Dãy lầu các phía sau núi là nơi ở của các đệ tử, Đường Thời được phân đến căn nhà tranh dưới cây đa lớn bên cạnh suối Mặc, đệ tử phụ trách xếp phòng cho y cười nói: "Ngươi đừng coi thường căn nhà tranh này, suối Mặc là căn nguyên tinh túy của Tẩy Mặc các chúng ta, mỗi khi chế tác quyển trục đều cần dùng mực nước trong dòng suối này. Phàm là nơi ở cạnh suối Mặc thì đều là chỗ tốt cả."
Dọc theo đường đi Đường Thời đã nhìn qua, chỗ ở của những người khác có vẻ cũng đều là nhà tranh hoặc nhà nhỏ trong rừng trúc, thỉnh thoảng cũng có người ở lầu cao, nhưng dù sao cũng không quan trọng.
Bây giờ có cho Đường Thời một tảng đá, y cũng có thể nằm vật ra ngủ luôn.
Đường Thời lập tức đáp lời: "Đa tạ sư huynh, xin hỏi sau khi gia nhập môn phái có điều gì cần chú ý không?"
"Ngươi vừa nhập môn, có lẽ cần học những tri thức về quyển trục cùng các đệ tử sơ cấp, sáng mai ngươi chỉ cần đi xuống dọc theo suối Mặc là được, có thấy toà đại điện cách đây không xa không? Lớp học ngày mai vừa vặn là lớp nhập môn, hình như người giảng chính là trưởng lão Chu Mạc Vấn, học hết buổi đầu tiên sẽ có người giới thiệu kỹ hơn cho ngươi, ta đảm bảo mọi người đều rất nhiệt tình."
Người anh em này cười ha ha vỗ bả vai Đường Thời, sau đó mới rời đi.
Đường Thời đứng lại dưới cây đa khổng lồ, ngẩng đầu nhìn lên, trăng sao trên trời đều bị tàng cây rộng lớn như một tán ô che phủ, khiến mọi thứ dường như đều trở nên tĩnh lặng.
Từ xưa cây đa đã được coi là một cây thành rừng*, chỉ một cây đa cổ thụ cao lớn này thôi đã khiến người ta cảm thấy như che trời chắn đất.
*Một cây thành rừng: cây đa cổ thụ thường có hệ thống cành và rễ rất phát triển, tán cây có thể rộng tới hàng ngàn m2, dưới tán cây có hàng ngàn rễ cái và rễ phụ, nên các cây đa lâu đời có thể trở thành 'một cây thành rừng'.
Căn nhà tranh kia ở ngay bên dưới cây đa, Đường Thời bước tới mở cửa ra, lại phát hiện cửa nhà được làm từ trúc, từng cây trúc thanh mảnh ghép lại thành một cánh cửa, quả thật có vài phần ý vị phong lưu như có như không của văn nhân nhã sĩ.
Dù không biết Trúc lâm thất hiền* là như thế nào, nhưng bây giờ Đường Thời lại có chút cảm giác học đòi văn vẻ kỳ quái như vậy — thật ra cũng có thể coi là thực sự phong nhã mà.
*Trúc lâm thất hiền: chỉ bảy người hiền sinh sống vào khoảng cuối nhà Ngụy đầu nhà Tấn, thường cùng nhau uống rượu ngâm thơ, đàm luận triết lý dưới rừng trúc.
Bên trong chỉ có một cái giường, một chiếc bàn vuông nhỏ gần cửa sổ cùng hai chén trà, tất cả đều sạch sẽ, có lẽ là mới quét dọn qua để Đường Thời tới ở.
Hiếm khi có một đêm không tu luyện, toàn thân Đường Thời vô cùng thư thái, y nằm trên giường cả đêm nhưng cũng không ngủ, đến tận hừng đông mới chợp mắt một chút, sau đó liền nghe thấy bên ngoài vang lên tiếng gõ chuông.
T đứng dậy đẩy cửa sổ ra, liền thấy xa xa là lầu chuông cao vút bên kia đỉnh núi, trên đó có người đang dùng một cây gỗ lớn đánh vào chuông đồng, ngay sau đó sóng âm cuồn cuộn vang lên, toàn bộ núi Chiêu Diêu đều được bao phủ trong tiếng chuông trong trẻo mà hùng hậu.
Những ngày tháng ở Tẩy Mặc các của Đường Thời cứ như vậy mà bắt đầu.
T dọc theo suối Mặc mà đi xuống núi, nước suối tuyền một màu đen, còn phảng phất mùi hương của mực, không biết được hình thành như thế nào, quả thật núi Chiêu Diêu này có lắm chuyện thần kỳ.
Ven đường có không ít người chào hỏi Đường Thời, tuy nhiên đám đệ tử này biết y mà y lại không quen họ, chỉ có thể xấu hổ cười cười, gọi một tiếng "Sư huynh sư tỷ".
Địa điểm học tập đích thật là một tòa đại điện, nhìn qua không khác nhiều so với Đường Mặc điện mà Đường Thời xem cuộn tranh trước đó.
Y đứng dưới tòa nhà nhìn lên, thấy dòng chữ trên bức hoành treo trước cửa ghi là "Bát Mặc điện"*, đây cũng là một cái tên đẹp, khí thế hay ý cảnh đều có đủ.
Y bước vào đại điện rồi đi vòng qua dãy bình phong, liền thấy bên trong là rất nhiều khu vực được tách riêng ra, người bên cạnh giải thích: "Bởi vì năng lực chế tác quyển trục của mọi người không đồng đều nên đẳng cấp lớp học cũng không giống nhau. Tẩy Mặc các chúng ta có một vị chưởng môn và hai vị trưởng lão, tuy nhiên bình thường mọi người đều quen gọi là tam đại trưởng lão, bởi trước khi chưởng môn đời trước tới Đại Hoang thì chưởng môn hiện tại vẫn còn là trưởng lão. Trước mắt chỉ có năm người là đệ tử nội môn, còn đệ tử ngoại môn đã có gần một ngàn người rồi."
Gần một ngàn — con số này khiến Đường Thời có hơi giật mình.
Người có dáng vóc gầy yếu này cũng là đệ tử ngoại môn, có thể dễ dàng nhận ra sự hài lòng đối với Tẩy Mặc các trong lời nói của hắn. Hắn nhận ra Đường Thời có vẻ nghi hoặc, liền phe phẩy ngón tay ra vẻ thần bí: "Chúng ta làm quyển trục thực ra cũng không khác gì luyện đan sư hay luyện khí sư, quyển trục cũng phân chia đẳng cấp — kỳ thực lại nói tiếp, ngành nghề của chúng ta hẳn phải gọi là Mặc sư."
