Núi xanh chìm trong cõi đêm u tịch, mũi giày đạp cong cành cây khẳng khiu chấm vào ao nước lăn tăn, Phùng Xuân khom lưng nói: "Phương trượng, có tin ạ."

"Ừm." Tịnh Bạch đặt tay lên mỏm đá nhô ra, mặt đá nhẵn như gương, dưới chân, gạt bỏ rêu phong là một dãy đá láng bóng uốn cong, dây tơ hồng quấn quýt bò ra, rệu rã rủ xuống. Nơi đây là thác cạn, suối nước trên thượng nguồn đã khô kiệt rất rất lâu về trước, lạ là dù thiếu ẩm, rêu vẫn sinh trưởng tốt, từng mảng bám vào đá, đá ngậm sắc xanh rì tạo ra vẻ đẹp thâm u của rừng sâu cốc đáy.

Lão tổ sư của tổ sư từng kể ở trong cái hang dưới dãy đá, có một yêu tinh. Yêu tinh đó đạo hạnh thấp kém, linh trí khờ dại, ngày ngày mải miết ngóng trông bầu trời phía bắc, chờ Bắc Đẩu lên cao, chờ Thiên cung thứ bảy ghé mắt.

Từ lúc yêu tinh không còn, thác cũng ngừng chảy, suối dần khô kiệt, nghe đồn Chu Lễ Triều hầu mỗi năm sẽ đặt một đĩa bánh mặn tại nơi này, chẳng rõ là tế cho ai. Tri kỷ của Hầu gia sử sách chỉ chép về một người nhưng y thọ ngắn, mất trong chiến tranh. Hầu gia qua đời, đất này cũng thành hoang dại.

Hồi xưa, cái thuở loạn lạc máu lửa, hai bé con nhà Lan thái sử hay chạy tới đây ngắt dây tơ hồng hoặc bắt đom đóm, tình cờ phát hiện sâu trong hang có hai bia đá nứt nẻ bám rêu, điều giật mình chính là: một bia khắc tên của Chu Lễ Triều hầu Cơ Lân, chẳng nhẽ là mộ cổ nhân?

Cái tên khắc trên bia mộ còn lại đã mòn đến mức không đọc được, bọn họ đoán mò là mộ của vị tri kỷ bí ẩn của Chu Lễ Triều hầu, bèn tháo bầu rượu trên thắt lưng đặt xuống, vái ba cái rồi trả lại sự an tĩnh cho người xưa. Mấy chục năm sau, Tịnh Bạch tình cờ đi tới nơi này, thấy cửa hang đã bị đất đá sạt lở vùi lấp, đắp thành một nấm mộ thực thụ. Cảm khái, lại vái một cái, từ đó thác cạn này trở thành nơi ông thường xuyên lui tới hóng gió.

"Phương trượng?" Phùng Xuân thấy ngài có vẻ lơ đãng, dợm hỏi.

"Ừm." Tịnh Bạch đăm đăm nhìn mỏm đá, chậm rãi nói: "Thời đó, sau khi nguyên soái Tạ Phong Kiều đột ngột từ trần, Bạch tướng liền thâu tóm binh lực của ông, quân kỳ của Tạ Phong Kiều rơi xuống thì quân kỳ của Bạch Khánh liền phất lên, cục diện tranh đấu diễn ra khốc liệt, không biết bao giờ kết thúc.

"Bạch Khánh một đường chém giết, chất xương làm bậc phò tá nhị hoàng tử Giang Liên bước lên đế vị, xưng là Hoắc Huân đế, ban chiếu ân xá thiên hạ, bấy giờ loạn thế mới chấm dứt. Hoắc đế cai trị giang sơn vỏn vẹn hai năm thì Bạch Khánh lại dấy binh lật đổ Hoắc, từ đó khai sinh ra hoàng triều họ Bạch đến hiện tại..."

Phùng Xuân rủ mắt, ngậm miệng. Khánh là tục danh của Tiên hoàng, phải kỵ húy. Trong dân gian có một sự tích liên quan đến hồng nhan rất nổi tiếng giữa hai vị hoàng đế này. Truyền rằng Lan thái sử năm xưa sinh ra được một đôi tỷ muội sắc nước hương trời, kiều diễm nức tiếng, hai nàng còn là đệ tử của Cầm Tiên nên tài đánh đàn rất xuất sắc. Mặc dù là song sinh giống nhau như hai giọt nước nhưng một mình cô chị Lan Nguyệt Hạ đã tóm cả trái tim của Giang Liên lẫn Bạch Khánh. Mối tình này khiến cho huynh đệ cắt máu ăn thề Giang - Bạch trở mặt thành thù.

