký bị hàng quân dựng khỏi chăn muốn thông báo tin quan trọng, dùng đầu ngón chân cũng đoán được đây là Hán gian muôn phản quốc muốn hỗ trợ quân Đại Việt công trại gì đó.
Thứ này với Ngô Khảo Ký không quá quan trọng vì Thân Cảnh Phúc ngày mai sẽ đến nơi và hai mặt giáp công.
Có người giúp đỡ trong ứng ngoại hợp hay không không có nhiều tác dụng. Cho nên thái độ Ngô Khảo Ký thực sự bất hảo vô cùng.
Hắn ngồi đó chòng chọc nhìn vào tê tù binh đang bị chói gô quỳ sạp trên sàn thuyền, trên tay Ngô Khảo Ký đang cần đại kiếm chống về trước mặt, ý tứ không cần hỏi. Mở mồm nói không để hắn ưng ý thì hậu quả sẽ thảm khốc vô cùng.
“ Ta…” Vương Tự Toản bị khí thế cùng thái độ của vị chỉ huy trẻ trước mặt trấn nhiếp đến run rẩy… Hắn có thể mường tượng cả ngàn thái độ của địch quân chủ tướng nhưng không thể nghĩ rằng thái độ lại ác liêt đến vậy.
“Ngươi có 10 thời thần để trình bày…” Ngô Khảo Ký lạnh lùng nói đoạn đánh mắt cho hai tên thân binh.
Loạt xoạt.
Hai tên thân binh lập tức thủ thế túm lấy gáy tên tù binh chuẩn bị lôi ra ngoài bất kì lúc nào.
Vương Tự Toản tay chân tê dại, thực tế hắn cảm giác mình chuẩn bị đại - tiểu tiện không tự chủ ngay lập tức. Lúc này Vương Tự Toản muốn chửi tổ sư bố cái đứa giao nhiệm vụ này cho mình. Nhung thời gian không cho phép hắn nghĩ nhiều, hắn phải nhanh nhất nói ra sự việc.
“ Bẩm đại nhân, tôi có thể giúp thiên quân mở ra môn lộ của Bắc Hải trại bất kỳ lúc nào….” Vương Tự Toản nói nhanh nhất có thể.
“ Cắt… cái này bổn tướng quân không cần… thứ này không đủ cứu mạng của ngươi…..” Ngô Khảo Ký cắt ngang đầy bá đạo và áp bách.
Ngô Khảo Ký học được rồi thuật nói chuyện, chỉ có tạo nên áp bách cực lớn cùng thúc dục thời gian thì đám này sẽ lỡ mồm mà nói ra những thứ không nên nói.
“ Đại nhân, đại nhân, tôi có thể mở Thành Liêm châu, người của tôi có thể mở cả thành Ung Châu chỉ là tôi cần một điều kiện, tôi cần bắt một người tên Tống Kiệt ở Ung Châu, tên này có thù giết người thân với tôi….” Vương Tự Toản nói thật nhanh …
“ Lôi ra ngoài chém đi…” Ngô Khảo Ký lạnh nhạt
“Dạ…” hai tên thân binh hùng hổ kéo lê Vương Tự Toản trên sang thuyên lướng ra ngoài phòng chỉ huy soái hạm…
“ Đại nhân … đạ nhân oan uổng… xin tha mạng… tôi nói đều là sự thật..” Vương Tự Toản lần này không phải là sợ té đái, mà là té đái thực sự. Hắn không thể ngờ rằng người chỉ huy quân Đại Việt trước mặt này thực tế không hề nói lý. Thành ý đến như vậy còn không động tâm mà chém người. Quá không hợp lẽ thường…
Ngô Khảo Ký khoát tay để cho hai tên thân binh tạm dừng lại..
“ Ngươi có vẻ không phục? để bản tướng cho ngươi chết tâm phục khẩu phục. Thứ nhất một tên thiên tướng be bé như ngươi mà có được năng lực mở ra thành Liêm Châu, Còn cả Ung Châu do To Giám chỉ huy… ngươi là hoảng tử Đại Tống? Thứ hai lý do Tống Kiệt gì đó. Nếu ngươi có năng lực mở ra Liên Ung nhị châu thì thù giết người thân ngươi không cần ta cũng báo được…. Đã nói láo thì không cần tiếp tục nói. Đi chết đi…. Lôi xuống trảm.