"Vốn cũng không phải là Mặc sư, nhưng vì ảnh hưởng của Tẩy Mặc các càng lúc càng lớn, nên không còn mấy ai nhớ đến cái tên quê mùa ban đầu của ngành này, đó là — quyển trục sư."
Có người tiến đến từ phía sau, không ngờ lại là một người mặc đồ trắng.
Đường Thời sửng sốt một chút, cùng gã gầy gò bên cạnh chào hỏi: "Chào đại sư huynh."
Đỗ Sương Thiên gật đầu, liếc mắt nhìn Đường Thời rồi cười nói: "Tối hôm qua vừa thử bút mà hôm nay đã tới đi học, chắc là ngay cả bút cũng chưa chọn được đúng không, thôi thì học xong rồi chọn cũng được."
Câu này nhất định là nói Đường Thời rồi, y gật đầu nói: "Đa tạ đại sư huynh chỉ bảo."
"Ôi ôi ôi, mới sáng sớm mà đã đùa giỡn tiểu sư đệ, đúng là người già mà tâm không già nha." Bạch Ngọc từ phía sau lắc lắc lư lư dạt tới, tấm áo bào trắng vẽ đầy đá núi lởm chởm càng tô điểm vẻ lập dị của hắn. Toàn thân người này toát lên vẻ phóng khoáng tùy tiện, lại có sự thoải mái tự nhiên khó nói nên lời.
Đường Thời không biết hắn, chỉ nghe người bên cạnh nói "Chào tam sư huynh", y cũng liền nói theo.
Bạch Ngọc đi tới trước mặt Đường Thời, chỉ vào cái mũi của mình, cười híp mắt nói: "Tiểu sư đệ, ta tên là Bạch Ngọc, là người có tu vi Kim Đan kỳ duy nhất trong các đệ tử nội môn, thực ra dựa theo quy củ thì ta mới là đại sư huynh, đệ gọi một tiếng nghe thử xem nào?"
Đột nhiên có một bàn tay thon dài từ phía sau vỗ tới, đánh bật khuôn mặt tuấn tú của Bạch Ngọc ra, một nữ tử thanh tú hừ một cái, nói: "Tên đần không biết lớn nhỏ này, đệ mà cũng đòi làm đại sư huynh? Nếu đệ làm đại sư huynh thì chẳng phải là muốn ta gọi đệ là sư huynh sao? Tiểu tử này lá gan cũng to nhỉ."
Bạch Ngọc đáng thương lập tức ôm đầu kêu rên: "Nữ nhân chết bầm, cứ chờ đó, nếu có ngày ngươi biến thành đàn ông, nhất định ta sẽ đánh ngươi một trận ra trò!"
'Bốp' một tiếng, bắt đầu từ nữ tử thanh tú nọ, mọi người lao vào đánh hội đồng Bạch Ngọc.
Vì vậy, thân là tiểu sư đệ mới nhập môn của họ, Đường Thời đứng ở bên cạnh mặt không đổi sắc mà nhìn màn vây đánh này.
Cũng không phải, trận đánh sau đó đã phát triển thành ẩu đả lẫn lộn của toàn bộ nội môn.
Tam sư huynh Bạch Ngọc vừa nói xong câu kia liền bị nhị sư tỷ đè ra đánh, cả khuôn mặt tuấn tú đều bị đánh đến sưng lên, nhị sư tỷ còn vừa vung nắm tay vừa mắng: "Nhóc con chết tiệt này, dạy mà không nghe hả, đánh hắn!"
Nhìn các sư huynh nội môn từ phía sau lẳng lặng lại gần định thừa nước đục thả câu, Đường Thời đột nhiên cảm thấy có thứ gì trong lòng cứ như vậy mà vỡ tan tành.
Đỗ Sương Thiên tiến đến đục nước béo cò xong, mới vỗ vỗ bả vai Đường Thời: "Đệ cứ đi học đi, chỉ là phương thức giao lưu tình cảm giữa các sư huynh đệ thôi mà, đừng quá kinh ngạc."
Hình như bọn họ thực sự coi Đường Thời là đứa nhỏ ngây thơ ngốc nghếch vừa bước vào giới tu chân, hoàn toàn không nghĩ đến việc Đường Thời đã có tu vi sơ kỳ Trúc Cơ, lại càng không biết trước đây y đã trải qua những gì.
Mười mấy năm sống trước đó của Đường Thời quả thực khá buồn chán, nhưng chỉ trong vài tháng gần đây thôi, độ kịch tính sợ là rất nhiều người cả đời đều không so được.
E là không ai có thể ngờ được rằng kẻ đã có vài mạng của tu sĩ cấp cao trên tay lại tới Tẩy Mặc các nhỉ?
Cũng có thể là... biết, thế nhưng lại cố tình quên đi, hoặc có lẽ là căn bản không để tâm đến mấy chuyện như vậy.
Đường Thời chào một câu với Đỗ Sương Thiên rồi đi theo mọi người, dù sao hắn còn muốn đi học, nhìn mấy người này đánh lộn lẫn nhau cũng khá có tính giải trí, Đường Thời cũng rất hâm mộ thân phận đệ tử nội môn của họ, nhưng trong lòng y luôn có một ý nghĩ rất kiên định — y sớm muộn gì cũng sẽ trở thành đệ tử nội môn.
Đối với Tẩy Mặc các, có vẻ như nội môn hay ngoại môn cũng không có khoảng cách gì.
Bọn họ tiến vào một căn phòng cực lớn, bốn phía treo rất nhiều quyển trục, nhưng có thể nhìn ra được bút pháp không tốt cho lắm, không đạt đến cảnh giới của những quyển trục Đường Thời thấy trong Đường Mặc điện.
Y vừa phát hiện ra, giờ chính y cũng luôn treo từ 'cảnh giới' này trên miệng rồi.
"Ngồi xuống đi, vị trí này vừa mới xếp ra đó, ngươi là tiểu sư đệ, cho ngươi ngồi chính giữa." Gã gầy gò kia đột nhiên cao giọng hô lên với mọi người xung quanh, "Hôm nay tiểu sư đệ bắt đầu đến học ở lớp chúng ta, không ai được bắt nạt y đâu đó!"
"Oa, chào tiểu sư đệ."
"Ôi chà, nhìn gần càng thấy tiểu sư đệ thiệt là đẹp trai nha!"
"Tiểu sư đệ..."
Sự nhiệt tình của mọi người gần như khiến Đường Thời gánh không nổi.
