Hai mươi chín tháng tám năm Sùng Đức thứ sáu.

Chỉ mười hai ngày chiến đấu ngắn ngủi, quân Thanh đã giành được thắng lợi áp đảo, chém giết tổng cộng hơn năm vạn ba ngàn bảy trăm tám mươi kẻ địch của nhà Minh, thu được bảy ngàn bốn trăm bốn mươi bốn con ngựa, chín ngàn ba trăm bốn mươi sáu tấm giáp.

Mười bốn tháng hai năm Sùng Đức thứ tư, bắt đầu tiến sát đến phòng tuyến Tùng Cẩm, quân Thanh dự định sẽ từ nơi này đột phá Sơn Hải Quan, từ chỗ ấy tiến thẳng vào cửa ải rồi đi thẳng đến Bắc Kinh.

Từ trên cao ngắm về phía xa xa, chàng chắp hai tay sau lưng, đuôi chim đại bàng cắm trên mũ giáp phiêu phiêu bay lượn trong gió núi gào thét. Hộ lĩnh* bằng tơ lụa màu thạch xanh rũ xuống sau mũ bảo vệ lấy hai tai. Giáp đinh gấm vàng dán chặt vào người chàng, tôn lên vóc dáng cao lớn cùng vẻ kiêu ngạo ngất trời cùng khí thế bức người ấy.

*Hộ lĩnh là dải vải may đè lên tràng, áp vào mép vạt, cũng gọi là nẹp cổ, có tác dụng gia cố cho tràng áo.

“Hoàng thượng!”.

Một giọng nói khàn đặc như một viên ngọc chạm vào mặt đất phát ra tiếng kêu vang dội. Không cần quay đầu, chàng cũng biết là ai tới đây, vì thế cả người thoáng bất động, yên lặng chờ đợi.

“Hoàng thượng! Xin Hoàng thượng cho phép đệ trở về trông coi Thịnh Kinh!”.

Dần dần, bóng dáng dưới chiếc ô vàng cùng xoay lại, đôi mắt thâm thuý như một viên ngọc tước vọt từ tấm băng lạnh lẽo, chẳng hề mang lấy một tia ấm áp trói chặt lấy người hắn.

“Mặc dù đã đại thắng Tùng Sơn, dù quân chủ lực của nhà Minh ở Viện Cẩm đã bị diệt sạch, nhưng… vẫn chưa lấy được Tùng Sơn, cả Cẩm Châu và Hạnh Sơn vẫn còn nằm trong tay Đại Minh, ngày nào chưa phá được ba thành này, phòng tuyến tại Tùng Cẩm tuyệt đối không thể lỏng lẻo được. Thập tứ, vì sao đệ lại muốn trở về Thịnh Kinh vào thời khắc mấu chốt này?”.

“Hoàng thượng, binh lực Đại Thanh đều dốc hết sức đặt vào ven tuyến Tùng Cẩm này, Thịnh Kinh lại trống không… vì thế, đệ xin phép được thu binh về trông coi Thịnh Kinh”.

Bốn phía mênh mông, âm thanh rét run chẳng có lấy một tí hơi thở của người, qua một hồi lâu, âm thanh lạnh lẽo uy nghiêm ấy cuối cùng cũng thốt lên: “Cũng được, tuỳ ý đệ. Đệ với Hào Cách về chung đi”.

“Tuân chỉ!”.

Mồng hai tháng chín năm Sùng Đức thứ sáu, Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn cùng với Túc thân vương Hào Cách chia binh trở về trông giữ Thịnh Kinh.

Mồng tám tháng chín, Hoàng đế Đại Thanh lệnh cho đám người Trịnh thân vương Tế Nhĩ Cáp Lãng, Bối lặc Đỗ Độ và A Ba Thái dốc toàn lực vây quanh tấn công Cẩm Châu.

Mười hai tháng chín, phía Đông dần trắng xoá, Hoàng Thái Cực chậm rãi ra khỏi trướng tản bộ, không khí ngoài trướng có hơi mỏng manh, mặt trời thoắt ẩn thoắt hiện từ từ nhú lên khỏi đường chân trời, phía xa xa truyền đến tiếng đại bác inh ỏi, hoàn toàn làm cho buổi sớm tưởng chừng yên tĩnh càng trở nên xơ xác tiêu điều.

“Nhìn kìa!”. Ngón trỏ thon dài vẽ một đường cong tao nhã, chỉ thẳng về phía Sơn Hải Quan, “Chờ Cẩm Châu bị phá, Sơn Hải Quan nằm trong lòng bàn tay. Du Nhiên, nàng chờ nhé, không lâu nữa ta có thể đưa nàng đi ngắm phong cảnh Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh rồi!”. Hoàng đế nói đến một nửa thì đột nhiên im bặt, bật cười khe khẽ, “Ta khờ quá, quên mất lần này nàng đâu xuất chinh cùng ta”.

Chàng lấy từ trong ngực ra một cái túi thêu hoa, đưa lên môi nhẹ nhàng hôn, chân mày tràn đầy vẻ lưu luyến cùng ý cười khe khẽ.

Bỗng dưng, phía sau chợt trở nên xôn xao, Hoàng Thái Cực vốn còn đang chìm đắm trong nỗi nhớ vẫn còn chưa để ý nhiều, nhưng sự rối loạn đằng kia lại giống như một trận gió lốc mạnh mẽ đánh úp đến.