Hoắc đế lên ngôi, lập Lan Nguyệt Hạ làm hoàng hậu, sau khi Khánh đế phế truất Hoắc đế, Lan hoàng hậu cùng đường tự vẫn. Cô em Lan Ánh Tuyết số khổ hơn chị mình nhiều, lưu lạc vào lầu xanh mấy năm, sau đó bị Khánh đế bất chấp sự phản đối của triều thần đưa về phong hàm Chiêu nghi, liên tục đắc sủng, bị gán danh 'họa thủy', về sau cũng tan hương nát ngọc nơi cung cấm.

Biết thì biết vậy nhưng dĩ nhiên không tin là sự thật. Hai kẻ trù tính và mưu nghiệp thiên hạ, nếu trong đầu chỉ có đàn bà thì còn làm ra trò trống gì? Tích này được phép lưu truyền rộng rãi chỉ là cho bá tánh đơn sơ có cái để buôn dưa lê, để tò mò mà không để ý đến những vấn đề khác. Tỷ như nếu Lan Chiêu nghi được Khánh đế sủng ái thì vì sao nhị hoàng tử do bà ấy hạ sinh, chính là Nhàn vương, có số phận rất lật đật?

Nhàn vương không có thực quyền lại còn suýt bị lưu đày mấy lần.

Về phía Hoàng đế... thôi, thà nhận ngu dốt cũng không dám phỏng đoán thánh ý, từ sau thảm án của gia tộc học sĩ Giang thị* thì nghe phong thanh long nhan càng lúc càng vui giận thất thường.

* Từng đề cập ở chương 81.

Đấu đá trong cung cấm đã khó diễn tả bằng lời, tranh quyền đoạt vị càng hàm ẩn các bí mật long trời lở đất, vậy nên tránh được thì tránh, bàn luận chi cho mệt thân, còn dễ chuốc họa.

"Diệp thí chủ còn nói gì nữa chăng?"

"Vâng, còn một chuyện."

Tịnh Vô nghe Phùng Xuân thuật lại kết quả giám định của Diệp Bái, trầm ngâm: "Thật vậy sao?"

"Vâng."

"Những thầy vu ở Tây Vực đúng là thông dụng dùng dụng cụ và nhạc khí bằng xương, nhưng ta từng nghe Cầm Tiên nói đó thực chất chỉ là hình thức để cường điệu tính huyền bí cho Vu thuật, không có mấy tác dụng thực tế. Nếu lưỡi kiếm ấy thật sự được đúc từ xương người thì quả là nghiệp chướng."

"Thưa phương trượng," Phùng Xuân mặt trầm như đáy hồ vái một cái, "đệ tử xin phép nói. Vấn đề của Quân Huyền chúng ta không thể làm ngơ, hắn càng ngày càng mất kiểm soát, lần nhập ma sau hung bạo hơn trước đó. Nếu không kiềm chế Quân Huyền kịp thời, chỉ sợ sẽ đến lúc lạm sát người..."

Tịnh Bạch ra hiệu im lặng, vuốt ve mũi đá: "Ma chướng trong tâm tức là trong lòng có bệnh, muốn chữa trị tâm bệnh chỉ có cách lấy tâm chữa tâm. Quân Huyền xác thực có tâm bệnh, bệnh nặng là khác. Trong ngăn tủ cuối cùng ở phòng ta có một chiếc hộp thắt dây đỏ, con cầm nó, giữ gìn cẩn thận trao tận tay cho Quân Huyền."

"Nhưng..."

"Con đừng lo, ta hứa là thứ đó có thể giải quyết vấn đề của Quân Huyền."

Bấy giờ Phùng Xuân mới an lòng vái chào: "Đệ tử xin vâng."

.

Bốn ngón tay khép lại, mép quạt tỳ vào môi mọng, ngón cái miết ra phía ngoài xòe phiến quạt lụa giấu đi cung môi thắm. Mày dài ẩn vào tóc mai, mắt phượng ướt át hàm xuân, ngậm cười, phong tình như lũ tơ hoài vấn vương.