Mãi đến lúc có tiếng chuông vang lên, thấy giờ học đã bắt đầu, Đường Thời mới ngồi xuống trước một chiếc bàn dài, đây là loại bàn gỗ sơn mài* đơn giản hình chữ nhật, đại khái mỗi chiếc dài bốn thước (1,33m), rộng một thước rưỡi (0,5m), trên mặt bàn bên tay phải đặt một cuộn giấy màu vàng nhạt hơi pha chút sắc xanh, cũng chính là một quyển trục đang được cuộn lại.
*Nguyên văn là "tất án", một loại bàn cổ của Trung Quốc, được làm bằng gỗ sơn mài, thường khá dài và thấp vừa tầm người ngồi bệt hoặc quỳ.
Đầu bàn là một nghiên mực màu đen nhìn khá bình thường, bên cạnh là một cây bút lông, bên tay trái là đồ chặn giấy làm bằng bạch ngọc, phía trước còn bày cả đồ rửa bút, nói chung là văn phòng tứ bảo* đều đầy đủ cả, trông chẳng hề giống môn phái tu chân chút nào, mà ngược lại giống như một... nơi ngâm thơ vẽ tranh.
*Văn phòng tứ bảo: bộ dụng cụ thư pháp hoặc vẽ tranh, 'tứ bảo' để chỉ bốn món chính là bút, nghiên, giấy và mực.
Quan sát kỹ càng bàn của mình xong, Đường Thời liền giương mắt nhìn những người xung quanh, thấy mỗi chiếc bàn đều bày những món đồ như vậy.
Gã gầy gò ngồi khá gần Đường Thời, lên tiếng giải thích: "Bởi vì tiến độ học tập của mọi người khác nhau nên sẽ được chia thành vài nhóm nhỏ, đây là cấp cơ sở, chờ ngươi lên đến cảnh giới tiếp theo là có thể tham gia các lớp học cấp cao hơn. Nhưng bất kể là trưởng lão hay là các sư huynh sư tỷ nội môn thì đều phải bắt đầu từ nơi này."
Đường Thời đã hiểu, phương thức giáo dục theo kiểu trường học, cũng tốt thôi.
Y bây giờ hẳn là mới đến trình độ mẫu giáo ha.
Sau khi tiếng chuông vang lên trong sảnh đường, trưởng lão Chu Mạc Vấn mà ngày đó Đường Thời được chứng kiến một màn vẽ hổ đi tới, trên người vẫn là tấm áo choàng có hình mãnh hổ sau lưng như ngày nào.
Sau khi ông dừng lại, câu nói đầu tiên chính là: "Hôm nay bài giảng của ta cũng như mọi khi, chỉ nói những điểm trụ cột nhất, những ai hôm trước không nghe kỹ có thể sẽ càng khó hiểu, ngày mai sẽ có một bài kiểm tra cho những người từng thử bút đến tầng thứ tư trở lên, ai làm tốt sẽ được chuyển tới lớp trình độ tiếp theo."
Mọi người không ai nói gì, đều chỉ im lặng lắng nghe.
Đường Thời nghe được trọng điểm — tầng thứ tư?
Tên tân binh như Đường Thời đến lúc đó cũng phải đi thi sao?
Y muốn hỏi, nhưng thấy Chu Mạc Vấn có vẻ đã chuẩn bị giảng bài, liền không nói gì thêm mà nghiêm túc lắng nghe.
"Đạo của quyển trục chính là tập hợp của rất nhiều học phái, từ bùa chú đến trận pháp, từ thư pháp đến hội họa, từ vẻ ngoài đến ý cảnh, không một môn nào là không có liên quan, vì thế tu hành đạo này nhất định vô cùng khó khăn gian khổ, hơn nữa còn không chắc có thể cho ngươi thực lực đánh khắp thiên hạ không đối thủ — đương nhiên, cũng không phải là không có ai có lực công kích cao, chưởng môn Tâm Mặc và đạo trưởng Thu Nhàn đã tới Đại Hoang các là hai trong số đó, trong nội môn hiện giờ, Đỗ sư huynh và Bạch sư huynh của các ngươi cũng coi như là hai trong số đó."
Lực công kích không cao sao?
Đường Thời lại không nghĩ như vậy, bởi vì Trùng Nhị bảo giám củay nghe cũng có vẻ là loại không có lực công kích cao, nhưng một khi có thể chân chính lợi dụng nó, hiệu quả mang lại là không thể tưởng tượng được.
Y không phản bác, chỉ lẳng lặng ngồi nghe.
Chu Mạc Vấn hiển nhiên có nghiên cứu sâu sắc đối với quyển trục, người có tu vi Kim Đan hậu kỳ như hắn có thể đứng ở một góc độ cao hơn mà đánh giá cái gọi là đạo của quyển trục.
"Chỉ có điều, vì sao một thứ không phổ biến như 'quyển trục' lại cũng có thể trở thành một loại đạo? Đồng thời còn vì thế mà sinh ra một ngành nghề mới là 'Mặc sư'? Đó là bởi vì, bất luận là đạo nào, chỉ cần ngươi đã chọn, đồng thời kiên định mà đi tới, ngươi sẽ phát hiện ra, bất cứ đạo nào đi tới cực hạn, cũng sẽ trở thành đại đạo*."
*Đại đạo: nguồn gốc, chân nguyên của đạo, là bản thể muôn đời không hề biến dịch, mà các tôn giáo như Đạo giáo, Phật giáo... chỉ là hình thức, là biến thiên của nó.
Như 'Trùng Nhị bảo giám' của Đường Thời, nói trắng ra thì chính là 'lấy thơ nhập đạo', so với mấy loại khác như lấy kiếm nhập đạo thì có thể coi là đường ngách ngõ nhỏ, giờ y lại chọn con đường lấy thơ họa quyển trục nhập đạo, sợ là tìm khắp đại lục Linh Khu cũng không được ai chuyên đi cửa hẹp như hắn. Nhưng y lại chưa một lần hoài nghi liệu mình có thể đi tới đại đạo hay không.
Vạn vật trên đời này, nếu thực sự soi xét kỹ càng thì đều có một đạo lý đơn giản như nhau, trăm sông đổ về một biển, đây mới thật sự là đại đạo.
Từ giây phút chọn con đường này, Đường Thời chưa một lần hối hận.
Đoạn sau, Chu Mạc Vấn bắt đầu nói đến mấy chuyện đơn giản hơn, lúc đầu là nói vấn đề tổng quát, sau đó mới thật sự là các loại thao tác thực tiễn.