“Báo!”. Tiếng gào thét thê lương, trong cơn gió rét trở nên cao ngất mà quái dị, mang theo một trận khí lạnh khiến người ta sởn gai óc. “Báo! Thịnh Kinh cấp báo!”. Kẻ mới đến đang bị thị vệ ngăn lại, nhưng vẫn dốc tận sức giơ cao tín bài trong bàn tay, lớn tiếng kêu la, “Hoàng thượng, nô tài cấp báo! Thịnh Kinh cấp báo!”.

Chẳng biết vị Hoàng đế cao cao tại thượng ở phía xa ấy có nghe thấy không, người tới cứ quơ quơ tín bài, thét chói tai: “Nô tài là thị vệ của Duệ thân vương thuộc Tương Bạch kỳ, có chuyện quan trọng xin được gặp Hoàng thượng… Hoàng thượng! Hoàng thượng!”.

Hoàng Thái Cực thoáng nghiêng đầu sang, thật ra chàng đã thấy từ lâu rồi, hơn nữa cũng đã sớm chú ý đến người nọ đang mặc giáp trụ của Tương Bạch kỳ, trong tay còn đang giơ tín bài của phủ Duệ thân vương.

Duệ thân vương… Hoàng Thái Cực cười lạnh, Đa Nhĩ Cổn đã cầu xin, vậy càng không thể để đệ ta dễ dàng đạt được. Chàng lập tức làm bộ như chẳng hay biết, nghiêng đầu đi thấp giọng cười đùa với Đại học sĩ Hi Phúc và Cương Lâm.

“Hoàng thượng! Hoàng thượng ơi!”. Tiếng la thê lương chọc thẳng sang, một lần nữa truyền đến cả bốn phía, “Trước đó nô tài đã từng thề với Duệ thân vương, nhất định phải truyền cho được tin cấp báo này… Hoàng thượng! Hoàng thượng!”. Gã bị người ta giữ chặt, kéo lê trên mặt đất như một bao cát, “Đông Đại Phúc tấn… Quan Thư cung Thần phi bệnh tình nguy kịch! Thần phi bệnh tình nguy kịch!”.

Thần phi bệnh tình nguy kịch… Thần phi bệnh tình nguy kịch… Thần phi… bệnh tình nguy kịch…

Hoàng Thái Cực hoàn toàn biến sắc, sửng sốt đứng ngây người một lát mới đột ngột đẩy Cương Lâm trước mặt ra, sức lực mạnh đến mức suýt nữa đã làm ông ta té ngã.

“Buông hắn ra!”. Chàng bước thật nhanh đến, âm thanh rõ ràng đã run rẩy, “Ngươi nói lại lần nữa! Trẫm ra lệnh cho ngươi nói lại lần nữa!”.

Kẻ nọ giãy giụa khỏi vòng trói buộc, quỳ rạp xuống bên chân Hoàng Thái Cực, chưa mở miệng đã nghẹn ngào, “Hoàng thượng, Đông cung Quan Thư cung Đại Phúc tấn Thần phi bệnh tình nguy kịch…”.

“Chát!”. Một cái tát vang dội giáng vào mặt gã, Hoàng Thái Cực nổi trận lôi đình, “Ăn nói lung tung! Ngươi dám khi quân!”.

Một dòng máu đọng tại khoé miệng gã, nửa bên mặt đã sưng phù: “Hoàng… Hoàng thượng, nô tài không dám khi quân! Nhưng thật sự…”.

“Chát!”. Lại thêm một cái tát tàn nhẫn, âm thanh càng lúc càng run rẩy, “Tên nô tài gan chó này!”.

“Thần phi đã sắp không thể qua khỏi, nếu Hoàng thượng không tin, nô tài chỉ có thể lấy cái chết để chứng minh! Nô tài tuyệt đối không nói dối…”.

Xung quanh lặng như tờ, nô tài truyền tin quỳ rạp người, chẳng dám ngóc đầu lên, mà quân vương trước mặt cũng không đánh gã nữa, chỉ là bầu không khí xung quanh đột nhiên áp lực đến mức làm người ta run lẩy bẩy.

“Du Nhiên!”. Một tiếng gọi tan nát cõi lòng chợt phát ra, bóng dáng màu vàng đột nhiên lay động, Hoàng Thái Cực như đã phát điên xông ra ngoài.

Mười ba tháng chín năm Sùng Đức thứ sáu, Hoàng đế Đại Thanh lệnh cho đám người Đa Đạc và A Đạt Lễ phụ trách việc tấn công Tùng Sơn, lệnh cho đám Quận vương A Tế Cách dốc hết sức tấn công vào Hạnh Sơn, chỉ để lại một câu nói, “Xung quanh các chiến hào tại Cẩm Châu và Tùng Sơn có thể có người tuần tra, binh ta có thể cắt cây cỏ phía ngoài thành”. Sau khi ra chỉ dụ liền vội vã dẫn theo đám người Hi Phúc và Cương Lâm trở về Thịnh Kinh.

Suốt một đêm liền chạy như điên, Hoàng Thái Cực liên tục đổi hai con ngựa khoẻ “Đại Bạch” và “Tiểu Bạch” cho nhau, dường như chẳng hề dừng vó chạy thẳng về Thịnh Kinh.

Mười bảy tháng chín, đoàn người đến biên xưa để dừng chân nghỉ ngơi, chỉ còn cách Thịnh Kinh khoảng một trăm dặm.

