*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.Thấy vẻ mặt Lữ Xuyên là lạ, Vương Cẩm Quan bèn nắm một góc tờ giấy, nâng nó lên không trung, hỏi: “Thứ này có vấn đề gì sao?”
Lữ Xuyên giấu đi vẻ hoảng hốt, vẫy tay ý bảo Vương Cẩm Quan đưa tờ giấy cho mình.
Vương Cẩm Quan làm theo, Lữ Xuyên nhận lấy giấy rồi lật qua lật lại quan sát mấy lần, biểu cảm mới khôi phục lại bình thường, hắn chỉ vào bốn chữ viết ở góc mặt trái, cười khổ bảo: “Ta thu lại lời mình nói vừa rồi, vẫn có một ít manh mối, đây là mật ngữ, ta có thể giải được, cơ mà…… không biết giải có đúng hay không.”
Ngô Kim ghé sát lại gần nhìn, cảm thấy câu trên giấy này không mạch lạc cho lắm.
Vương Cẩm Quan vội đi vào trong phòng tìm giấy bút, bình tĩnh nói: “Dù không đúng thì cũng cứ giải ra trước đã, nào.”
Ba người mau chóng ngồi xuống bàn, Lữ Xuyên vừa nói vừa viết, thi thoảng lại ngẩng đầu liếc nhìn hai người: “Đây là mật ngữ trên bạc mà ta và đồng bọn thường dùng hồi ta còn làm việc dưới trướng thủ phụ. Trước đây tẩu tử từng quản lý hiệu cầm đồ, ắt hẳn cũng biết rằng khi ghi chép sổ sách, thường mọi người đều sẽ ghi là vào ngày mấy tháng mấy, số bạc vào hoặc ra là bao nhiêu lượng, đúng chứ?”
Vương Cẩm Quan nhíu mày, đăm chiêu nhìn Lữ Xuyên: “Vậy ý ngươi là bốn chữ này là chỉ ngày mấy, tháng mấy, mấy lượng bạc ư……”
Đang nói dở chữ “Ư”, nàng lại cảm thấy không đúng, tốc độ nói bất giác chậm lại, thầm suy ngẫm về bí mật ẩn giấu trong ba chữ “Mấy” kia.
Nếu như chỉ là ngày mấy tháng mấy và mấy lượng thì nó chẳng qua là một tờ ghi sổ thứ hai của hiệu bạc thôi, kẻ này vì không để lại sơ hở mà cất công ghi sổ cả trăm lần thì cũng dễ hiểu, cho nên mật ngữ mà Lữ Xuyên nói đến chắc chắn không chỉ có một tầng ý tứ này.
Nhưng bởi vì chưa từng tiếp xúc qua nên nàng không thể nghĩ ra ngay được, đành ngừng dòng suy nghĩ vô dụng này lại, lắc đầu nói: “Đúng vậy, không cần hỏi ta, ngươi cứ nói tiếp đi.”
Lữ Xuyên cười cười, trong mắt không giấu được vẻ tán thưởng: “Tỷ đoán đúng một nửa rồi đấy, mật ngữ này có hai tầng thông tin, trước tiên hãy nói về tầng thứ nhất.”
“Trong lĩnh vực ngân phiếu, mỗi hiệu bạc lớn đều có mật mã riêng dùng để ghi chép sổ sách, hiệu bạc này tên là Phong Bảo Long, trước đây ta chưa từng tiếp xúc qua, song vẫn hiểu được mật mã mà họ sử dụng. Bốn chữ này lần lượt là ám hiệu chỉ tháng, ngày, số tiền và câu đối.”
“Mật mã tương ứng với tháng mười hai là “Đề phòng ngân phiếu giả, đừng quên xem kỹ khoản mục”, bởi vậy chữ “Xem” chính là chỉ tháng mười hai.”
“Tương tự, mật mã của số ngày là “Cười chê thói đời bạc bẽo, đạo trời là công bằng nhất. Kẻ gian trá h@m muốn tư lợi, âm mưu hại người khác. Thiện ác ắt có quả báo, cuối cùng rồi sẽ rõ ràng”. “Âm” chính là biểu đạt ngày mười sáu.”