Mạc Tử Liên thề là mình chỉ che miệng để ngáp thôi, tại sao lại có những tên không kiềm chế được nửa thân dưới muốn bao y thế này!

"Cút xéo!" Y nhảy dựng lên đá gã công tử bột thứ tư ngã dúi dụi, đạp lên ngực gã: "Nhìn ta thiếu tiền lắm à! Nhìn ta có vẻ cần vài đồng bạc lẻ của ngươi chắc! Đồ có mắt không tròng, biến đi!"

"Thập Tam, ra đây vẽ mặt cho ta." Y búng tay, Tam Nhi lập tức hí hửng xoay bút trang điểm xuất hiện, vô tư ở vệ đường tô vẽ: "Hì hì, chủ nhân thật quá sức quyến rũ."

"Hừ, vẻ đẹp ngọc ngà của bổn tọa há có thể cho kẻ ngu dốt nhìn vào?"

Vẽ vời tẹo, rất tốt là không ai muốn tiếp cận Mạc Tử Liên nữa. Y ngáp ngắn ngáp dài liên tục, tí thì chảy nước mắt trôi phấn, trong bụng không biết đã sỉ vả Nhàn vương tới mấy chục lần. Sau vụ này y nhất định phải gối đầu lên chân ca ca đánh một giấc thật ngon. Đợi mãi, đợi mãi... rốt cuộc y cũng thấy bóng dáng Nhàn vương.

Bạch Ân Tiêu cũng nhanh chóng nhìn thấy y, khóe môi cong lên như câu hồn nhiếp phách. Mạc Tử Liên yêu kiều đá lông nheo, quay lưng bỏ chạy.

Phó Vân Cử đã kể cho Mạc Tử Liên nghe về một vụ án rất thú vị hồi còn giữ chức viên ngoại lang lục phẩm tại bộ Lễ, đó là một vụ án mất cắp cống phẩm*. Có ba điểm đáng lưu ý trong án này - thứ nhất, cống phẩm mất cắp là một khối ngọc thạch màu trắng sữa hình cung trăng; thứ hai - tra án này dẫn đến một án buôn thuốc phiện khác, thủ phạm buôn lậu là em trai của Lý giám quân, Lý Phục; thứ ba - có một cung nữ bị hàm oan trong án mất trộm, sau khi án kết thúc, cô ta lại thực sự trộm vật vừa tìm về được rồi bỏ trốn.

* Vụ án này đã trình bày ở Vãn tình - 32.

Về điểm thứ nhất, Mạc Tử Liên vừa nghe liền giật mình nhận ra cống phẩm bị mất là một khối Sinh Tử bội. Phó Vân Cử là người đã phá án nên đến giờ vẫn nhớ rõ về nó: "Trong danh sách ghi tên nó là ngọc Trú Thần, có thể hấp thụ linh khí của đất trời rồi truyền cho người đeo. Những thông tin về phong thủy thì ta xem không hiểu, cũng không nhớ mấy."

Điểm thứ hai và thứ ba mới thu hút toàn bộ sự chú ý của Mạc Tử Liên, đây rõ ràng là kế dương Đông kích Tây!

Trộm cống phẩm là mồi nhử để tra ra Lễ bộ thị lang Lý Phục buôn lậu, giữa việc mất một viên đá với việc mệnh quan tam phẩm của triều đình phạm tội - tất nhiên là việc sau hệ trọng hơn. Thế là ả cung nữ kia thành công trộm Sinh Tử bội trong êm thấm. Phó Vân Cử lại lắc đầu: "Thân thế của cô ấy không có gì bất thường, ta cũng không biết làm sao cô lấy được tang vật của vụ án, làm sao cô được phép xuất cung, làm sao cô rời khỏi kinh thành rồi bị một người giang hồ giết chết..."

"Từ từ, ngươi bảo cô ta bị người giang hồ giết? Có biết kẻ đó là ai không?" Tim Mạc Tử Liên lại đập nhanh hơn, có linh tính mãnh liệt về Tống Sơ Huyền.

Phó Vân Cử nhìn vào ấn đường của y, thản nhiên đáp: "Công tử, Phó mỗ là người trong cung, cái cần kiêng kỵ thì phải nhất mực kiêng kỵ, điều Phó mỗ biết có lẽ hạn hẹp hơn những gì công tử biết, xin lượng thứ."