……………………………………..
Chân thành Ung Châu lúc này đã nhung nhúc và nghìn nghị thổ binh của Đại Việt với rất nhiều màu sắc khác biệt. Tâp hợp ở nơi này có đến 6 vạn quân cả chiến bih và dân phu, phụ binh. Quá nhiều sắc tộc cho nên tạo sự nhốn nháo về sắc phục.
Chủ sự nơi này là Lưu Kỷ. Ngày hôm qua Lưu Kỷ đã đến Ung Châu và vây phòng bố ráp cả bốn mặt thành. Với quân số 6 vạn hắn đủ năng lực để làm điều này.
Vốn dĩ trong lịch sử đạo thổ binh của Lưu Kỷ cũng có 6 vạn nhưng đó là bao gồm cả Thân Cảnh Phúc và Vi Thủ An mất đi 1,5 vạn quân nhưng lúc này hắn vẫn có đủ 6 vạn quân là vì sao?
Có được trang bị cùng hỗ trợ của triều đình Đại Việt, quân của Lưu Kỷ mạnh hơn nhiều so với quá khứ, hắn thẳng tiến một đường đập tan tất cả các trại nhỏ thổ binh Tống trên đường một cách dễ dàng và không hề chịu thiệt hại nhiều.
Nhưng trái với lịch sử, lần này Lưu Kỷ không lấy đồ sát kẻ thù bên kia biên giới làm vui. Hắn chỉ giết hại đám quý tộc thổ binh, còn đối với dân chúng người Mân thổ lại đối xử tốt vô cùng. Không cướp bóc, không hãm hiếp hay đánh đập. Ngược lại Lưu Kỷ còn mở kho quý tộc “cứu đói” cho dân thường và tự xưng là Vương của người Mân đến đây để giải phóng họ.
Nói thật người dân Mân tầng lớp thấp không có bao nhiêu kiến thức, quý tộc không bị giết cũng chạy cả, không ai lãnh đạo họ. Lại thêm Lưu Kỷ quân kỷ luật khá nghiêm chỉnh, đối xử tốt với “đồng bào” Mân. Cho nên số người đi theo lá cờ “giải phóng” của Lưu Kỷ ngày càng nhiều.
Một đường đánh từ Quảng Nguyên tới Tư Minh quân của Lưu Kỷ đã từ 4 vạn nở lên 5 vạn.
Tư Minh thành, nói một chữ thành cho oai, nơi này chỉ là một thành lũy đất mà thôi. Người chủ sự ở đây là đối thủ truyền kiếp của Lưu Kỷ tên Nùng Tông Đán.
Tông Đán cũng có đến cả vạn quân Mân không ít, vốn dĩ cũng có thể thủ thành một hai tuần chờ viện binh. Không ngờ trong thành có phản quân theo Lưu Kỷ mở thành cho quân Lưu Kỷ tràn vào chém giết.
Chỉ trong 2 ngày thành Tư Minh cáo phá, Nùng Tông Đán và gia đình bộ bạ bị chém chết không còn. Đám quý tộc ở Tư Minh cũng bị đồ sát cả.
Kho Tư Minh được Lưu Kỷ mở ra “ cứu tế” đồng bào Mân, số người theo hắn là nô nức không thôi. Tổng số quân của Lưu Kỷ lên tới 6 vạn trong vài ngày. Tiếp đó số quân khổng lồ này trực chỉ Ung Châu.
Tốc độ tiến quân của Lưu Kỷ quá thần tốc đến nỗi Tô Giám cũng không lường trước được.
Ngày 17 tháng 12 thì thành Ung Châu đã bị quân thổ binh Đại Việt vây kín vòng trong vòng ngoài.