“Giá trị số tiền từ một đến mười, tương ứng là “Xem xét kỹ khách lạ, cân nhắc mà làm”, chữ “Mà” ở vị trí thứ tám, cho thấy ngân phiếu xuất ra từ đơn này không chỉ có một tờ, mà là tám ngàn lượng.”
“Cuối cùng ám hiệu của câu đối, “Kiểm tra chỗ gian trá, cử bảo vệ trông chừng”, chữ thứ tư ở vị trí thứ hai.”
“Cho nên giải ra tầng thông tin thứ nhất này chính là, ngày mười sáu tháng mười hai chuyển tám ngàn lượng, xác nhận.”
Ngô Kim nghe mà trố mắt ngoác mồm, tâm lý bất giác sinh ra áp lực, trí tuệ của kẻ đứng sau quả thực cao hơn hắn không chỉ một hai phần. Nếu đổi lại chính hắn là người chủ trì điều tra vụ án này thì chắc còn chẳng tìm ra được hướng mà tra ấy chứ, hắn đâm ra nhụt chí, rồi lại kích động nói: “Vậy tầng thứ hai thì sao?”
“Là chỉ thời gian và địa điểm gặp mặt.” Dứt lời, Lữ Xuyên cầm bút viết thoăn thoắt một hàng chữ.
Ngày mười sáu tháng mười hai, giờ Mùi khắc hai, hiệu bạc Phong Bảo Long.
Vương Cẩm Quan nhìn chăm chú một lát, rồi chẳng cần Lữ Xuyên giải thích, nàng đã tự ngộ ra được manh mối.
Chữ “Mà” ở vị trí thứ tám, canh giờ thứ tám trong ngày chính là giờ Mùi, chữ “Tra” ở vị thứ thứ hai, chính là khắc hai…… Như vậy liệu nàng có thể kết luận rằng, vào khoảng thời gian này, đáng lẽ gã đầu bếp giả kia phải đến hiệu bạc Phong Bảo Long để làm chuyện gì đó?
Ý nghĩ này vừa nảy ra, Vương Cẩm Quan liền vớ lấy bao tên bằng da kia rồi đứng lên, khóe môi cười như không cười, nói: “Đi thôi.”
——
Nói là phong thành, thế là đến cả một con ruồi cũng không lọt ra ngoài được. Song, tường thành và phòng thủ ở Nhiêu Lâm dù sao cũng không thực sự kín như bưng.
Tảng sáng hôm ấy, một đội ngũ đưa ma đi tới cổng Tây từ rất sớm, không đánh trống cũng chẳng gõ chiêng. Để tiện kiểm tra và không quấy rầy bách tính, đội đưa ma cũng không bố trí quá nhiều người.
Quan binh ở cổng thành tra xét cực kỳ cẩn thận, ngay cả hô hấp và mạch của người nằm trong quan tài cũng không bỏ qua, người nhà tuy thương xót và bất mãn nhưng vẫn phải cho kiểm tra. Pháp luật cũng là vì tình người, mỗi bên đều chịu lui một bước.
Vào lúc giữa trưa, đội đưa tang gồm chín người liền trở về. Đô úy ngồi xổm dưới đất kiểm tra gầm xe, rõ ràng nhìn thấy một người nhưng vẫn đứng lên làm như không phát hiện được gì, xua tay bảo với thuộc hạ: “Cho đi.”
Kẻ dưới gầm xe quấn mình trong lớp vải có màu gần như màu gỗ, đội khăn trùm che kín mặt, chỉ để lộ đôi mắt ra ngoài. Bởi thế không biết có phải kẻ nọ đang cười vì đã đạt được mục đích hay chăng, chỉ có thể thấp thấp thoáng cạnh mắt trái có nửa vết bớt tim tím.
Bạch Kiến Quân đi theo Lữ Xuyên tới Nhiêu Lâm, cả hai chỉ cách nhau thời gian một bữa cơm nhạt, tuy nhiên Lữ Xuyên có thể thoải mái băng qua tường thành, còn ông ta thì phải phí công tốn sức.
Phòng thủ của thành Nhiêu Lâm quả thực nghiêm ngặt hơn trước kia rất nhiều, Bạch Kiến Quân đút lót không thành, đành phải tìm đến một người quen.