"Núi Chiêu Diêu của chúng ta có một vài thứ vô cùng nổi tiếng." Chu Mạc Vấn nhìn mọi người, vuốt râu mép, trong giọng nói mang theo vài phần đắc ý, "Vật đầu tiên là cỏ Chúc Dư. Cỏ này dạng như rau hẹ mà có hoa màu xanh, tên là Chúc Dư, ăn vào liền không đói."
Tay ông khẽ đảo một cái, liền giơ nhánh cỏ nhỏ màu xanh trong tay mình ra, ý bảo mọi người cùng nhìn, "Cỏ này mọc khắp trên núi, có điều tất cả linh thảo đều có các đẳng cấp khác nhau, cỏ Chúc Dư dựa theo số năm sinh trưởng và số phiến lá mà phân thành chín cấp, tương tự như các loại linh khí hay linh thảo khác."
"Chúc Dư chính là nguyên liệu tạo thành cuộn giấy màu vàng trên bàn các ngươi. Chúng ta nghiền cỏ thành bột, sau đó dựa theo phương pháp làm giấy mà khiến chúng trở thành giấy vẽ tranh. Giấy chế tác quyển trục của chúng ta thông thường đều là giấy Chúc Dư."
Chu Mạc Vấn mở cuộn giấy trên bàn của mình ra, chỉ vào hoa văn trên đó rồi nói, "Có điều Chúc Dư chính là linh thảo, dùng bút lông vẽ tranh trên loại giấy không thấm mực này khá khó khăn, vậy nên chúng ta mới cần vận dụng các loại bút pháp đặc thù. Mỗi loại bút pháp như thế nào, sau này các ngươi đều sẽ được học chi tiết, giờ chưa cần thiết phải nói cụ thể. Cũng không phải là không có những loại linh thảo khác có thể làm giấy vẽ, chỉ cần ngươi có thể tìm được nguyên liệu thì cứ thoải mái làm thử, chỉ là giấy vẽ thông dụng ở Tẩy Mặc các chúng ta là giấy Chúc Dư mà thôi."
"Linh thảo đẳng cấp khác nhau sẽ tạo ra giấy vẽ có đẳng cấp khác nhau, như những thứ trước mặt ta đây — quyển màu đỏ thẫm bên trái này là giấy Thiên Phong được làm từ lá cây Thiên Phong tam phẩm, quyển ở giữa chính là giấy Hoang Mộc làm từ cành cây Hoang Mộc nhị phẩm, còn bên phải là giấy Chúc Dư được tạo thành từ hoa Chúc Dư tứ phẩm, có điều cuộn giấy này là loại giấy có đẳng cấp cao nhất trong Tẩy Mặc các chúng ta, ngũ phẩm."
Ngũ phẩm? Không phải được làm từ hoa Chúc Dư tứ phẩm sao? Sao lại thành ngũ phẩm được?
Đường Thời nghi ngờ, có người hiểu được tại sao, cũng có người khó hiểu giống Đường Thời.
Vì thế Chu Mạc Vấn giải thích thêm: "Thực vật còn chia làm cành, lá, hoa hay quả, dù phương thức luyện chế giống nhau nhưng cũng có thể tạo ra phẩm cấp bất đồng, huống hồ tài nghệ của người chế tác cũng không đồng nhất. Thông thường quyển trục bày bán bên ngoài đều dùng giấy Chúc Dư nhị phẩm hoặc tam phẩm, đẳng cấp của giấy ngũ phẩm cũng giống như bây giờ các ngươi nhìn tu vi Độ Kiếp kỳ vậy."
Quả là cách vô cùng hình tượng để diễn tả đẳng cấp của ngũ phẩm, hiện tại Đường Thời cùng lắm cũng chỉ là một tu sĩ Trúc Cơ kỳ, ngay cả Kim Đan kỳ y còn phải ngưỡng mộ, càng không cần nói tới Độ Kiếp kỳ chỉ nâng tay liền có thể dời sông chuyển núi...
Chu Mạc Vấn lại giới thiệu rất nhiều thứ, Đường Thời ghi tạc đáy lòng từng thứ một, những nguyên lý sau đó cũng không khác nhiều lắm so với tưởng tượng của y.
Núi Chiêu Diêu ngoài cỏ Chúc Dư còn có cây Mê Cốc cũng rất hữu dụng, bởi đại đa số quyển trục đều mang theo một loại ảnh hưởng tựa như ảo cảnh mê hoặc tâm trí, mà Mê Cốc lại có công dụng 'mang trên người liền thanh tỉnh', không lo lạc đường cũng không sợ bị mê hoặc, vì vậy người cầm quyển trục chỉ cần để lại dấu ấn linh thức của mình trên trục giấy là không còn lo bị quyển trục của bản thân công kích hay mê hoặc.
Đã có giấy vẽ cùng hai thanh trục, vậy còn cần bút và mực nước nữa.
Bút vẽ cũng được chế luyện từ một số nguyên liệu đặc thù, có thể làm bằng gỗ, cũng có thể được chế tạo từ lông của linh thú, việc này tùy thuộc vào sở thích mỗi người, hơn nữa chế tác các loại quyển trục khác nhau có lẽ cũng cần những loại bút lông có thuộc tính bất đồng, vì thế trên cơ bản mỗi Mặc sư đều không chỉ có một cây bút, việc chọn bút cũng hoàn toàn là tự do của mỗi người.
Nhưng vẫn còn thứ quan trọng nhất*, mực nước.
*Nguyên văn là "trọng đầu hí", chỉ yếu tố hoặc công đoạn quan trọng nhất, mang tính chất quyết định thành bại của một hoạt động.
Khi vừa nhập môn Đường Thời đã biết nơi đây có suối Mặc, y vốn cho rằng đó chính là nơi lấy mực nước vẽ tranh, không ngờ nước suối chẳng qua là thứ mà đại đa số đệ tử dùng để luyện bút mà thôi.
Mực nước chân chính cần dùng để chế tác quyển trục, được làm từ quả Thất Châu.
Tên nào nghĩa đó, quả Thất Châu, mỗi một đóa hoa tạo thành bảy quả, cứ bảy quả kết thành một chùm, mỗi quả lại có màu sắc riêng biệt — đỏ cam vàng lục lam chàm tím. Ban đầu mọi người chỉ xem nó như một loại cảnh đẹp, sau này mới phát hiện ra rằng nếu nghiền nát những trái cây này rồi dùng phương pháp đặc thù xử lý một chút, nó sẽ trở thành một loại dung dịch có thể dễ dàng thẩm thấu vào mọi chất liệu giấy, quả thật là loại mực nước tuyệt hảo để vẽ tranh.