Hắn không trả lời trực tiếp nhưng Mạc Tử Liên đã hiểu, người đủ uy quyền để chỉnh đốn Lý gia mà chẳng nể vì mặt mũi của Phó gia tại Tư quốc này chỉ có thể là vị cửu ngũ chí tôn kia.

Mạc Tử Liên từ a na mà biết Tiên đế Tư quốc bệnh nặng suốt hai năm cuối đời rồi băng hà, ở thời điểm xảy ra án ngọc Trú Thần thì Tiên đế sắp ngỏm rồi, bảo sao Lý Phục dám tác quái trước mũi hoàng đế. Tiên đế ngứa mắt nên muốn chỉnh đốn hai họ Phó, Lý - cho Lý Phục một vé đi đầu thai. Kinh nghiệm cho y thấy triều đình lúc đó chắc chắn không ổn, Tiên đế gặp bất lợi đầy mình nên mới phải bày vẽ cầu kỳ để mượn tay một cung nữ bí mật cầm Sinh Tử bội ra khỏi kinh thành. Tống Sơ Huyền diệt khẩu cô ta rồi đưa Sinh Tử bội tới đâu đó.

Mạc Tử Liên không có chứng cớ để khẳng định 'người giang hồ' trong lời Phó Vân Cử có thật là giang hồ, càng không thể chứng minh đó là Tống Sơ Huyền - nhưng linh cảm của y cực kỳ mạnh mẽ. Nói sao đây? Tất cả mọi việc gần như không có bằng chứng liên hệ gì cả, tuy nhiên có những dấu hiệu lặp đi lặp lại - ngọc trắng, giang hồ, Phó gia, Lý gia, vu thuật, phép trường sinh, cải tử hoàn sinh... lăng mộ?

Một tia sáng lóe lên trong đầu y: mộ của ai? Ai được mai táng trong lăng mộ? Ai?

Ngoài Tống Sơ Huyền ra, người có thể cho y đáp án chính là Bạch Ân Tiêu. Sở dĩ Phó tướng gia tốn lắm công, lắm của đào ra một cái hố cho Nhàn vương và Tống Sơ Huyền chỉ có thể giải thích là do lão ta tự tin hai người chắc chắn sẽ phải nhảy vào - tức Bạch Ân Tiêu nhất định phải biết 'ai đó' là ai.

Mạc Tử Liên chạy một mạch vào sâu trong khu rừng gần chân núi Trường Sinh giáo thì tiêu sái xoay người phanh gấp, kêu lên: "Vương phi đang gặp nguy hiểm!"

Kiếm khí bén ngót lướt qua gò má y, đối phương 'hửm' một tiếng, bật cười khẽ với ngữ khí u ám, lạnh thấu xương: "Bổn vương thật muốn cho người luân gian ngươi đến chết..."

Mạc Tử Liên suýt sặc, thầm mắng 'có bệnh!', chớp chớp mắt nói cực nhanh: "Vương phi một mình lên núi trước đợi vương gia rồi, tình hình thật sự rất nguy cấp! Ngài chỉ cần trả lời một câu hỏi, ta sẽ dẫn ngài đến chỗ vương phi ngay!"

Đáy mắt Nhàn vương thâm trầm như vực sâu, "Nói!"

"Ai được mai táng trong mộ?"

Lưỡi kiếm trong tay Bạch Ân Tiêu chao động làm Mạc Tử Liên giật mình nhảy về sau, rất nhanh, người đáp: "Lan hoàng hậu, Lan Nguyệt Hạ."

Vậy là nguồn cơn cớ sự đã rõ ràng. Mọi chuyện còn lại, phải bắt được Tống Sơ Huyền mới có thể biết câu trả lời.

.

Mây chiều như máu loang từ vết thương của bầu trời, rừng rú u tối thở ra tiếng rên rỉ như có như không.

Trầm Trác Sơn quấn xích quanh bắp tay để nó không phát ra tiếng động khi di chuyển, đao kẹp vào nách. Hắn đã đánh ký hiệu lên thân cây phác ra con đường lên núi, dù thừa biết đây là cái hố nhưng hắn vẫn nhảy vào, bằng không sẽ chẳng bao giờ biết được chân tướng năm xưa.

Trầm Trác Sơn đã tìm kiếm nơi gọi là 'chốn cũ' trong di ngôn Tống thúc đề bút cho cha mình* phía sau bức tranh thủy mạc, ở đó hắn tìm được một bí kíp tên là Phượng hoàng niết bàn, dục hỏa trùng sinh. Nghe quen không? Đó chính là công phu giúp con quạ đen Ô Dạ Đề khôi phục võ công bị phế*.

* Chương 44. Chương 49.

Thật hổ thẹn khi hắn chưa từng hiểu thân phụ của mình, thuở nhỏ ông ấy thường xuyên đưa hắn tới chỗ Tống thúc rồi biến mất, sẩm tối mới đón về. Tiểu Trác Sơn ngày nào cũng nhìn Xuân Phong và Ỷ La quấn quýt bên Tống thúc, thật sự rất tủi thân, cảm thấy cha chẳng thương mình, mầm mống khúc mắc của hắn với cha bắt đầu từ đó. Sau khi mẹ mất, Trác Sơn thực sự nổi cáu với ông, càng lớn càng xa cách nhưng hắn chỉ thấy sự thất bại của cha mà không nhìn vào hoàn cảnh và mọi nỗ lực của ông.

Đó là Trầm Trác Sơn trước hai mươi tuổi. Sau tuổi hai mươi và khi nàng vợ trẻ mất, hắn mới bắt đầu thấu hiểu cảm giác của người cha mình từng xa lánh.

Sống ở đời, muốn vẹn cả đôi đường là chuyện rất khó.

Tống Sơ Huyền vì cứu ông ấy mà mất võ công, cả cha lẫn mẹ hắn đều biết ơn, hai người gửi hắn cho Tống thúc để tìm cách chữa trị cho ân nhân. Khi mẹ hắn bị bắt cóc và Tống thúc gặp truy sát, cha không chỉ phải đối diện với câu hỏi: 'cứu vợ hay cứu bạn?' mà còn phải lựa chọn: 'cứu mẹ hay cứu con?'. Hoàn cảnh của ông ấy thật mẹ nó khốn nạn!

Mà hắn quả là một thằng nghịch tử bất hiếu, chưa từng thấu hiểu cho cha. Người đã nuôi dạy hắn chưa từng nói hắn phải thông cảm cho cha; đã che mắt bịt tai hắn khỏi tất cả ân oán năm xưa; là vị sư tổ hắn hằng kính yêu - Xích trưởng lão.

Ánh hoàng hôn sứt sẹo sau lớp lớp tán cây đen đúa, sắc cạnh. Mùi ẩm của đất, mùi lá rụng phân hủy, mùi hôi thối của Thi cổ; tiếng côn trùng ra rả, tiếng cành gỗ đứt gãy, tiếng lá khô vụn vỡ... tất cả hòa trộn lại trong khung cảnh âm u của rừng già. Những cái bóng người vật vờ như cô hồn dã quỷ.

Đi mãi, đi mãi, Trầm Trác Sơn phát hiện mình trúng chiêu, bàn tay hắn đang áp vào một ký hiệu khắc sai đã chạm qua hai lần - tức hắn đã đi lòng vòng ba vòng lớn. Hắn cau mày ngồi xổm trên cành cây, nắm chuôi đao, vừa vân vê hình khắc vừa động não coi trò này chơi thế nào. Thử khắc ký hiệu mới rồi đi tiếp, hắn vẫn vòng về chỗ cũ.

Thấy não của mình xài không được, nghĩ bụng trúng chiêu thì kẻ địch đường nào chả phát hiện ra ta, Trầm Trác Sơn rút đao, trực tiếp chặt gãy từng khúc cây to làm dấu đường. Thế mà có tác dụng thiệt. Cách lối thoát ba trượng, đột ngột từ bên phải phóng ra một sợi dây xích quấn lấy cánh tay Trầm Trác Sơn, sức lực mạnh mẽ theo đó vật hắn sấp mặt cạp đất.

"Ai?" Trầm Trác Sơn nhổ đất ra, bất ngờ nhiều hơn là khiếp sợ. Đối phương chẳng lãng phí thời gian, dây xích đánh ra muốn siết cổ hắn, Trầm Trác Sơn lập tức bẩy người lên như cá mắc cạn, hai chân kẹp chặt lấy dây xích, đao từ tay phải đổi sang tay trái, hỏi lại: "Ai!"

Đối phương khuất sau tán lá, khuôn mặt chìm trong bóng tối. Trầm Trác Sơn lắt léo tròng xích vào xích của y, mũi đao xoay ngược, gót chân dẫm xuống, bật nhảy về phía trước. Giữa hư không, mũi đao móc vào dây xích sát đất, mượn điểm tựa đó, hắn vung tay ném cả hai sợi xích của mình và y ra, đồng thời giật đao lôi người kia lại.

Y cử động cực nhanh, bật lên, duỗi lưng xoay chuyển giữa hai sợi xích, nương sức kéo của hắn rút đao chém phủ đầu. Keng! Khớp xương Trầm Trác Sơn kêu than. Đối thủ rất mạnh, từng nhát chém xuống đều chấn động cốt tủy, đao khí cuồn cuộn như lốc, đã tung ra hơn trăm chiêu mà khí thế vẫn hừng hực. Trác Sơn thấy mình như kẻ trần mắt thịt muốn ngăn chặn núi lở, mỗi chiêu đều phải gồng lên đỡ lấy đá tảng lăn xuống. Hai sợi xích ném ra, uốn lượn, va đập tóe lửa, rin rít thét gào như hai con rồng sắt cắn nhau, lá cây xào xạc rúng động rừng già.

"Các hạ rốt cuộc là ai? Làm sao biết đao pháp của bổn phái?" Trầm Trác Sơn ương ngạnh phản chiến.

Đối phương hé răng, nếp nhăn trên sống mũi và khóe miệng lộ ra rõ ràng: "Ta biết sư tổ của ngươi ở đâu."

"Sao?"

Không biết y dùng cách nào để biến âm nghe rất quái dị: "Đi theo ta, trên đó không tốt lành. Người vốn không liên can thì đừng làm mình uổng mạng."

Dứt lời, y liền thu đao nhảy về sau. Trầm Trác Sơn định hỏi thì chợt - thân đao vừa khéo ở dưới ánh trăng mờ, thấy hình khắc trên đó, hắn chấn động, bàng hoàng đuổi theo. Tối nay trăng mờ gió dữ, Trầm Trác Sơn phát hiện có người theo đuôi bọn họ nhưng thấy người phía trước không nói gì nên cũng trầm mặc.

Đối phương dẫn hắn đến một hang núi, đi vào trong lại thấy một cái hang nữa nằm sát mặt đất, cửa hang được phủ cành cây ngụy trang. Hắn theo sau nhảy vào. Đối phương đứng đối diện với hắn, lột vải che ra, dưới ánh trăng nhạt nhòa, đúng là khuôn mặt người đã nuôi dạy hắn.

Trầm Trác Sơn bồi hồi siết chặt tay, khó khăn thốt ra: "Sư - tổ."

Xích trưởng lão cầm đá đánh lửa đốt đèn, lửa hồng thắp một quầng sáng vàng vọt giữa bọn họ. Trầm Trác Sơn nhìn người, lòng dần trấn tĩnh: "Sư tổ đã ở đây suốt thời gian qua sao?"

"Ừ."

"Các huynh đệ khác thì sao?"

"Một phần đã được giải thoát khỏi mỏ đá, phần còn lại sẽ do Thiếu Lâm tự và Cái Bang tiếp quản. Chuyện có liên quan đến triều đình nên để Thiếu Lâm ra mặt thì dễ giải quyết." Ngừng một lúc, Xích trưởng lão nói thêm: "Con đừng lo lắng, ta cam đoan là các đệ tử Đao Khách sẽ bình an."

Cả hai lâm vào trầm mặc. Trầm Trác Sơn đưa ra thanh đao Sơ Huyền, tâm thần bộn bề nhìn thẳng vào mắt người: "Đến giây phút này rồi, ngài không muốn cho con biết sự thật ư?"

Xích trưởng lão bình tĩnh nhìn lại hắn: "Con muốn biết gì?"

"Sư tổ rốt cuộc đã làm gì suốt thời gian qua?"

"Ta bày ra tình cảnh rơi vào tay giặc, thực chất ẩn mình ở nơi này, nội ứng ngoại hợp với Tịnh Bạch phương trượng và Diệp bang chủ, bằng mọi giá xóa sổ 'tàn dư hậu quả của loạn thế' và cánh tay họ Lý của Phó gia, khôi phục lại cốt khí giang hồ."

"Tại sao ngài không cho con biết?"