Đô úy kia là con trai của vị chưởng quỹ kế tiếp của Khoái Tai môn, mặc dù không quen biết ông ta nhưng chắc chắn phải biết chiếc quạt xương đen của môn chủ, cho nên biện pháp qua cổng này là do đô úy nghĩ ra.
Xe ngựa tiến vào trong thành trót lọt, Bạch Kiến Quân nấp gọn dưới gầm xe như một con thạch sùng, lại còn nhàn nhã quan sát thấy bên dưới bức tường chữ bát có hai người đang bàn tán gì đó về “hạt sen” và “năm trăm lạng”.
Mấy người kia mồm năm miệng mười, hơn nữa từ lúc vào thành tốc độ của xe ngựa cũng nhanh hơn, tiếng vó ngựa “Lộc cộc” cứ oang oang bên màng nhĩ, nên chừng sau một nén nhang, xe ngựa quẹo vào một hẻm nhỏ rồi đi sâu vào trong thì tiếng huyên náo mới dần tắt.
Bạch Kiến Quân âm thầm xuống tại một ngã ba, lăn hai vòng là đã tiến vào một con hẻm khác. Ông ta đứng dậy cởi lớp vải bố ra, thuần thục xếp thành một cái túi rồi khoác lên vai, sau đó nghênh ngang đi ra ngoài.
(Loại túi nhắc tới ở đây là loại túi dài có hai đầu đựng được đồ, to thì có thể vắt qua vai, nhỏ thì buộc quanh hông.)Lúc đi tới cửa quán trà trong chợ, Bạch Kiến Quân trông thấy cáo thị treo thưởng mà quan phủ dán. Người trong quán trà đang rảnh rỗi buôn chuyện rất hăng say, nói là đã có người nhận được thưởng của quan phủ và rời đi rồi, thật là đáng ghen tị.
Bạch Kiến Quân cười cười, vẻ mặt chẳng có gì là bất ngờ.
Kẻ quản lý quan phủ Nhiêu Lâm bây giờ quả có chút thú vị đấy, thật biết cách thu thập sở trường của quần chúng, song cách quăng lưới rộng kiểu này mà dùng không tốt thì rất dễ gặp lừa đảo rồi khiến mọi thứ loạn hết cả lên, hi vọng những người này sẽ không thông minh quá rồi bị thông minh hại.
Ông ta tiếp tục rảo bước, băng qua phố lớn ngõ nhỏ, cuối cùng dừng lại ở một xưởng làm dây thừng có diện tích không lớn. Người trong xưởng có vẻ đã đợi sẵn, cửa vừa kêu là được kéo ra ngay, để lộ gương mặt tươi cười đằng sau cửa.
Đường sứ của Khoái Tai môn tại Nhiêu Lâm là một cô gái, ngoại hình hiền dịu, nhìn không đoán được tuổi tác, trên ống tay áo trái kẹp một loạt kim thêu, giọng nói nhu mì nhỏ nhẹ. Cô nàng cười bảo: “Ta đã nói là canh phòng nghiêm ngặt mà chưởng giáo cứ không tin, xem đi, quả nhiên bị chặn ở ngoài nhỉ.”
Bạch Kiến Quân không trả lời câu này, cũng không nhận khăn ấm mà cô nàng đã vắt sẵn, ông ta bưng tách trà lên, nhấp một hớp trà rồi hỏi: “Ta giao cho ngươi tìm người, đã tìm đến đâu rồi?”
Người mà ông ta muốn tìm không rõ họ tên là gì, đó là một nghệ nhân ông ta chỉ mới gặp một lần, cũng là người giữ chuông bách tuế – thứ mà tay quan sai Nhiêu Lâm tên là Lữ Xuyên kia đã lấy ra ở phân đường Phù Giang.
Bạch Kiến Quân đã tiện tay cho đi chiếc chuông ấy vào năm năm trước. Khi đó ông ta đang ngao du ở biên thành Tây Cương, tình cờ gặp được một người bán quạt có tay nghề tuyệt diệu, quạt hương bồ mà kẻ nọ bán ra đều có thể biến thành chiếc nỏ nhỏ. Thuở ấy thế đạo Tây Cương đương lúc loạn lạc, người ra khỏi biên cương đều nghĩ trăm phương ngàn kế để mang thêm nhiều vũ khí, thế nên thợ quạt cũng làm ăn khấm khá.
Bạch Kiến Quân thấy hiếu kỳ nên ngỏ lời mời chủ hàng quạt vào môn phái, thế mà kẻ nọ lại xua tay với ông ta, nhấc bút viết lên quạt rằng cảm tạ sự coi trọng của ông ta, song người nọ không có mong muốn ấy.
Nét chữ kia vừa cứng cáp vừa đẹp đẽ, mặt mũi chủ hàng quạt cũng nhẵn nhụi sáng sủa như văn nhân, ai ngờ lại không nói được.
Bạch Kiến Quân mua một chiếc quạt hương bồ, rất có hứng thú và hảo cảm với người đó, lúc ấy ông ta không mang theo tín vật gì, chỉ có một chiếc chuông bách tuế treo trên cổ ngựa, bèn cởi xuống đưa cho người trẻ tuổi kia.
Ông ta nói lỡ như người kia thay đổi ý định thì có thể mang chiếc chuông này đến bất cứ cửa hàng nào khắc hoa văn quạt để nhờ giúp đỡ.
Người kia kiên quyết từ chối, thế nhưng Bạch Kiến Quân đã quay người leo lên ngựa rồi.
Ấy vậy mà, bao năm qua, tất cả cửa hàng từ Nam chí Bắc đều không hề có tin tức về người nào mang chuông tới, dần dà chính Bạch Kiến Quân cũng quên mất chuyện này. Ông ta không ngờ thời khắc chuông bách tuế xuất hiện một lần nữa, lại là khi nó trở thành vật chứng của một vụ án lớn.
Nếu như người câm mà ông ta từng gặp gỡ thoáng qua ấy không tình cờ đánh mất chuông bách tuế, vậy thì kẻ nọ rất có thể là một người mang bí ẩn sâu xa.
Cho nên Bạch Kiến Quân mới tức tốc chạy tới đây, một phần nguyên nhân là do ông ta lo Khoái Tai môn sẽ bị liên lụy bởi bạch cốt án, còn mục đích cốt yếu của ông ta thì ba bốn mươi năm nay vẫn y vậy, chủ yếu vẫn là tò mò quá độ, muốn hóng trò vui.
Nữ đường sứ thấy ông ta chẳng thèm cảm kích thì cũng không làm trò lấy lòng nữa. Cô nàng lui hai bước rồi ngồi xuống một chiếc ghế thái sư khác, rút kim thêu đính trên tay áo ra, vừa xâu kim vừa nói: “Vẫn chưa tìm được. Theo lời ngài dặn, ta đã cho người vẽ tranh rồi, từ khu ổ chuột tới phố đèn đỏ, nơi nào có thể nghĩ tới thì ta đều sai người đi nghe ngóng cả, người câm có không ít nhưng chẳng ai phù hợp với điều kiện hết.”
Bạch Kiến Quân uống trà rồi tự vắt khăn đắp lên mặt, giọng nói lọt ra từ sau lớp khăn: “Vậy tiếp tục tìm đi, thời gian này nếu trên đường có người bắn chín tiếng pháo thì cũng phải lập tức báo cho ta.”
“Vâng.” Nữ đường xâu kim xong, lại lấy đâu ra một cái túi thơm rồi bắt đầu thêu, cô nàng cúi đầu dở khóc dở cười: “Chưởng giáo à, nếu chúng ta có liên quan đến bạch cốt án thì phối hợp với quan phủ điều tra càng sớm mới thoát khỏi can hệ càng nhanh. Nhưng ta nghe Đường thúc nói là ngài còn đánh đố người ta nữa hả.”
“Trừ ngài và người của Thải Pháp môn, đến chúng ta cũng chẳng biết bí mật của sen nở trong lửa. Ngài bảo nhóm quan phủ đi đoán thì bọn họ có đoán đến nát óc cũng chưa chắc đã giải được, chẳng phải ngài đang đắc tội người ta hay sao?”
Thải Pháp môn là một trong ngũ môn thuộc thần tiên diễn thuật, tất cả ngón nghề đều nằm ở chỗ đạo cụ, là môn phái thần bí nhất trong giang hồ.
Bạch Kiến Quân vẫn còn đang ngửa mặt đắp khăn nóng, cất giọng thờ ơ: “Người không có bản lĩnh, đắc tội thì cứ đắc tội thôi. Nếu ngay cả chút thủ đoạn nho nhỏ như sen nở trong lửa mà quan phủ cũng không phá được, thì đến vụ án liên hoàn như bạch cốt hàm oan, bọn họ chắc chắn sẽ không thể phá được, ta không có hứng thú hợp tác với lũ bất tài.”
——
Sau Đỗ Thị Nhàn, việc Lữ Xuyên giải được ám hiệu trên tờ ngân phiếu, tuy chưa chắc đã chính xác, song vẫn cổ vũ tinh thần cho mọi người.
Đỗ Thị Nhàn vừa trở thành người yết bảng, lại chẳng quen biết ai, Lý Ý Lan liền ngầm bảo Tạ quận trưởng mời hắn qua phòng bên nhận thưởng.
Tri Tân hiểu ý, liền vội đứng dậy định rời đi, Lý Ý Lan há miệng định giữ y lại nhưng bất cẩn bị sặc, thế là ho khù khụ tối tăm mặt mũi.
Tất cả mọi người ngớ ra, vì sáng nay hắn mới vượt qua cửa ải sinh tử xong, Ký Thanh thật muốn mang Tri Tân – người am hiểu y thuật và cũng đã cứu mạng Lục ca của mình – đi buộc lên thắt lưng hắn luôn cho rồi, cậu chàng quơ tay loạn xạ: “Đại sư ơi đến đây đến đây, mau xem cho huynh ấy đi.”
Nghe Lý Ý Lan ho mà ngực Tri Tân quặn thắt lại, dù Ký Thanh không nói thì y cũng không định bỏ đi vào lúc quan trọng thế này. Y đi tới bắt mạch và thuận khí cho Lý Ý Lan, mà hắn còn chưa kịp đỡ hẳn, những người khác thấy tình huống chuyển biến tốt thì đã bắt đầu mồm năm miệng mười rồi.
Chỉ trong một ngày mà Giang Thu Bình nghe nói có hai tiến triển, y mừng rỡ cười tươi rói, vỗ lấy vỗ để cánh tay Lữ Xuyên, miệng thì hết lời khen ngợi hắn.
Ký Thanh cũng giả lả giơ ngón cái với Lữ Xuyên: “Xuyên ca, ta biết mà, huynh là người làm việc lớn.”
Sau đó Ngô Kim và Vương Kính Nguyên cũng thi nhau tâng bốc, Lữ Xuyên bị ngó lơ quen rồi, giờ tự dưng mọi người quan tâm ân cần thế làm hắn đâm ra bối rối, nhíu mày làm mặt rõ là hoài nghi.
Bầu không khí cũng lây đến Lý Ý Lan, hắn nhìn gã bạn cũ cao to mạnh mẽ ngày xưa giờ đứng luống cuống giữa đám người, bị người này vỗ một cái, người kia đẩy một cái, còn bị vây xem như con khỉ, thế mà tự dưng lòng hắn thấy thoải mái hơn như thể trả đũa được vậy. Cứ như có một số gánh nặng cứ đè nén bấy lâu, giờ bỗng dưng đều biến mất hết.
Trong phòng ầm ĩ nhặng xị hết cả lên, nhưng là ồn theo kiểu không khiến người ta nghét mà thậm chí còn muốn hùa vào đùa giỡn. Lý Ý Lan vui vẻ dựa vào đầu giường, cười một lúc rồi lại muốn xem Tri Tân đang làm gì, hắn bèn nhìn quanh, không ngờ Tri Tân cũng vừa mới dời tầm mắt, hai người bốn mắt nhìn nhau, trong ánh mắt đều là dáng vẻ đối phương đang nở nụ cười.