Nhưng Chu Mạc Vấn cũng đã nói, không có thứ gì là luôn luôn cố định.
Giấy vẽ có thể có vô vàn chất liệu, quả Thất Châu này cũng như vậy, luôn có thể dùng nguyên liệu khác để thay thế. Một Mặc sư cao cấp chân chính, dù trên tay chỉ có một cây bút gãy cùng một tấm giấy vụn, cũng có thể chế tạo ra quyển trục với trình độ vượt qua tưởng tượng của người thường.
Nói đơn giản hơn, đây là một nghề nghiệp mà người ta có thể tự do phát huy, nếu không muốn bảo thủ thì có thể tự đi tìm tòi những nguyên liệu thích hợp cho mình.
Nói xong mấy vấn đề cơ bản, Chu Mạc Vấn để mọi người thử cảm giác vẽ tranh trên giấy Chúc Dư.
Đường Thời cũng noi theo mọi người mà tự tay cầm bút, thân bút có lẽ được làm từ ngọc thạch, ngòi bút chắc là dùng lông chuột tạo thành, nhìn có vẻ rất mềm mại. Ngay trong khoảnh khắc ngón tay y chạm tới thân bút trơn láng nọ, hình vẽ đã yên lặng quá lâu trong lòng bàn tay phải của y rốt cục bắt đầu nóng rực lên.
Đường Thời giật mình, nhưng lúc này đang có rất nhiều người, nhìn mọi người xung quanh đều đang chăm chú vẽ tranh, Đường Thời nhịn không được nhẹ nhàng lật bàn tay của mình lên, liền thấy cả hình vẽ Phong Nguyệt thần bút đã biến thành màu xám bạc mờ mờ ảo ảo.
Nếu thứ này có công dụng giống như Trùng Nhị bảo giám, y càng không dám thí nghiệm luôn tại đây, chỉ có thể chịu đựng đến đi trở về.
Trong lòng Đường Thời vô cùng ngứa ngáy nhưng cũng chỉ có thể nhẫn nhịn, y mặc niệm tĩnh tâm chú mấy lần mới bình tĩnh lại, tập trung linh lực trong lòng bàn tay vào đầu ngón tay rồi từ đó thấm vào trong bút. Bấy giờ y mới phát hiện trên bút lông thế mà lại có một trận pháp nhỏ, có thể tự động chuyển hóa linh lực của Đường Thời đến ngòi bút.
Y trải một đoạn giấy Chúc Dư ra, chấm mực nước trong nghiên mực rồi nhẹ nhàng hạ một nét bút, ngay lập tức cảm nhận được linh lực ẩn chứa trong giấy Chúc Dư đang giao hòa với linh lực từ ngòi bút, khiến nét bút vốn thẳng tắp của Đường Thời lập tức chệnh choạng vì linh lực hỗn loạn.
Tình huống này... So với tình trạng khi thử bút trên vách Nghiên, quả thật là giống đến kinh người.
Trong đầu Đường Thời bật lên ý tưởng, liền đẩy linh lực của giấy Chúc Dư ở xung quanh ra, đồng thời thông qua bàn tay mà rót thêm linh lực khiến nét mực cứng cáp trở lại, lúc này mới có thể nghiêm nghiêm chỉnh chỉnh vẽ ra một nét.
Mới vẽ một nét trên giấy Chúc Dư đã trắc trở như vậy, còn nói chi đến vẽ tranh?
Chỉ một đạo quyển trục nhỏ bé này thôi, đã tự mang trong mình trời cao biển rộng.
Đường Thời cảm khái một chút, không để ý tới hình vẽ trong lòng bàn tay phải nữa, bắt đầu tựa vào bàn chăm chú luyện bút.
Chu Mạc Vấn đi qua đi lại trong phòng, một lúc sau vô tình đi qua trước bàn của Đường Thời, lại đột nhiên cảm thấy trong tay hắn dường như đáng có ánh sáng bạc nhàn nhạt lóe lên, nhìn kỹ lại thì lại không thấy gì, Đường Thời vẫn đang chuyên tâm thử bút trên giấy Chúc Dư như trước mà thôi.
Ông cúi đầu nhìn thử, thấy nét bút Đường Thời để lại trên đoạn giấy Chúc Dư thì thoả mãn gật gật đầu, quả nhiên là có thiên phú, chỉ là không biết cuối cùng y có thể đi được bao xa...
Đường Thời không biết Chu Mạc Vấn đã dừng lại bên cạnh mình trong chốc lát, đương nhiên y sẽ không bởi vì Chu Mạc Vấn dừng lại mà gián đoạn việc vẽ tranh, y cứ thế mà luyện tập, thấm thoắt đã tới giờ tan lớp.
"Hôm nay dừng ở đây thôi, ngày mai sẽ tiếp tục giảng bài, có điều những người vượt qua tầng thứ tư chiều mai phải ở lại, nhớ đừng có quên."
"Vâng, Chu trưởng lão."
Vì vậy mọi người bắt đầu thu dọn đồ trên bàn, rửa bút treo bút, xé phần giấy Chúc Dư mình đã dùng xuống rồi tự mang đi.
Đường Thời vừa bước ra khỏi cửa liền thấy có người đứng sẵn bên ngoài, nhìn rất quen mắt.
"Chà, tiểu sư đệ ra rồi à."
Tống Kỳ Hân đứng dựa vào cửa, nheo mắt nhìn về phía Đường Thời, "Chưởng môn bảo ta dẫn đệ đi lĩnh một số đồ cần dùng cho việc tu hành trong phái, đi theo ta nào."
Vị nhị sư tỷ này nói chuyện rất hoạt bát lanh lẹ, trong mắt tràn đầy vẻ sạch sẽ khoáng đạt, lại nhìn mực nước điểm thành từng đóa mai thắm trên người nàng, càng khiến người ta thấy rõ khí khái không tầm thường.
Đường Thời chân thành nói tiếng cảm ơn: "Đa tạ nhị sư tỷ."
Dưới ánh nhìn chăm chú của mọi người, Đường Thời theo Tống Kỳ Hân đi thẳng ra khỏi Bát Mặc điện, tiến về phía đỉnh núi.
Tống Kỳ Hân không hề để bụng y là người mới tới, ngược lại giọng điệu khi trò chuyện với y còn có vẻ rất hứng thú: "Tu vi của ta hiện tại cũng chỉ là trung kỳ Trúc Cơ, trước đây bởi vì vấn đề tư chất mà không bái nhập Bách Luyện đường, ngược lại tới Tẩy Mặc các, thật không ngờ lại phù hợp với đạo này. Nhìn đệ tuổi còn trẻ mà đã có tu vi sơ kỳ Trúc Cơ, dù là Bách Luyện đường hay là Dương Minh môn cũng đều có thể đón chào đệ, sao đệ lại chọn Tẩy Mặc các?"