Vào canh đầu tiên khi màn đêm buông xuống, Đa Nhĩ Cổn phía Thịnh Kinh lần thứ hai phái người thân tín của mình truyền báo tin, bệnh tình của Thần phi đã nặng thêm, đã đến hồi hấp hối.

Tim Hoàng Thái Cực nóng như lửa đốt lập tức phun ra một ngụm máu, bệnh cũ trước kia lại tái phát, máu mũi liên tục chảy ra. Đám người Hi Phúc khuyên chàng hãy nghỉ ngơi nhưng chàng không đồng ý, liều lĩnh yêu cầu nhổ trại ngay trong đêm, thái độ đầy quyết liệt.

Bởi vì máu mũi chảy không ngừng, chàng không thể giục ngựa chạy như điên nữa, đành phải hét ra lệnh cho đám người Hi Phúc đi trước.

Đã qua tiếng trống canh năm, trời hãy còn chưa tỏ, mà xa giá lòng như lửa đốt chạy nhanh đến Thịnh Kinh.

Vừa mới vào đến cổng thành đã trông thấy đám người Hi Phúc cúi đầu đứng tại đó, bước chân cứng đờ tiến lên đón, tràn đầy bi thương dập đầu hành lễ: “Xin Hoàng thượng hãy nén đau thương! Đông cung Quan Thư cung Đại Phúc tấn Thần phi đã… qua đời vào một canh giờ trước rồi!”.

“Rầm!”. Lời vẫn chưa dứt, thân mình Hoàng Thái Cực mềm nhũn từ trên ngựa té ngã xuống.

Nàng đã lạnh băng nằm trên giường trong Đông noãn các.

Thời điểm tiến từng bước vào cửa, chàng thấy tim mình bị khoét đi mất rồi.

“Du Nhiên…”. Không thể tin nổi nàng đã đi rồi, không thể tin nổi nàng lại một lần nữa rời xa chàng.

Vì sao ông trời phải đối xử tàn nhẫn với chàng như thế! Đầu tiên là Bát A ca của bọn họ, sau đó lại là nàng…

“Lần này nàng lại nói gì với ta nữa đây?”. Nước mắt chàng rơi xuống, từng giọt từng giọt đọng trên khuôn mặt đã xám đi của nàng, chàng ôm lấy hai má nàng, mười ngón tay run rẩy dữ dội, “Nàng tỉnh dậy đi! Xuất hiện rồi nói chuyện với ta như lần trước đi! Nàng rõ ràng đã đồng ý sẽ không rời khỏi ta mà, nàng rõ ràng đã đồng ý sẽ ở cạnh ta cả đời mà! Nàng rõ ràng đã đồng ý…”. Cổ họng trào lên một trận ngọt tanh, chàng cắn chặt khớp hàm để ngăn ngụm máu tươi đang dâng lên, sắc mặt tái nhợt, tia máu đỏ sẫm từ khoé miệng chậm rãi chảy xuống, nhỏ một giọt lên cái trán của nàng.

Máu, đỏ tươi chói mắt!

Mà nàng, đã chẳng còn sự sống! Chẳng còn biểu cảm gì cả!

“Hoàng thượng!”. Hoàng hậu kinh ngạc kêu lên.

Tây Trắc Phúc tấn Trang phi của cung Vĩnh Phúc đứng bên cạnh kìm nén xúc động, xông qua bên này, “Hoàng thượng long thể quan trọng hơn, đừng…”.

Hoàng Thái Cực đẩy nàng ta ra, căm ghét liếc mắt nhìn: “Hiện giờ nàng ấy đã chết, các ngươi vừa lòng đẹp ý chưa?”.

Trang phi trông thấy ánh mắt chàng lạnh lẽo như muốn ăn tươi nuốt sống mình thì sợ đến mức không tự chủ lùi về phía sau, suýt nữa va vào Đông Trắc Phúc tấn Thục phi của cung Diễn Khánh.

“Ngươi ỷ vào mình có con trai là cho rằng có thể mẫu bằng tử quý?”. Giữa kẽ răng của chàng đã loang lổ máu tươi, khẩu khí càng trở nên hung tợn, Hoàng đế trước mắt cứ như một ác ma từ địa ngục đi ra.

Trang phi tái mặt, sợ hãi kéo tay bác của mình.

“Hoàng thượng!”. Hoàng hậu không nhanh không chậm lên tiếng khuyên nhủ, “Ngài mệt rồi, xin hãy để Cáp Nhật Châu Lạp bình an rời đi đi!”.

“Cút ra chỗ khác!”. Chàng phẫn nộ gầm lên một tiếng, “Đừng làm ô uế cung Quan Thư của nàng ấy! Các ngươi không xứng… không xứng đứng ở đây!”.

Hoàng hậu run rẩy cả người, xoay người muốn chạy, nhưng trước khi rời khỏi thì chợt dừng, mặt mày tái nhợt cung kính hướng về phía Hoàng Thái Cực: “Nô tì cáo lui”.

Hoàng hậu dẫn đầu, đám người Quý phi, Thục phi đều nối đuôi theo, như đang trốn chạy khỏi cung Quan Thư.

“Bác!”. Trang phi hãy còn sợ sệt quay đầu nhìn về phía cung Quan Thư u ám, “Hoàng thượng thật sự đã bị con tiện nhân đó mê hoặc tâm can mất rồi!”.