Tri Tân không phải người ăn nói quá giữ ý, ngược lại y còn khá dễ tính, dù chỉ vì lễ phép thôi thì khóe miệng y thường lúc nào cũng nhoẻn lên. Song Lý Ý Lan cảm thấy tất cả những khoảnh khắc trước kia dường như khác với giây phút hiện tại, hắn cảm tưởng như Tri Tân đang phát sáng, ánh mắt ôn hòa, bên trong chỉ có mình mình mà thôi ——
Có lẽ động lòng chính là cảm giác này đây, sẽ nhớ tới y, nhìn về phía y, hoặc chạm vào y mà chẳng vì lý do gì cả.
Bình thường ánh mắt chạm nhau một thoáng chốc là liền lướt qua, không cần phải nhìn nhau quá lâu. Nhưng Lý Ý Lan có gì đó bất thường, Tri Tân lấy làm lạ, người này cứ nhìn y chằm chằm mà chẳng nói năng gì, ánh mắt dường như chứa đựng rất nhiều cảm xúc, Tri Tân chẳng dám nhìn sâu vào ánh mắt hắn, y vội dời mắt đi, ngoảnh đầu sang chỗ khác.
Vụ án sừng sững như núi vẫn còn đang đè nặng trên đỉnh đầu, những tiếng cười đùa thoải mái chẳng kéo dài được lâu, mọi người nhanh chóng quay về đề tài chính. Hiện thời hạn mười sáu ngày vẫn còn hai ngày nữa, trọng điểm điều tra đang nằm ở Khoái Tai môn, mọi người suy xét nửa khắc rồi nhất trí quyết định đi ra ngoài cổng bắn pháo.
Vương Cẩm Quan vốn không đồng ý để Lý Ý Lan ra ngoài, nhưng hắn nóng lòng muốn ra xem diễn biến tiếp theo, bèn ghé vào bên tai Tri Tân thủ thỉ nhờ Tri Tân giúp mình thuyết phục đại tẩu.
Lỗ tai Tri Tân bị hắn phả vào chẳng biết bao nhiêu hơi thở, vừa nóng vừa nhột, né cũng chẳng né nổi, cuối cùng chẳng biết bởi vì y không tránh nổi sự tập kích của Lý Ý Lan hay vì thấy vui mừng cho hắn, cho nên đã đứng ra làm thuyết khách thay cho hắn.
Vương Cẩm Quan hết mực tín nhiệm Tri Tân, thấy y đã nói Lý Ý Lan ra ngoài không sao thì nàng cũng không quản nữa. Tuy nhiên để cho an toàn, nàng vẫn nhờ Tri Tân đi theo một chuyến.
Một canh giờ sau, Lý Ý Lan khoác áo trùm mũ đứng ở ven đường, nhìn Ký Thanh đốt nhang châm lửa một hàng pháo tại thời gian và địa điểm không chính xác.
Chín tiếng nổ liên tiếp vang lên ở khu phố lớn, tiếng động inh tai nhức óc, đủ gây náo động một nửa thành Nhiêu Lâm.
Ký Thanh đứng giữa đám đông đang xúm lại gần, cậu chàng vẩy vẩy mớ nhang chưa cháy hết, vừa nhìn đồng bạn mình vừa nói: “Bắn pháo xong rồi, bao nhiêu người túm tụm lại xem, nhưng ai mới là người của Khoái Tai môn đây?”
Giang Thu Bình ra vẻ cơ trí: “Cứ chờ xem sao, đáp án cũng đâu phải là bắn chín tiếng pháo, rồi đối phương sẽ liên hệ với chúng ta thôi.”
Sau câu nói này, chưa tới thời gian một chén trà, mọi người liền nghe thấy gần đó vang lên tiếng đàn ông ho khan, nhưng tìm khắp nơi chẳng thấy, cuối cùng Lý Ý Lan bỗng ngồi xổm xuống dưới đất.
Sứ giả của Khoái Tai hết sức độc đáo, đó là một…… con cóc có tiếng kêu hệt như tiếng người ho khan.
Nó nằm sấp cách trước mặt mọi người không xa, bụng thở phập phồng, trên lưng cột một tờ giấy được cuộn thành ống.
“Oa,” Ký Thanh ngạc nhiên nói, “Bộ nó thành tinh hả? Hay thật ra nó là một con vẹt có hình dáng giống cóc?”