"Cho con biết?" Ánh mắt Xích trưởng lão đanh sắc, "Trác Sơn, con sẽ diễn kịch được sao? Con qua mắt được người họ Phó sao? Con sẽ chịu được cảnh huynh đệ chịu khổ hay sao? Ta đã nuôi lớn con, ta biết rõ con không thể ngồi yên nhìn bằng hữu chịu khổ. Con không làm được."

Con không làm được. Trầm Trác Sơn từng bị khiển trách đủ lời nặng nhẹ khi còn trẻ nhưng chưa bao giờ khó chịu bằng hiện tại nghe bốn chữ này. Trong ngực hắn như có cục nghẹn nhức nhối, căng tức, đốt ngón tay siết chặt đến trắng bệch, rốt cuộc bật thốt: "Con thì không làm được, còn cha con, cha con có biết gì không? Cha con biết hay không? Ông ấy cả đời luôn cố gắng sống không thẹn với lương tâm! Ông sẽ không ngồi yên nếu biết bằng hữu gặp nguy hiểm! Ông ấy tin tưởng ngài, ông ấy xem ngài như cha ruột của mình! Nhưng - nhưng, ngài cũng thế này với ông ấy phải không? Ngài ngăn cản ông, lừa gạt ông, che giấu ông, ngài cầm ông ấy lên rồi hạ xuống như một quân cờ! Tại sao ngài có thể thản nhiên nuôi dạy con mà không hàn gắn cha con con với nhau? Tại sao cha con con lại xa cách với nhau? Tại sao cha con con không thể như một cặp cha con bình thường? Tại sao con lại ngỗ nghịch với ông ấy như vậy? Ngài trả lời con đi!"

Trầm Trác Sơn nhớ đến lời của Tạ Lương Bích: "Là con trai cả, ta tự hào vì được phụ thân đặt kỳ vọng vào." Cha đặt tên hắn là Trác Sơn - nghĩa là 'tạc vào núi', ông kỳ vọng tương lai hắn sẽ làm nên tên tuổi. Ông có quyền kỳ vọng vì ông yêu thương hắn. Nhưng hắn lại được dạy dỗ với tâm thế coi nhẹ cha, Trầm Trác Sơn nghĩ kỹ rồi, hắn cũng từng nhiệt huyết tung hoành giống như cha, hắn cũng từng ôm hoài bão như cha.

Được cha đặt kỳ vọng vào là một niềm tự hào. Nếu như không gặp Tạ Lương Bích, chỉ sợ hắn cứ mãi bị sư tổ dắt mũi đi trong sương mù.

"Ta chỉ muốn tốt cho con." Xích trưởng lão khàn khàn giọng: "Nếu con nổi trội như cha con, con chắc chắn sẽ bị bọn Phó, Lý để mắt tới..."

Trầm Trác Sơn chua chát hặc: "Tốt cho con hay tốt cho ngài? Ngài thực sự muốn tốt cho con sao? Nếu ngài muốn tốt cho con thì tại sao không hàn gắn cha con con? Đó là vì ngài thấy cha con nổi trội nhưng lại quá chính trực nên làm rối kế hoạch của ngài chứ gì? Do đó ngài không cho phép con nổi trội như cha con chứ gì?"

Xích trưởng lão tránh né ánh mắt chất vấn của hắn, hai bả vai sụp xuống, thoáng chốc như già thêm mười tuổi: "Ta hổ thẹn với cha con con..."

"Ha..." Trầm Trác Sơn thở hổn hển, cười méo mó như khóc, tơ máu vằn trong tròng mắt.

"Đủ rồi." Một giọng nói khác từ phía trên vang lên, vừa quen thuộc vừa xa lạ, "Con muốn trách móc cũng đừng trút hết lên sư tổ của con. Ta mới là kẻ khơi mào mọi chuyện."

Người ấy nhảy xuống giữa bọn họ, mặt bị tóc dài che khuất, bàn tay đặt trên chuôi đao, xích sắt buông rũ kêu leng keng. Y chậm rãi đứng dậy, dung mạo mơ hồ hiện ra.

Trầm Trác Sơn đánh rơi hơi thở, giật bắn người kinh hãi: "Sao lại là sư đệ?"

Đó là Chung Ly Toái.

'Chung Ly Toái mặt lạnh' nở nụ cười ấm áp: "Tại sao ta không thể đóng giả làm sư đệ của con?"

Lời tác giả: Bạn đọc nhận ra chưa? Ngôi chùa trong Tiền kiếp chính là tiền thân của Thiếu Lâm tự đó.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play