Lúc này lều doanh trướng của Lưu Kỷ chỉ có hai người, môt gã trung niên mặc áo dài giao lĩnh kiểu Đại Việt, đây không nghi ngờ gì nữa chính là quân sư quạt mo, người thứ hai chủ sự ngồi đây vẫn là Lưu Kỷ rồi.
“ Vương thượng, lúc này quân lương đã không đủ nửa tháng… quân lính thì liên tục mở rộng. Chúng ta trụ không nổi … hay là..”
Tên quân sư râu cá trê mặt mũi gian xảo lúc này đang sầu khổ gương mặt mà nói…
“ Không thể, đừng vội xưng ta vương thượng lúc này, khi nào tên tiểu nhu vương ở Đại Việt chưa xưng đế thì lúc đó chúng ta vẫn chưa nên xưng vương. Còn về việc lương thảo, tìm cách khác. Dân tâm là quan trọng nhất, lúc này cướp bóc thì mọi công sức từ đầu đến giờ của chúng ta đổ bể cả..”
Lưu Kỷ ngồi đó ánh mắt thâm thúy ánh lên vẻ trí tuệ, nếu người không biết rõ Lưu Kỷ mà chỉ nhìn bề ngoài của hắn thì ai có thể nghĩ rằng Lưu Kỷ có một mặt như vậy.
Nhìn xa trộng rộng là đây, không cướp bóc xây dựng danh tiếng.
Nhưng phương pháp này có tệ đoan vô cùng lớn, lương thảo luôn là vấn đề với các đại quân, không cướp bóc mà đòi có lương thảo? Nằm mơ đi.
Muốn cho người dân trên vùng chiến sự đầu nhập vào quân đội thì có trăm vạn cách, áp bức cưỡng ép đến mua chuộc dụ dỗ. Nhưng cách nhanh nhất có lẽ là cấp lượng thực, quần áo ấm nếu đang mùa đông lạnh giá lúc đó người dân mu muội sẽ đấn dễ nghe theo những dụ dỗ.
Nhưng để người dân cống hiến lương thực cho quân đội lại là một câu chuyện khác. Phải là những người dân có tính giác ngộ cao, co tinh thần dân tộc lãnh thổ. Một quân đội nghiên chỉnh chiến đấu vì dân. Phải có cùng lúc hai điều kiện cần và đủ này thì mới có câu chuyện người dân tự ngyện cống hiến lương thực cho quân đội.
Mà tình hình của Lưu Kỷ và dân Mân ở Quảng Nam Tây lộ thì còn cách xa 1 vạn 8 ngàn dặm mới đạt được trình độ quân với dân như cá với nước. Lưu Kỷ có thể mị hoặc mua chuộc dân đen đi theo quân để chiến đấu cho hắn, nhưng điều kiện tiên quyết Lưu Kỷ phải bỏ ra lương thực. Nếu Lưu Kỷ muốn chưng lương thì chỉ có cách là cướp mà thôi. Mà đã bắt đầu cướp bóc một lần thì chuyện này sẽ tái diễn, rất khó khống chế từ đó danh tiếng “hiền quân” là Lưu Kỷ xây nên xẽ xụp như lâu đài cát mà thôi.
Trong sách sử cod ghi, bài bố văn của Lý Thường Kiệt đẫn đến hiện tượng: “Dân Tống thấy lời tuyên cáo đều vui mừng đồng tình, mang rượu thịt ra khao quân Lý. Từ đó mỗi khi dân Tống thấy cờ hiệu Lý Thường Kiệt từ xa đều nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam và cùng nhau bày án bái phục trên đường. Do đó uy danh quân Lý lan rất xa”. Đó chỉ là bôi son trát phấn mà thôi.
Sự thực đó là bọn người Mân chấp nhận quy hàng để tránh bị cướp bóc, không chống lại để tránh bị giết hại. Cũng có phần trong đó là ngắm nhìn Đại Tống cùng Đại Tống vật tay, ai khỏe hơn bọn họ sẽ theo. Còn việc rượu thịt khao quân ấy là thật, trích ra một chút rượu thịt khao quân Đại Việt để tránh bị quấy rầy và nhanh đuổi quân Đại Việt đến chiến chiến tranh với người Tống- Hán. Điều này không chỉ ở Mân người xày ra mà là ở mọi cuộc chiến tranh đều phổ biến xảy ra. Đây là cách tồn tại của nông dân nhóm trong khe hẹp của chiến tranh.