Hoàng hậu không đáp, cẩn thận dòm ngó xung quanh, lặng lẽ kéo cháu gái bước lên lầu Tường Phượng: “Tạm thời đừng đụng vào Hoàng thượng nữa”. Cũng chẳng biết là do gió lạnh thổi hay do lòng đang sợ hãi, nàng ta rùng mình, thấp giọng run rẩy nói, “Ta sợ… trong cơn thịnh nộ, chàng ta sẽ kéo người khác tuẫn táng theo Thần phi!”.

Tiếng hít thở nặng nề: “Tuẫn táng?! Không… chắc là không thể nào đâu?”.

“Cũng chưa chắc được! Chỉ cần nhắc đến Thần phi, Hoàng thượng… sẽ hoàn toàn mất hết lý trí…”.

“Bác…”. Trang phi sợ hãi dựa sát vào Hoàng hậu, “Vậy chúng ta nên làm sao đây? Nếu như Hoàng thượng mất hết lý trí, thật sự giết chúng ta…”.

“Không sao… chúng ta còn có Phúc Lâm, chúng ta còn Cửu A ca…”.

“A, bác, bác nhìn kìa, dưới lầu ngoài đó có cái gì đứng thẳng tắp vậy?”.

“Là… là một người phải không?”.

Sắc trời dần sáng tỏ, một người đầy cô độc và quạnh hiu đang đứng dưới tàng cây lạnh lẽo thê lương, ngửa đầu ngóng nhìn về mái hiên cung Quan Thư chẳng hề nhúc nhích, như một thánh tăng đang nhập định, hoặc càng giống như một bức điêu khắc đã hoá thạch ngàn năm.

“Ôi?”. Trang phi tinh mắt cũng nhận ra được, “Là người đó… Duệ thân vương!”.

“A!”. Một tiếng gào khóc xé lòng từ cung Quan Thư truyền ra.

Hoàng hậu và Trang phi đều sửng sốt, sắc mặt trắng bệch liếc mắt nhìn nhau.

“Hoàng thượng chàng ấy…”.

“Điên mất rồi…”.

Rạng sáng mười tháng tháng chín năm Sùng Đức thứ sáu, Đông Đại Phúc tấn Quan Thư cung Thần phi hoăng thệ, Hoàng đế Đại Thanh đau thương cực độ, không ngừng khóc rống, hoàn toàn mất hết dáng vẻ cùng khí phách nên có của một đế vương.

Chúng thần lo lắng cho sức khoẻ của Hoàng Thái Cực sẽ bị tổn hại, nên nhiều lần khuyên bảo.

“Hoàng thượng có địa vị trên muôn người, là nơi trong ngoài dựa vào, thần dân nương tựa. Hiện tại Hoàng thượng quá đau buồn, chúng thần lớn nhỏ không thể an lòng. Thiết nghĩ: đạo vợ chồng to lớn, Hoàng thượng khó nén nổi bi thương cũng đành thôi. Nhưng chúng thần ngu dốt cảm thấy Hoàng thương không khỏi quá mức để ý đến tình ái, huống hồ trời cao phù hộ Hoàng thượng bình định thiên hạ, dưỡng dục triệu dân, thân thể Hoàng thượng rất quan trọng. Hôm nay công danh đang gần đến, đại thắng Tùng Sơn, Hạnh Sơn, Cẩm Châu đã nằm trong tầm tay. Hiện nay, nước nhà ta đang vô cùng thịnh vượng, nhà Minh đã bại hoại, Hoàng thượng nghe theo ý trời tự bảo vệ mình, còn vì việc này mà không màn đến bản thân sao? Hoàng thượng nên lấy giang sơn xã tắc làm trọng! Hãy khắc chế tình cảm…”. Cuối cùng, những lời của Tham chính Tổ Khả Pháp và Trương Tồn ở viện Đô Sát đã khiến Hoàng Thái Cực đang phát điên dần dần nín khóc.

Đang lúc mọi người âm thầm thở phào, Hoàng Thái Cực bỗng nhiên nức nở bi thương bật cười sằng sặc, cứ như đã hoá rồ.

“Giang sơn… mỹ nhân… giang sơn mỹ nhân…”. Chàng thì thào tự nói, ngồi trước quan tài gỗ của Thần phi, bàn tay vuốt ve lên bề mặt lạnh băng của nó, nước mắt ào ạt chảy xuống.

Chuyện cũ hiện rõ ngay trước mắt, nụ cười và cái nhíu mày của nàng cứ thế khắc sâu trong đầu chàng, sao có thể gạt bỏ dễ dàng được?

“…Hoàng Thái Cực, giang sơn và mỹ nhân với chàng mà nói, bên nào khinh bên nào trọng?”.

“…Giang sơn và mỹ nhân, bên nào khinh bên nào trọng…”.

Chàng bật cười rơi lệ, tiếng cười xót xa dần dần biến thành tiếng nức nở.

Năm xưa khi hỏi đến vấn đề này, chàng chẳng thể đưa ra một đáp án, chỉ đành nói xin lỗi. Mà hiện giờ đang ở thời khắc mấu chốt, chàng lại dứt khoát từ bỏ tất cả những thành quả chiến đấu đạt được từ Tùng Cẩm, lúc ấy trong lòng chàng, đã hoàn toàn chẳng còn một chút gì là giang sơn xã tắc.

Chỉ có nàng!

Ý nghĩa cuộc đời của chàng, từ đầu tới cuối, thật ra đều chỉ vì nàng mà thôi!

“Du Nhiên… Du Nhiên…”. Chàng vuốt ve quan tài lại bật khóc.

Các đại thần ai nấy đều nhìn nhau, đường đường là Hoàng đế Đại Thanh, trên chiến trường thì dũng mãnh bất bại, trên triều xoay chuyển thế cục, ấy mà hiện giờ lại vì tình nhi nữ biến thành một hôn quân mụ mẫm!

Một khắc bước vào cung Quan Thư đó, hồn phách của Hoàng Thái Cực dường như cũng đã bị Thần phi mang đi, chàng chỉ ngồi trông coi quan tài, tinh thần ngơ ngẩn chẳng ăn chẳng uống, cuối cùng là nói chuyện không đầu đuôi. Theo như nô tài hầu hạ báo tin lại, Hoàng thượng trong chốc lát gọi “Đông Ca”, trong chốc lát thì gọi “Bộ Du Nhiên”, trong chốc lát lại gọi “Cáp Nhật Châu Lạp”, điên điên đảo đảo, hai mắt đờ đẫn, nói năng loạn xạ.

Ngày hai mươi ba, Hoàng Thái Cực đột ngột hôn mê, thuốc men chẳng thấm, chư vương đại thần sợ đến mức chẳng còn cách nào khác chỉ đành lễ bái cầu nguyện trước thần phật. Một lúc sau chàng mới tỉnh lại.

Hai mươi chín tháng chín năm Sùng Đức thứ sáu, ngày đầu tiên cúng tế Thần phi.

Hoàng Thái Cực tự mình dẫn hậu phi, văn võ bá quan cùng với các mệnh phụ nội quyến đi trước.

“Từ thuở đầu gặp gỡ, về sau trẫm đã càng yêu quý nàng, đang muốn cùng nàng hưởng thụ phú quý, không ngờ trời lại đoạt nàng đi mất, nửa đường vợ chồng chia lìa. Trẫm nhung nhớ những yêu thương khi còn sống, dù suốt đời chẳng quên nhưng khi hồi tưởng lại chỉ biết cảm thán. Giờ đây trình lên tế vật để bày tỏ lòng chân thành. Vẫn lệnh Lạt ma ngâm nga kinh văn, mong nàng sớm sinh ra ở nơi đất lành…”.

Văn tế bay lượn xa xôi xung quanh mộ phần, toát lên vẻ thê lương mờ ảo.

Từ nay về sau, sinh tử vĩnh viễn chia cách.

Đời này, chỉ còn lại mình chàng…

Hai mươi bảy tháng mười năm Sùng Đức thứ sáu, Hoàng Thái Cực truy phong Quan Thư cung Thần phi là Nguyên phi, thuỵ hiệu “Mẫn Huệ Cung Hoà”.

Tạm thời không nói đến việc thuỵ hiệu đã phá mọi tiền lệ của Đại Thanh khi có số chữ nhiều nhất, chỉ mỗi một cái “Nguyên phi” đã làm dấy lên trận mưa gió trên triều.

“Hoàng thượng thật là càng lúc càng xằng bậy rồi, cái danh Nguyên phi này từ mà đâu mà nói?”. Theo tục xưng hô của người Mãn xưa, địa vị Nguyên phi có thể sánh ngang Hoàng hậu trong quy chế người Hán, cũng có nghĩa đó là người vợ đầu tiên và là người phụ nữ duy nhất.

Khi Hoàng Thái Cực rước Thần phi về, hậu cung của ông ấy đã có vô số giai lệ, đây không thể nào gọi là người vợ đầu tiên được.

“Nguyên phi à…”. Lễ thân vương Đại Thiện thất thần nhìn về phía ngoài cửa sổ, “Nguyên phi của đệ ấy sao?”. Cách một lúc lâu, y loạng choạng đứng dậy.

“Lễ thân vương, ngài bày tỏ cái gì đi chứ!”.

Đại Thiện buồn bã cười: “Kệ đệ ấy đi, phong hiệu này chưa hẳn là đòi thay cho vị ấy… ta nghĩ trên đời này chỉ có ta là hiểu được ý đệ ấy. Thôi, đệ ấy đã có lòng cũng tốt rồi… ít nhất vẫn nhớ rõ, chưa hề quên… quả thực, sao có thể quên được…”.

“Lễ… trời ơi!”. Âm thanh làu bàu rất nhỏ, “Lễ thân vương sẽ không hồ đồ chứ? Sao lại cũng nói năng bừa bãi rồi?”.

Đại điển tết Nguyên Đán năm Sùng Đức thứ bảy bởi vì tang lễ của Thần phi mà bị đình chỉ, cả nước dừng đãi tiệc.

Mười tám tháng tư, thời điểm cỏ cây sinh sôi nảy nở lại tế Quan Thư cung Thần phi. Dùng mười cờ phướn, bốn mươi lăm hoa phật, năm ngàn thỏi vàng bạc giấy, hai vạn tiền giấy, một vạn đoạn gấm giấy, bốn bao cờ phướn xén, bảy dải vòng, bảy đãy gạo, một con bò, tám con dê, chuẩn bị hai mươi bàn cúng cùng mười bình rượu.

Từ Nội đại thần, thân vương trong quân cùng Bối lặc trở xuống và từ Ngưu lục Chương kinh trở lên đều được Hoàng Thái Cực dẫn đi.

Chư vương, Bối lặc, Bối tử cùng với Thế tử nước Triều Tiên là Côn Đệ, Cố sơn Ngạch chân Đàm Thái, A Sơn, Nội đại thần cùng nhau tế rượu một lần. Diễn Khánh cung Thục phi, Vĩnh Phúc cung Trang phi, Đa La Duệ thân vương Đa La Phúc tấn, Đa La Túc thân vương Đa La Phúc tấn, Đa La Đa Dư Bối lặc Đa La Phúc tấn, Hoà Thạc Ngạn Triết Công chúa, Tụng Quốc Thác Công chúa, Hoà Thạc Ngạc Hi Đồ Cách cách cùng nhau tiến lên làm lễ truy điệu.

Mười tám tháng chín năm Sùng Đức thứ bảy, lễ tế tròn một năm Quan Thư cung Thần phi qua đời, Hoàng Thái Cực lại mang theo đồ cúng dẫn hậu phi đi trước, khóc lóc thảm thiết tế rượu.

Tế văn viết: “Mồng một tháng chín Mậu Thìn, năm Sùng Đức thứ bảy Nhâm Ngọ, ngày mười tám Ất Dậu, chỉ dụ: Hôm nay là ngày giỗ năm đầu của Mẫn Huệ Cung Hoà Nguyên phi, nỗi thương nhớ trào dâng khôn xiết, đặc biệt chuẩn bị đồ tế, bày tỏ lòng tôn kính. Hai vạn tiền giấy, năm vạn thỏi giấy, một con bò, tám con dê, hai bàn cúng, mười bình rượu, hai lư cốm, hai lư mì đậu kéo sợi, sáu đấu gạo, một đấu mì xào…”.

Mồng chín tháng tám năm Sùng Đức thứ tám, đêm đến.

Cung Quan Thư đã phủ bụi suốt hai năm, từ sau khi Thần phi qua đời, ngoài chàng ra cũng chẳng còn ai có thể bước vào.

Bàn ghế, đệm giường vẫn như năm xưa, chiếc nôi treo khe khẽ đung đưa phát ra tiếng cọt kẹt đầy cô tịch, đương lúc ngơ ngác như có thể nghe thấy tiếng nàng mỉm cười dỗ dành Tiểu Bát, còn có thể nghe thấy nàng dịu dàng hát ru:

“Du du trát, du du trát, tiểu A ca, ngủ đi nào.

Du du trát, du du trát, tiểu A ca, ngủ đi nào.

Vỏ cây bạch dương nọ, để làm nôi, ba bô trát.

Sói đến rồi, hổ đến rồi, mã hổ tử đến rồi cũng chẳng sợ.

Sinh trên núi Bạch kia, lớn trong Hắc thủy, ba bô trát.

Lớn rồi muốn học thứ ấy, Ba Đồ Lỗ A mã, ba bô trát.

Du du trát, du du trát, tiểu A ca, ngủ đi nào.

Du du trát, du du trát, tiểu A ca, ngủ đi nào.

Sinh trên núi Bạch kia, lớn trong Hắc thủy, ba bô trát.

Lớn rồi muốn học thứ ấy, Ba Đồ Lỗ A mã, ba bô trát.

Du du trát, du du trát, tiểu A ca, ngủ đi nào…”.

Hiện giờ… người đi mất, lầu trơ trội.

Còn sót lại, chỉ có nỗi tương tư bất tận.

Hoàng Thái Cực đang chìm đắm vào hồi ức sâu xa chẳng biết lại nghĩ đến chuyện cũ gì, môi khẽ cong lên tươi cười đầy hạnh phúc.

Nhưng chẳng mấy chốc, vẻ âm u tĩnh mịch trước mặt đã tàn nhẫn đánh chàng trở về nguyên trạng.

Nàng không còn nữa… nàng đã sớm không còn nữa.

“Du Nhiên…”. Khẽ gọi tên của nàng, vẻ đau thương triền miên làm người ta xúc động. Người đàn ông cao ngạo ấy đã hết thuốc chữa đi yêu một cô gái không thuộc về nơi này.

Sau đó, liên tục đau lòng, liên tục tổn thương, lại liên tục trầm luân…

“Khi nào nàng mới trở về?”. Ánh mắt chàng dịu dàng như nước, chậm rãi xoay người lại nằm xuống chiếc giường lạnh như băng, đưa tay sờ vào hũ tro cốt bằng ngọc tím, dịu dàng vuốt ve.

Rất lâu sau đó, trong căn phòng tối om yên tĩnh đến nỗi chỉ nghe tiếng chàng hít thở, cuối cùng chàng thở thật dài: “Nàng sợ buồn chán phải không? Đúng rồi, nàng là người vốn không chịu ở yên nhất, để nàng ở mãi trong phòng đương nhiên là nàng sẽ chán ghét… để ta dẫn nàng ra ngoài chơi một lát nhé”. Tay bưng hũ tro cốt, chàng xoay người xuống giường, rề rà bước loạng choạng ra ngoài cửa, “Ta đã trồng rất nhiều hoa hồng trong sân rồi này… là tự tay ta gieo đó, nàng nhìn thấy nhất định sẽ thích cho xem”.

Hoa trong sân không chịu nổi cơn lạnh giá, đã có nhiều đoá điêu linh chẳng còn ra hình thù, Hoàng Thái Cực ngồi xổm ngắm nghía một hồi lâu, có chút đau lòng tự trách: “Ta không biết nó sẽ như thế đâu, nàng đừng giận nhé!”. Ôm chặt hủ tro cốt, chàng cố gắng đứng lên, cơ thể chịu đủ mọi tra tấn bệnh tật đã mệt mỏi không tả được.

“Hôm nay có nhiều sổ gấp chẳng thấy đâu, nàng giúp ta được không?”.

Đông noãn các chỗ cung Thanh Trữ đã chìm vào một mảng lặng im, màn bông của phòng Bắc nơi Hoàng hậu ở đã buông xuống, chàng chẳng thèm liếc mắt nhìn, vô cùng cẩn thận ôm hũ tro cốt đặt lên giường Nam, Hoàng Thái Cực vui sướng nhìn ngắm: “Như vậy thật tốt, cảm giác như nàng vẫn còn ở đây…”.

Nửa canh giờ sau, chữ trên sổ gấp dần dần nhoè đi, chàng nhíu mày đưa sổ vào sát ánh nến, nhưng vẫn nhìn không rõ lắm. Run rẩy cầm kéo khêu bấc nến lại nghe phực một tiếng, bấc nến đã nổ vang. Giữa ánh lửa nhấp nháy, chàng cảm thấy hốt hoảng, ngoài cửa rõ ràng có một bóng người đầy mông lung mờ ảo đang bước đến, mỉm cười đùa cợt nói: “Hoàng Thái Cực, ăn khuya không? Em đã ở trong bếp nấu suốt hai tiếng đó, khói làm đau cả mắt rồi đây này…”.

Chàng trợn mắt há mồm, tham lam nhìn chằm chằm vào dung nhan xinh đẹp ấy.

Nàng thoáng đỏ mặt, làm bộ giơ tay muốn đánh, sẳng giọng: “Rốt cuộc chàng ăn hay không? Không ăn em đem cho chó ăn à!”.

“Ơ, ăn, ăn chứ…”. Chàng liên tục cản lại, buông bỏ cây kéo trong tay, vươn ra muốn nhận lấy chén canh ấy.

Nhưng bàn tay vươn ra chợt dừng lại giữa không trung, chàng mờ mịt thất vọng nhìn vào căn phòng trống rỗng, lòng run rẩy không thôi.

“Ta mệt rồi…”. Chàng nhỏ giọng lẩm bẩm, lẩm bẩm với hủ tro cốt, “Đừng chơi trò trốn tìm với ta nữa, ta mệt rồi… không tìm được nàng nữa. Nếu nàng thật sự không muốn trở về, vậy thì dẫn ta đi đi… Du Nhiên, dẫn ta đi đi, sống một mình, tịch mịch quá… Du Nhiên… Du Nhiên… Du Nhiên…”.

Âm thanh dần dần nhỏ đi, vị vua khai quốc của Đại Thanh ảm đạm ngồi trên giường Nam trong Đông noãn các, trên mặt mang theo nỗi khoắc khoải và đau xót, chậm rãi khép mí mắt.

Mồng mười tháng tám năm Sùng Đức thứ tám, hoàng hôn.

Giày đế chậu đạp trên sân lá rụng dày đặc, mỗi bước đi đều phát ra tiếng vang soàn soạt.

Nàng run sợ quan sát xung quanh, tuy rằng không phải rất sợ hãi quỷ thần, nhưng mà… thứ mà nàng đang cầm trong tay lúc này, thật sự là…

“Lấy đến rồi à?”. Bất thình lình, một âm thanh lạnh lẽo vang lên.

Nàng hoảng sợ, dè dặt hỏi: “Là Duệ… Duệ thân vương đấy sao?”.

Người ở sau cây hừ lạnh một tiếng, dưới ánh sáng u ám chỉ mơ hồ trông thấy bóng dáng của hắn.

“Đồ đâu?”.

“Đây này…”. Nàng run rẩy đưa một thứ tròn tròn sang, sau đó nhút nhát hỏi, “Vương gia thật sự sẽ giúp Cách cách nhà ta phải không? Sẽ thật sự đứng về phía Cửu A ca phải không?”.

“Hừ”. Hắn lập tức ôm lấy món đồ ấy vào trong lòng như đã lấy được bảo vật, “Tô Mặc Nhĩ, về nói với chủ tử ngươi, phần ân tình này Đa Nhĩ Cổn ta sẽ nhớ kỹ”. Dứt lời, không chút do dự xoay người đi.

“Duệ… Vương gia, Vương gia…”. Nàng thấp giọng lo lắng gọi mấy tiếng nhưng hắn vẫn làm lơ.

Tháng tư Thuận Trị nguyên niên, Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn dẫn quân Thanh nhập quan, dời đô về Bắc Kinh, hoàn thành hết tâm nguyện của Hoàng Thái Cực.

Mùi thịt bò nồng nặc gay mũi tản khắp phòng, hắn lười biếng nằm trên ghế dựa, nét cười vô lại mà hời hợt hiện ra trên mặt, miệng không ngừng nhai thịt bò chiên chín tới, thỉnh thoảng lại trút rượu đế, cắn một miếng thịt to đùng, kinh khủng làm sao.

“Vương gia!”.

Nô tài quản sự ngoài cửa thoáng ló đầu ra, Đa Nhĩ Cổn lập tức trở mặt, nổi giận khiển trách: “Cút chỗ khác!”.

“Vương gia!”. Cách một cánh cửa, nô tài quản sự dè dặt đáp, “Hồng Đại nhân ở ngoài xin được gặp mặt!”.

Hắn nheo mắt, nhai hai miếng thịt bò, lớn tiếng nói: “Tuyên ông ta vào đây!”.

Không qua lâu sau, rất xa truyền đến một âm thành lão luyện: “Nô tài ra mắt Nhiếp chính vương!”.

“Ha ha… Hồng Thừa Trù, ông tới đúng lúc lắm, bổn vương mời ông ăn bít tết… cái này ngon lắm đó!”.

Chưa đợi hắn nói xong, Hồng Thừa Trù đã đột nhiên dừng bước, vẻ mặt đau khổ ngửi thấy mùi vị ấy, ngũ quan nhăn nhúm lại một chỗ.

“Mọi rợ, không thích mỹ vị này thì không phải người tri âm của bổn vương…”.

Hồng Thừa Trù sợ đến ngây người, bị hắn làm cho hoảng loạn, thậm chí chẳng thèm quan tâm đến mục đích ban đầu khi tới nơi này mà chỉ vội vã tìm cớ tháo chạy khỏi phủ Nhiếp chính vương.

“Ha ha…”. Hắn cất giọng cười lớn, khoé mắt chậm rãi rơi lệ. Tiếng cười dần dần thu lại, cuối cùng hoá thành nỗi bi ai đến tan nát cõi lòng.

“Nàng nợ ta, đương nhiên phải trả lại cho ta… nàng đừng mơ trốn được! Chết cũng đừng hòng…”.

Mười một tháng mười năm Thuận Trị thứ năm, Lễ thân vương Đại Thiện bất ngờ bệnh nặng qua đời ở Bắc Kinh, hưởng thọ sáu mươi tuổi, chôn tại thôn Môn Đầu ở Tây Sơn, Hoàng đế cử lễ truy điệu, lập bia ghi công.

Mười bảy tháng tư năm Thuận Trị thứ sáu, Mẫu hậu Hoàng thái hậu Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Triết Triết qua đời, hưởng dương năm mươi mốt tuổi. Tháng hại năm Thuận Trị thứ bảy, quan tài được đưa đến Thịnh Kinh hoả táng, hợp táng cùng với Thái Tông Văn Hoàng đế tại Chiêu lăng.

Mười ba tháng mười một năm Thuận Trị thứ bảy, Hoàng phụ Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn có bệnh không vui dẫn theo chư vương, Bối lặc cùng với Cố sơn Ngạch Chân và quan binh Bát kỳ ra ngoài biên săn bắn. Mồng bảy tháng mười hai qua đời tại thành Khách Lạt, khi ấy mới ba mươi chín tuổi.

Tháng hai năm Thuận Trị thứ tám, định ra mười bốn tội trạng của cố Hoàng phụ Nhiếp chính vương. Hoàng đế hạ chiếu, rút khỏi tông miếu, khai trừ tôn thất, đoạt lại tất cả tước vị, kê biên và sung tài sản vào cư dân nhập quan, người con nuôi Đa Nhĩ Bác quy về tông tịch… mở quan tài quất roi vào thi thể tội thần Đa Nhĩ Cổn để răn đe!

“Khởi bẩm Thánh thượng! Hôm qua lúc mở quan tài, trong quan tài của nghịch tặc đã phát hiện vật ngự dụng của Thái Tông Hoàng đế…”.

“Trình lên đây”.

Một hủ tro cốt bằng ngọt tím cung kính dâng lên trước ngự giá, thân hủ to cỡ một quả dưa, hắt ra ánh sáng yếu ớt, nhìn kỹ có thể thấy trên hủ có khắc một hàng chữ Mãn “Ái Tân Giác La Hoàng Thái Cực”, bên cạnh còn được khắc thêm bốn chữ Hán đầy tinh tế ngay ngắn.

Hoàng đế nhỏ tuổi nheo mắt lại cẩn thận phân biệt.

“‘Độc bộ du nhiên’! Nghĩa là gì?”. Thoáng trầm ngâm lại cất giọng nói, “Đã là vật ngự dụng của Hãn A mã, vậy thì cất vào trong cung…”.

“Chậm đã!”. Một âm thanh từ sau đột ngột xen vào.

Hoàng đế kinh ngạc xoay người lại: “Ngạch niết có gì cần căn dặn sao?”.

Một bóng dáng yểu điệu thấp thoáng sau bức rèm, đám quan lại kiêng dè cúi đầu thật thấp, thở cũng không dám thở mạnh.

“Đó không phải là di vật của tiên hoàng! Bụng dạ nghịch tặc đó khó lường, ta cho rằng thứ đựng trong hủ đó chắc là tro cốt di hài tuẫn táng của nội quyến nghịch tặc đó…”.

“Vậy… vậy ý của Ngạch niết…”.

Âm thanh trong trẻo mơ hồ chứa đựng một sự căm hận cùng sảng khoái: “Nên xử theo tội…”.

“Ngạch niết nói rất đúng. Truyền chỉ dụ của trẫm…”. Âm thanh non nớt phun ra từng chữ rõ ràng, “…Đem thứ trong hủ này… nghiền thành tro như nghịch tặc đó…”.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play