"Ta chẳng qua là vì ngưỡng mộ hội ao Tẩy Mặc của Tẩy Mặc các nên mới tới đây, bản thân ta cũng không ngờ được lại đột nhiên có suy nghĩ muốn gia nhập trong đầu..."
Cảm giác này đến rất đột nhiên, nhưng Đường Thời dám cam đoan, đây là thật lòng.
Tống Kỳ Hân thật ra là dạng ngươi mặt như băng sương, nhưng khi nói chuyện lại rất hoạt bát, rất dễ khiến người khác thân cận.
Nàng nghe xong những lời của Đường Thời liền bật cười: "Nói như vậy thì đệ quả là người có duyên, nhưng đệ chọn Tẩy Mặc các có lẽ thực sự là lựa chọn đúng, ta thấy đệ rất có thiên phú... Chưởng môn cũng rất coi trọng đệ. Tòa nhà phía trước chính là Tàng Mặc lâu, lát nữa đệ vào tìm chủ quản lĩnh ba tầng đầu của tâm pháp 'Ấn Tuyên thập tam sách' trước, sau đó lên lầu hai lĩnh một ít hạt giống cỏ Chúc Dư và hai cây bút, cả hai cuộn giấy Chúc Dư nữa, sau này có thể dùng để tự luyện tập."
Chờ đã, lĩnh các loại đồ dùng kia Đường Thời còn hiểu được, nhưng tại sao...
Ngay cả hạt giống cỏ Chúc Dư cũng có thể lĩnh được?
Đường Thời nhíu mày muốn hỏi, Tống Kỳ Hân cũng đã nhìn ra y đang nghĩ gì, nàng nói: "Cỏ Chúc Dư trên núi Chiêu Diêu có nhiều hơn nữa cũng không chịu nổi việc bị hái trong trăm ngàn năm qua, chúng ta mà không trồng thì nhiều lắm hai năm nữa là trụi cả núi, chúng ta cũng không thể vì tu luyện mà tuyệt đường sống của người đến sau đúng không? Vì thế mỗi đệ tử vừa gia nhập đều được lĩnh hai bao hạt giống cỏ Chúc Dư, thứ này nếu trồng ở nơi có linh khí sung túc thì một tháng là có thể lớn thành nhị phẩm, tạm thời có thể để cho người mới nhập môn sử dụng, nếu may mắn còn có thể trồng ra tam phẩm. Đến khi đó còn có thể giữ giống tốt lại sau này dùng, khoảng chừng đến khi đệ lên tới Kim Đan kỳ là có thể có hạt giống tam phẩm rồi."
Đạo lý này, thật ra cũng khá là khiến người tỉnh ngộ.
Đường Thời gật đầu biểu thị mình đã hiểu, sau đó ngẩng đầu nhìn về phía tòa nhà to lớn hiếm hoi trước mắt, ước chừng có bảy tầng, sau khi y đi vào liền thấy một người có vẻ là chủ quản, người nọ nhận ra y, liền hô một tiếng: "Ngươi là tiểu sư đệ vừa vào cửa hôm qua phải không? Ta chuẩn bị đầy đủ cho ngươi rồi đó, tự lấy rồi đăng ký một cái tên là được, đúng rồi, bây giờ ngươi đang ở sơ kỳ Trúc Cơ đúng không? Để ta ghi lại cho ngươi."
Thực sự là nhiệt tình ngoài sức tưởng tượng, trong ấn tượng của Đường Thời, những người này ai cũng mang bộ dáng con buôn, nhưng sư huynh trước mắt này lại khá thân thiện.
Đường Thời mỉm cười, mang theo vài phần mất tự nhiên như một đại hài tử: "Đa tạ sư huynh quan tâm."
Người chủ quản kia nói: "Ta tên là Chương Uyên, sau này chúng ta còn có thể gặp nhau rất nhiều lần, ngươi vừa mới nhập môn, còn rất nhiều chuyện phải lo, cứ đi đi."
Hắn nâng bút, viết xuống mấy chữ rồng bay phượng múa trên cuốn sổ, đại khái là đang đăng ký giúp Đường Thời.
Đường Thời lĩnh một túi trữ đồ nho nhỏ, dưới góc phải có một hình vẽ quyển trục đan chéo với bút lông, có lẽ là biểu tượng của Tẩy Mặc các.
Không biết vì sao, trong nháy mắt nhìn thấy biểu tượng này, cảm giác xúc động kỳ quái kia lại nổi lên.
Tống Kỳ Hân đợi ở bên ngoài, nhét một cây bút cho hắn, "Tẩy Mặc các chúng ta không giống các môn phái khác, chúng ta là người một nhà, ngươi phá kỷ lục của tên tiểu tiện nhân Bạch Ngọc kia, sư tỷ coi trọng ngươi, cố kết đan sớm sớm chút để tiếp tục phá hỏng kỷ lục của hắn nha. Chúng ta đều coi trọng ngươi, đại sư huynh coi trọng ngươi, tứ sư đệ và ngũ sư đệ cũng coi trọng ngươi, ngàn vạn lần đừng để nhóc con Bạch Ngọc kia đắc ý lâu đó."
Năm người nội môn này, không ngờ lại...
Tình huống này gọi là ra đường thấy trò đùa văng đầy đất sao?
Cầm cây bút rõ ràng có phẩm cấp cao hơn mình tận hai bậc, Đường Thời có chút ngượng ngùng, "Sư tỷ, cái này — "
"Không cần phải từ chối, sau này ngươi vào nội môn phải nhớ kỹ ân tình của sư tỷ đó." Vẻ mặt Tống Kỳ Hân như đang dụ dỗ tiểu hài tử, lại vì khuôn mặt nàng đầy vẻ băng sương đến gần như thành mặt liệt mà biểu tình bày ra có vẻ khô khan và tê dại khác thường, trông rất tức cười.
Nàng vừa nói xong câu đó, đột nhiên có một bàn tay thò tới nắm cổ áo của Tống Kỳ Hân mà kéo ra.
"Đại sư huynh, huynh làm gì đó? Buông ta ra mau! Ta còn chưa nói xong với tiểu sư đệ mà!"