“ Bẩm Vương… Bẩm thủ lĩnh, nếu vậy cần phải cắt bớt đi quân số, chúng ta không thể duy trì 6 vạn quân được…”
Tên quân sư mặt khổ qua mà lên tiếng, hắn được giao trách nhiệm quản lý hậu cần quân cho nê việc này quá áp lực cho hắn.
“ Không được, muốn đứng vững ở Quảng Tây hay phát triển xa hơn thì 6 vạn người có đáng là bao. Thế này đi chỗ vàng bạc thu được, liên hệ với họ Vương giá cao thu mua lương thực của chúng…. Hừ hừ đánh hạ rồi Ung Châu cần gì lo lắng lương thưc chuyện?”
Lưu Kỷ suy nghĩ một chút rồi nói ra ý tưởng.
Nói thật thời này các vị chỉ huy khi nghĩ đến lương thảo trong chiến tranh đầu tiên là nghĩ đến “chưng” lương hay nói cách khác là đi cướp của dân. Còn việc tự bỏ tiền túi của bản thân để mua lương lại hiếm có người nghĩ đến.
Không thể không nói Lưu Kỷ là một kẻ làm việc lớn, biết nhìn cái lợi xa mà bỏ đi những thứ lợ ích nho nhỏ trước mắt.
“ Bên Vương thị sứ giả vẫn còn ở đây, vậy để thuộc hạ liên hệ bọn họ…. “ tên quân sư gật gù cho là phải, nếu thủ lĩnh chịu bỏ vàng bạc tư nhân để lo lương cho quân thì đó không có gì tốt hơn.
“ Ngươi cẩn thận một chút, mấy ngày này họ Vương liên tục dò hỏi thông về đại quân của Triều đình Đại Việt ta nghi ngờ bọn này hai mang tiếp xúc… cho nên cái gì cần nói thì nói cái gì không cần thì kiệm lời”
Lưu Kỷ ánh mắt tinh túy nhìn tên quân sư mà dặn dò.
“ Thuộc hạ tuân mệnh..”
Quân sư mặt chuột đi rồi căn lều chỉ còn lại Lưu Kỷ, hắn lúc này hết sức đăm chiêu suy nghĩ. Một đường mãnh tiến với tư thế đập tan nghiền nát các chướng ngại Lưu Kỷ hắn đang lâng lâng trên mây nghĩ đến ngày thống nhất cả Tộc Mân ở Quảng Nam Tây Lộ. Nhưng tòa ‘hùng” thành Ung châu cao lớn như một cục đá sừng sững cản bước tiến chân của hắn.
Hai ngày qua không phải Lưu Kỷ không thử công phá tòa thành trì này nhưng hiệu quả không vào đâu.
Binh sĩ chết đến 2 ngàn người mà một tấc tường thành cũng không bò lên nổi.
Nói như thế nào nhỉ, đối với người Mân trên núi không quen công thành chiến, không có nhiều kiến thức cơ sở về chế tạo vũ khí công thành thì một tòa thành loại ba như Ung Châu trong mắt họ chính là hùng thành.
Ung Châu thành dài rộng đều là ba dặm tường bên trong có thể chứa 4 năm vạn người sinh sống. Tường thành được xây nhiều lớp gạch với vôi, gạo nếp cùng dầu thạc khá kiên cố, tuy rằng cũng là thành loại 3 nhưng Ung Châu, Quế Châu, Quảng Châu ( Phiên Ngung) đều là những tòa thành có chất lượng tốt hơn nhiều những tòa thành như Khâm Châu, Liêm Châu hay Bạch Châu. Tất nhiên đám thành trì này không thể nào có cửa so sánh cùng thành trì ở phương Bắc hay trung tâm Tống triều.