Đỗ Sương Thiên không thể nghi ngờ là người rất trầm ổn, nhưng nghe xong mấy lời lảm nhảm của Tống Kỳ Hân, rốt cục nhịn không được mà lạnh lùng nói: "Chưởng môn bảo ta tới giúp tiểu sư đệ lo liệu chuyện sau khi nhập môn, muội tới góp vui cái gì hả?"
Tống Kỳ Hân lập tức im thin thít, cả người đều rạp xuống đất, không dám nói một lời.
Đỗ Sương Thiên nắm cổ áo nàng mà tha đi, lúc sắp đi còn nói với Đường Thời: "Nhị sư tỷ của đệ là người như vậy đó, ngàn vạn lần đừng so đo với nàng."
Đường Thời: "..."
Đại sư huynh, sư tỷ bị huynh tha trên mặt đất, hình như rất khổ cực...
Tống Kỳ Hân khua khua hai tay trên đất, hung tợn hô: "Đỗ Sương Thiên, ta quyết định chống lưng cho tam sư đệ lên làm đại sư huynh! Ngươi quá bạo lực rồi đó! Kháng nghị!"
Nhưng không một ai để ý đến nàng, Đường Thời đứng tại chỗ, hóa đá thật lâu mới khôi phục bình thường.
Y nhịn không được mà bật cười, nhìn hai người phía trước dần khuất bóng, rồi theo suối Mặc chậm rãi đi tới nơi ở dưới cây đa lớn của mình.
Căn nhà tranh của y cách vách núi không xa, đi quá một chút là có thể nhìn thấy suối Mặc trở thành một dòng thác nhỏ màu đen tuôn xuống, xa xa dưới chân núi là ao Tẩy Mặc đang hắt lên từng đốm sáng đỏ rực dưới ánh nắng chiều, tựa như một khối mặc ngọc sáng bóng, gió nhẹ hiu hiu phất qua gợi lên lăn tăn sóng gợn.
Cả ngọn núi Chiêu Diêu hùng vĩ tráng lệ đều nhuốm mình trong sắc màu mờ ảo của hoàng hôn, một nửa ngoài sáng ngập trong ánh nắng rực rỡ của trời chiều, một nửa lại ẩn trong bóng tối mông lung tĩnh mịch.
"Tạo hóa chung thần tú, Âm dương cát hôn hiểu"* có lẽ chính là cảm giác này chăng?
*Dịch nghĩa là 'Tạo hoá hun đúc nét đẹp khí thiêng ở đó, Sườn núi bắc (âm) nam (dương) phân chia chiều sớm'. Đây là hai câu trong bài thơ 'Vọng nhạc' của Đỗ Phủ, câu 'Đãng hung sinh tằng vân' mà Đường Thời ngâm trong chương 43 cũng thuộc bài thơ này, có lẽ đây là bài thơ yêu thích của y.
Loại ranh giới mờ ảo mà lại rõ ràng giữa âm và dương này, quả thực là sự tráng lệ được thiên địa ban phát.
Đường Thời thở một hơi thật dài, đứng trên vách núi nhìn xong cảnh mặt trời lặn rồi mới đi vào căn nhà tranh của mình.
Y đốt sáng một ngọn đèn, mở hai bàn tay ra dưới ánh đèn ảm đạm, Trùng Nhị bảo giám trên tay trái vẫn như bình thường, mà hôm nay thứ Đường Thời muốn nghiên cứu cũng không phải nó, trọng điểm là Phong Nguyệt thần bút trên tay phải.
Thực ra chỉ xét từ cái tên đã có thể thấy hai hình vẽ này có liên hệ với nhau rồi.
Ý nghĩa của 'trùng nhị' chính là 'phong nguyệt vô biên', mà bút thì là 'Phong Nguyệt thần bút', Đường Thời từ lâu đã tin rằng sớm muộn cũng có ngày mình biết được bí mật của tay phải, chỉ là không ngờ phải chờ tới tận bây giờ.
Linh lực dẫn đến lòng bàn tay phải, vờn quanh hình vẽ Phong Nguyệt thần bút mà chậm rãi chuyển động, kích thích toàn bộ hình vẽ sống lại, trong chớp nhoáng này Đường Thời cảm thấy trong lòng bàn tay mình như có vật sống đang điên cuồng giãy dụa, lại có cảm giác như bị kim đâm, nhưng hắn không hề gián đoạn việc tập trung linh lực.
Quá trình này có thể nói là vô cùng thống khổ, sau khi giằng co nửa canh giờ cảm giác đau nhói này mới tan biến, mà hắn vẫn một mực chăm chú quan sát biến hóa trên lòng bàn tay.
Hình vẽ trên tay vẫn luôn tỏa sáng, màu sắc của ánh sáng ban đầu là màu vàng đồng, dần chuyển thành ánh bạc, rồi lại thành màu xám tro, không có quy luật nào đáng nói, nhưng về sau lại biến thành ba màu vàng đồng, xám bạc và đen mực, màu sắc vẫn luôn từ từ luân chuyển. Cuối cùng đến khi ngừng lại, hình vẽ Phong Nguyệt thần bút trong tay Đường Thời đã trở thành màu đen như mực.
Thế nhưng vẫn không hóa thành vật thực hay xuất hiện ảo giác như Trùng Nhị bảo giám.
Nhìn thế nào cũng vẫn là dáng vẻ kia, Đường Thời có chút bất đắc dĩ, chỉ có thể để bí ẩn này tiếp tục là bí mật, biết đâu vài ngày sau sẽ được bật mí.
Y đặt những thứ nhận được ngày hôm nay lên mặt bàn, đầu tiên là hai cây bút lĩnh được từ Tàng Mặc lâu, một cây làm từ ngọc, một cây làm bằng gỗ. Còn có một cây do sư tỷ Tống Kỳ Hân tặng, Đường Thời nghiên cứu một chút, không ngờ lại được làm từ sắt đen.
Hai cây bút lĩnh được đều có đánh dấu phẩm cấp trên thân bút, bút gỗ và bút ngọc đều là nhị phẩm, còn ký hiệu trên cây bút sắt biểu thị tam phẩm.
Nghĩ đến những lời nhị sư tỷ nói lúc bị đại sư huynh tha đi, Đường Thời lắc đầu cười cười.
Ngoài ba cây bút còn có năm miếng linh thạch hạ phẩm; hai quyển giấy Chúc Dư, một quyển nhất phẩm, một quyển nhị phẩm; hai cái nghiên mực, cũng một nhất phẩm một nhị phẩm; cuối cùng còn có một chiếc nhẫn màu đen, mặt ngoài có khắc biểu tượng giống trên túi trữ đồ, mặt trong còn khắc dòng chữ "Đại đệ tử đời ba bảy Đường Thời", xem ra đây chính là vật thay thế có tác dụng như lệnh bài thân phận.
Đường Thời đeo nhẫn lên ngón trỏ, vừa động ngón tay, linh lực cũng tự nhiên mà chuyển tới, mới phát hiện trong nháy mắt này một màn ánh sáng đột nhiên bật ra từ chiếc nhẫn màu đen, không ngờ lại là một lồng bảo hộ. Thứ này không chỉ tương đương với lệnh bài thân phận, mà còn là một pháp khí phòng ngự!
Đường Thời ngây ngẩn cả người, căn bản không ngờ được Tẩy Mặc các lại đại gia như vậy — từ trước đến nay pháp bảo phòng ngự luôn quý giá hơn loại có tính công kích, tâm tư cần hao tổn để duy trì cũng nhiều hơn, có lẽ là mơ hồ phù hợp với định lý phá hoại luôn dễ hơn bảo vệ. Phàm là pháp bảo phòng ngự đều có thể bán với giá cao hơn pháp bảo công kích, sư môn vậy mà lại thẳng tay phân phát pháp khí phòng ngự? Dù chỉ là một pháp khí nhất phẩm cũng rất tốn linh thạch đó...
Sau đó lại ngẫm nghĩ một chút, Đường Thời liền biết nguyên nhân, bởi vì lực công kích của các Mặc sư Tẩy Mặc các thường rất yếu, tu vi nói chung cũng chỉ thể hiện ở khả năng chế tác quyển trục, không thể so được với các môn phái tu chân đích thực, vì vậy nắm giữ một pháp bảo phòng ngự hiển nhiên là lựa chọn tốt nhất.
Đường Thời thu lồng bảo hộ lại, nhưng không tháo nhẫn xuống mà chỉ khóa nó lại trên ngón tay mình, sau đó nhìn về phía hai bao hạt giống cuối cùng.
Bao lớn là hạt giống cỏ Chúc Dư, còn bao nhỏ là hạt giống quả Thất Châu.
Quả Thất Châu tương đối trân quý nên hạt giống cũng không nhiều, hạt Chúc Dư mà Đường Thời nhận được là nhị phẩm, còn hạt Thất Châu chỉ là nhất phẩm.
Y suy nghĩ một lát, cầm hai bao hạt giống bước ra khỏi nhà tranh, đi tới sườn núi nhỏ được tán cây rộng lớn của cây đa cổ thụ bao trùm, nơi này có một mảnh linh điền bỏ trống.
Đường Thời đứng ở nơi này, lại nhớ tới vườn rau cùng những ngày đã qua, hắn cong khóe môi, lại cũng không nói gì. Thấy trên mặt đất có một ít cỏ dại, hắn liền khom người xuống nhổ sạch, nhìn đất khá tơi xốp, lúc này mới rải hạt giống lên mảnh linh điền dài rộng chừng mười trượng (33,33m) này.
Nơi này linh khí sung túc, hạt giống cỏ Chúc Dư vừa rơi xuống liền mọc rễ, vững vàng cắm trên mặt đất.
Hạt giống này có màu đen, nhỏ như hạt vừng, Đường Thời mới chỉ rải một phần ba số hạt trong bao cũng đã chiếm hết hai phần ba linh điền, còn lại một phần ba để dành cho quả Thất Châu.
Hạt giống quả Thất Châu không nhỏ như hạt Chúc Dư mà lớn cỡ một viên trân châu nhỏ, Đường Thời đếm qua thì thấy trong bao có một trăm ba mươi hạt. Dựa theo kinh nghiệm trồng rau nhiều năm tại vườn rau của Thiên Hải sơn, Đường Thời quyết định cách mỗi ba thước (1m) thả một hạt, bởi vì trước đó ở Bát Mặc điện, Chu Mạc Vấn có nói cây Thất Châu sẽ khá lớn.
Dựa theo tính toán của y, phần đất còn thừa có thể trồng ba trăm ba mươi hạt giống, có điều trong tay y lại không có nhiều như vậy, để bảo hiểm, y phân khảng cách giữa mỗi hạt càng xa, cứ thế mà gieo một trăm hạt trong tổng số một trăm ba mươi hạt xuống.
Sau khi làm xong, theo thói quen y liền sử dụng luôn Tiểu Tụ Linh Thủ, kéo linh khí xung quanh tụ tập lại, chỉ là Đường Thời căn bản không ngờ được —
Y chỉ lật tay một cái như vậy, liền thấy linh lực trong khoảng hơn một trượng tụ thành sương trắng rơi xuống linh điền, nhanh chóng tẩm bổ cho hạt giống cỏ Chúc Dư cùng quả Thất Châu vừa mới mọc rễ phía dưới.
Sau khi tiến vào Trúc Cơ kỳ y chưa từng dùng lại Tiểu Tụ Linh Thủ, thật không ngờ bây giờ lại có hiệu quả tốt như vậy.
Tuy nhiên — cũng có thể là do linh khí tại Tẩy Mặc các dồi dào hơn bình thường.
Thời gian sinh trưởng của cỏ Chúc Dư là một tháng, quả Thất Châu là ba tháng, Đường Thời dự tính phải đợi khá lâu, còn chậm hơn cả rau xanh trong vườn rau trước kia nữa.
Đường Thời đang khổ não vì vấn đề thời gian sinh trưởng, đến lúc sắp xoay người sang chỗ khác, y bỗng nhìn thoáng qua lòng bàn tay trái của mình.
Đường Thời dừng bước, mím môi, mở ra bàn tay ra, bốn phía yên lặng như tờ, xung quanh không có ai cả.
Trùng Nhị bảo giám đột nhiên xuất hiện trong tay Đường Thời, đôi môi hắn khép mở, phun ra vài chữ "Mẫn nông (nhị)", các trang giấy theo đó mà lật giở, cuối cùng dừng lại ở trang có bài thơ thứ bảy.
Y tập trung ý chí, nhắm mắt lại, liền cảm thấy mình đang đứng trên ruộng đồng vô biên, mùi bùn đất của vụ xuân phiêu đãng trong không khí, các nông dân đang vất vả cần cù canh tác, gieo hạt giống cùng mạ non vào trong lòng đất, những nếp nhăn in hằn trên gương mặt dường như cũng vì nghĩ đến mùa thu có thể thu hoạch tốt mà giãn ra —
"Xuân chủng nhất lạp túc, thu thu vạn khỏa tử — " (Ngày xuân gieo một hạt thóc, Mùa thu thu hoạch vạn hạt)