Đối với Tống triều thì phương Nam các quốc gia chưa bao giờ là mối bận tâm của họ. Không phải các quốc gia phương Nam không nguy hiểm mà thiên thời, địa lợi, nhân hòa cả ba yếu tố đều khiến các quốc gia phương Nam chưa từng là mối uy hiếp của trung nguyên trong lịch sử.
Đầu tiên nói đến địa lợi, cả một dãy đất phương Nam toàn là ao hồ chằng chịt, cộng thêm đồi núi chập trùng… rừng cây um tùm chưa khai phá. Điều này khiến cho các Tộc Phương nam bi chia tách thành các nhóm nhỏ dần dần trở nên ly khai, kém gắn kết với nhau bởi yếu tố đại lý cho nên người phương Nam muốn tập hợp thành một lực lượng đủ đông và hùng mạnh uy hiếp Trung nguyên là rất khó.
Điều này thì ngược hẳn với thảo nguyên phương Bắc, thảo nguyên bao la rộng lớn bằng phẳng tuy khắc nghiệt nhưng lại rất dễ tập hợp quân đội cùng là thiên đường của kỵ binh. Cho nên các tộc phương Bắc mới là yếu tố đe dọa Trung Nguyên.
Yếu tố đị lý còn khiến cho người Nam chẳng thể nào phát triển kỵ binh, đường đi khúc khủy không dễ tấn công đến Trung Nguyên cho nên trong lịch sử chưa thấy một đội quân các quốc gia Phương Nam nào có thể mò đến được vùng Trung Tâm của Hoa Hạ. Lý do này đã đủ cho người Tống hay bất kỳ phong khiến thời đại nào của Trung Hoa không cần để ý đầu tư quá nhiều vào thành trì ở Phương Nam. Nhất là vùng Lưỡng Quảng.
Thực tế những tòa thành kha khá ở Phương Nam toàn là do các chính quyền đã thành lập trên đất này xây dựng mà thành. Điển hình phải nói đến Quảng Châu thành chính là Phiên Ngung kinh đô của nước Nam Việt của Triệu Đà xứng danh là một tòa hùng thành xây dựng kỳ công, sau này thời Thập quốc thế kỉ thứ 10 lại là Kinh Đô của Nam Hán quốc và được tu chỉnh thêm một lần nữa.
Kế đến đó là Quế Lâm Kinh đô Sở Quốc thời Hậu Đường cũng là một tòa thành được xây vững chắc để phóng thủ các thế lực trung nguyên.
Phúc Châu hiệ Tại thuộc Phúc Kiến Lộ cũng là một tòa hùng thành hiếm hoi ở phương Nam do nó chính là kinh đô của Mân quốc trong thời Thập Quốc Hậu Đường. Cho nên cả dãy miền nam chỉ lác đác có mấy tòa thành này có thể coi là hùng thành mà thôi.
Ung Châu dĩ nhiên chưa có tuổi để so sánh với đám thành quách này chứ đừng nói là so sánh cùng các tòa thực sự hùng thành phương Bắc của người Tống. Nhưng Ung châu là một cứ điểm khá quan trọng để Tống làm bàn đạp tiến đánh Đại Việt, cho nên những năm qua người Tống đã khá sức tốn công để cải tạo Ung Châu.
- Lời cuối, tác hơi dài dòng giới thiệu thành trì chất lượng để mọi người hiểu quá. Không phải cái thành nào của người TQ cũng là tốt và chắc chắn. Nó còn tùy thuộc vào tòa thành đó làm gì phòng thủ ai và phòng thủ vũ khí gì. Rất mệt mỏi khi có người lấy dẫn chứng pháo nhật bắn Nam Kinh mà chẳng hề hấn, cớ sao tòa thành này tòa thành kia bị máy bắn đá bắn sập.
Nam Kinh được mệnh danh là Vạn lý trường thành thứ hai, thành đặc gạch không có đất nện, cao 14-20m từng đoạn, rộng 14-20m do thời Minh tiến hành cải tạo xây lại một lần nữa ( thời đã có súng thần công) vì có súng thần công nên thành này được xây để chống đạn đại bác. Cho nên các bác đừng lôi ra so sánh kiểu khập khiễng mệt lắm.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT