(Đặc biệt nữa, nếu không muốn bị dân địa phương cười
thầm, bạn đừng gọi espresso thành expresso, có nghĩa là tàu tốc hành) Nhưng tôi
thấy cappuccino ngon và dễ uống hơn, có lẽ vì loại thức uống này có 1/3
espresso, 1/3 sữa tươi nóng để làm "mềm" bớt vị đắng của cà phê, và
1/3 bọt sữa mịn màng có rắc bột quế hay bột sôcôla xay li ti lên trên. Thức uống
này đã chiếm lĩnh thực đơn từ những quán bar rất "hip" ở trung tâm
Manhattan của New York ồn ào náo nhiệt đến những thị trấn xa xôi quê mùa ở Marốc,
nơi người phục vụ cả đời chưa gặp khách du lịch nước ngoài.
Tôi đo lường sự lịch lãm nổi tiếng thế giới của người
Ý bằng khả năng uống cappuccino rất nhanh nhưng khi uống xong bọt không trắng cả
mép như những "người trần mắt thịt" khác. Du khách đến đây, đặc biệt
là người Mỹ, dù có sang trọng cách mấy cũng hay bị cho là "nhà quê"
vì quen gọi cappuccino sau bữa trưa hoặc bữa tối, mà theo dân địa phương là
không đúng điệu chút nào. Người Ý chỉ uống món này trong bữa sáng hoặc dành thời
gian riêng trong ngày để thưởng thức cappuccino như một món riêng biệt, và đặc
biệt rất chăm chút bọt sữa, không bao giờ hớt bỏ hay khuấy bọt hòa lẫn vào cà
phê vì làm như vậy mất hết "tinh túy" của thức uống này mất rồi.
Nếu quá nhiều caffeine trong cơ thể làm bạn
"tim đập chân run" không còn sức lang thang qua những con phố cổ nhỏ xíu
đáng yêu ở Ý, hãy chuyển sang dùng caffè hag, tức cà phê không có caffeine, hoặc
granita di caffè con panna, tức cà phê nóng pha ít đường, đổ vào khay đá tủ lạnh
qua đêm cho đông lại, khi uống mới bỏ vào máy xay nhuyễn với ít nước rồi rồi đổ
đầy vào ly, phía trên cho thật nhiều kem tươi ngon béo. Những ngày hè nóng nực,
du khách và dân địa phương ngồi lười biếng trong cái nắng tháng bảy đổ lửa của
mặt trời phương Nam, vừa uống món cà phê có cái tên dài ngoằng này vừa nhìn thế
giới chậm chạp trôi qua.
Nhưng "đi uống cà phê" ở Amsterdam lại là
chuyện khác.
Trước khi sang Hà Lan, tôi vẫn biết Amsterdam là một
trong những thành phố "quậy" nhất châu u nhưng không ngờ lại tự do đến
mức này. Thủ đô nhỏ bé này có cả một hệ thống hơn 300 quán cà phê được cấp giấy
phép cho khách mua và hút các loại thuốc phiện nhẹ, cần sa (marijuana, weed,
grass, hash, cannabis). Việc hút những loại ma túy nhẹ đã được chính phủ hợp
pháp hóa từ năm 1976, dĩ nhiên chỉ dành cho người trên 18 tuổi và với liều lượng
dưới 5gr mỗi lần, đặc biệt những quán này không được bán bia rượu hay bất cứ thức
uống có cồn nào khác. Lý lẽ đưa ra nghe chừng cũng khá hợp lý: nếu được phép
hút những loại thuốc phiện nhẹ tại một nơi được quản lý đàng hoàng, sẽ không ai
ra đường mua những loại ma túy gây nghiện nặng như heroin hay cocaine của những
kẻ buôn bán bất hợp pháp, bằng chứng là tỉ lệ người nghiện ma túy ở Hà Lan luôn
ít hơn gấp nhiều lần so với Mỹ và nhiều nước khác.
Nhưng trộm nghĩ những điều luật tương tự chỉ có thể
được áp dụng ở những nơi ý thức thật sự cao mà thôi, nếu không rất dễ biến
thành con dao hai lưỡi.
Những ngày ngắn ngủi ở Amsterdam, vì hết phòng chúng
tôi phải ở ngay khu phố dành cho khách du lịch gần ga xe lửa trung tâm thành phố,
nơi tập trung rất nhiều quán cà phê kiểu này. Mỗi lần đi ngang qua quán đúng
lúc có người mở cửa bước ra, mùi cà phê đâu không thấy, chỉ thấy mùi cần sa
thoang thoảng trong gió. (Mỗi lần tôi kể tới đây, đám bạn tôi lại rụt đầu, le
lưỡi: "Ghê quá, ngửi mùi vậy có ghiền không?") Đối diện chỗ tôi ở là
một quán cà phê tên Grasshopper cao đến mấy tầng, buổi tối đèn màu xanh châu chấu
thắp sáng rực soi bóng xuống con kênh nước chảy loang loáng. Khi gặp cô bạn người
Hà Lan lái xe tận Ultrech lên Amsterdam dẫn chúng tôi đi chơi, tôi đòi qua đó uống
cà phê, cô cười: "Gan quá ha? Biết trong đó tụi nó làm gì không?" rồi
đưa hai ngón tay trước miệng làm hiệu như đang "phê" thuốc. Khi được
hỏi có hút không, cô bảo:
"Hồi trẻ ở đây ai chẳng thử, phần lớn thấy chẳng
có gì hay ho nên thôi. Thông thường cái gì cấm đoán người ta mới thích, với lại
còn tùy ý thức mỗi người mà", rất thản nhiên như được hỏi có thích chơi
bóng bàn không vậy.
Bởi không có gì hay ho nên cô quyết định đưa chúng
tôi đến một bruine kroeg (tiếng Hà Lan nghĩa là quán cà phê nâu, ban đầu tôi cứ
tưởng đây mới là loại hình cà phê như đã đề cập ở trên, vì tên gọi dễ liên tưởng
đến... nàng tiên nâu, nhưng không phải). Đó là một trưa hè nóng gần 38 độ C,
dân tình khoái chí đổ hết ra đường phơi nắng tận hưởng cái nóng phương Bắc hiếm
hoi. Những chiếc bàn kê bên ngoài, dọc theo bờ kênh của quán cà phê nâu chúng
tôi đến đã chật ních, nhưng để thật sự hiểu được hết chữ "gezellig" mà
người địa phương rất thích dùng, nghĩa đại loại là ấm áp, thân mật, vui vẻ...,
bạn nên ngồi bên trong. Những bruine kroeg ở Amsterdam đã có tuổi đời vài trăm
năm, với cách trang trí như trong những chiếc tàu thủy xưa, xà nhà nặng trĩu,
ván lót sàn và bàn ghế gỗ sẫm màu, tên gọi của nó có lẽ bắt nguồn từ những bức
tường ám khói thuốc lá nâu qua thời gian, dưới sàn có cả cát biển và trải thảm
Ba Tư để lau cà phê hay bia bị tràn. Trong quán chúng tôi đến có cả một cây kèn
khổng lồ kiểu xưa để trong góc. Cà phê Hà Lan không đặc sắc lắm nên chúng tôi,
cũng như hầu hết những người vào bruine kroeg, mặc dù gọi là "đi uống cà phê"
nhưng lại chọn bia, vốn là đặc sản ở đây.
Mãi đến khi tới Stockholm, tôi mới tự nghiệm ra một
chân lý là quốc gia nào uống nhiều bia như Anh, Scotland, Đức, Bỉ, Hà Lan... sẽ
không uống nhiều cà phê và ngược lại. Bởi vậy, không ngạc nhiên chút nào khi biết
ở Thụy Điển, nơi bia bị đánh thuế rất nặng và đắt gấp bốn, năm lần những nước
châu u khác, cà phê là một phần không thể tách rời cuộc sống. Ở Thụy Điển có một
từ rất phổ biến, fika, nghĩa là đi uống cà phê, thoát khỏi những bận rộn thường
ngày của cuộc sống, gặp gỡ bạn bè cũ, làm quen bạn mới, tán gẫu... Fika gần như
một thứ tôn giáo ở đây, người ta có thể fika sáng, trưa, chiều, tối, trong những
Kafekoppen ấm cúng. Sau một ngày quanh quẩn trong thành phố Bắc u này, qua khu
phố cổ muôn màu Gamla Stan với những con đường đá cuội nhỏ bé chỉ dành cho
khách bộ hành, chúng tôi nghỉ chân nơi Stortorget, quảng trường chính của thành
phố có đặt nhiều ghế dài và những chậu hoa tươi thơm dìu dịu, có trong rất nhiều
tấm ảnh của ban nhạc người Thụy Điển ABBA, nghe mùi hạt cà phê rang từ những
quán cà phê dọc quảng trường ngào ngạt trong không gian.
Thụy Điển đắt đỏ nhất trong số những nước tôi từng
đi, mỗi lần qua những nước EU khác đều có thể ăn uống thoải mái vì vật giá rẻ
hơn ở Anh, nhưng qua Thụy Điển, ông bạn Alastair và tôi phải thực hiện chính
sách "thắt lưng buộc bụng". Song mùi cà phê mới pha thơm lừng như níu
bước chân làm tôi tự thưởng cho cả hai một chầu trong Sundbergs Konditori, tiệm
cà phê và bánh ngọt xưa nhất Stockholm, có từ năm 1785, nhỏ xíu và ấm áp với những
ấm samovar bằng đồng đựng đầy cà phê mới pha sóng sánh nóng bỏng, đặt trên bàn
thấp cạnh quầy để khách tự rót lấy.
Bánh ngọt ở đây quả tuyệt vời. Tôi ăn một chiếc bánh
không biết tên, mềm và dẻo như tan trong miệng, chính giữa có một lớp mứt mỏng
vị thanh thanh dễ chịu, trên trải kem mềm và dày làm từ một thứ trái cây ngòn
ngọt màu vàng mướt. Cà phê ở đây hơi giống caffè Americano, đựng trong những
tách dày và nặng bốc khói nghi ngút, không đậm đặc nhưng đủ độ mịn và đắng để
đi kèm với các loại bánh ngọt thơm phức cô phục vụ đang bê ra trên những khay gỗ
từ lò nướng bên trong.
Bán đảo Scandinavia vào thu sớm hơn những nơi khác,
lá vàng xào xạc rụng đầy những công viên và trời đã lạnh hơn nhiều. Mặc dù vậy,
những quán cà phê Stockholm vẫn kê bàn ghế ra vỉa hè cho dân tình ngồi
"fika", và vì trời lạnh nên quán nào cũng để sẵn... mền cho khách quấn
nếu chọn ngồi ngoài. Những chiếc mền cũng là một phần trang trí của quán, được
mua thành bộ có màu sắc hợp với bàn ghế và màu sơn tường, đặt cạnh ghế ngồi. Thật
buồn cười khi thấy mọi người uống cà phê kiểu alfresco, nhưng không đeo kiếng
đen trong cái nắng chói chang mà vừa ngồi quấn mình thu lu trong mền vừa nhấm
nháp cà phê nóng hổi, thỉnh thoảng lại xuýt xoa co ro vì cơn gió buốt giá từ mặt
hồ Malaren thổi tới.
Chỉ cách Thụy Điển vài tiếng đồng hồ bay nhưng Hy Lạp
là một thế giới khác hẳn, với nắng vàng biển xanh và cái nóng Địa Trung Hải làm
người ta uể oải, chỉ muốn... đi uống cà phê. (Quả vậy, dù trời nóng hay lạnh
dân châu u cũng kiếm cớ uống thứ thức uống dễ ghiền này). Để phù hợp với khí hậu
ở đây, đã có frappe, món cà phê đá đặc trưng Hy Lạp không kém bánh pita kẹp thịt
nướng hay yaourt ăn với mật o ng. Trên khắp đất nước khi xưa đầy ắp những chuyện
thần thoại này, ngày nay đâu đâu cũng thấy những quán cà phê (kafeneio) đầy
khách uống frappe: Từ thủ đô Athens đông đúc ồn ào không kém Sài Gòn, nơi khi đi
bộ trên vỉa hè chật hẹp bạn phải vừa trông chừng luồng xe cộ đi loạn xạ trên
lòng đường sát bên và xe hơi đậu không theo trật tự, vừa tránh những bộ bàn ghế
kê bên ngoài quán; đến những hòn đảo vắng vẻ với những tòa nhà sơn trắng mát mắt
và gió biển mang theo vị muối mằn mặn.
Cách làm frappe khá đơn giản, chỉ cần Nescafe, nước
lọc, đá, đường, cho vào đồ trộn cocktail xốc mạnh trong vòng nửa phút, rót vào
ly để đá kèm uống hút là bạn đã có thứ thức uống dễ chịu đầy bọt li ti thơm và
mát lạnh làm dịu đi cái nóng mùa hè Địa Trung Hải. Nói về khoản ngồi dầm dề ở
quán cà phê, người Pháp hay người Việt ắt hẳn thua xa người ở đây. Bất cứ lúc
nào trong ngày, bạn cũng có thể thấy người địa phương ngồi quán, từ những quán
cà phê lớn sang trọng thắp đèn thủy tinh vàng lóng lánh đến những quán tạm bợ với
vài bộ bàn ghế lỏng chỏng, nhiều nhất vẫn là những ông già vừa uống nước vừa
đánh cờ.
Sách du lịch Fodor nói: Ngôi nhà là nơi trú ngụ của
trái tim, nhưng với phần lớn người Hy Lạp, quán cà phê mới là nơi trú ngụ của
trái tim, nhà chỉ là nơi... về ngủ.
Phần lớn thời gian hai tuần ở Hy Lạp, tôi ở với gia
đình bạn tôi trên đảo Evia, hòn đảo vắng vẻ không có khách du lịch cách Athens
hai giờ vừa đi phà vừa lái xe. Ngày cuối cùng trước khi về, chúng tôi sang chào
gia đình hàng xóm và được thưởng thức món cà phê Hy Lạp (Greek cfee) tuyệt vời.
Trong bất cứ một ngôi làng nào trên đất nước hiếu khách đầy nắng và gió biển,
đây cũng là thức uống "làm đầu câu chuyện" mang ra mời bạn đến nhà.
Nhưng nếu cà phê phin Việt Nam làm bạn "xây xẩm" thì nên dè dặt khi
thử thứ cà phê đậm đặc gấp nhiều lần này, được nấu sôi trong ấm bằng đồng có
tay cầm dài và miệng rộng, gọi là ấm ibrik. Bà chủ nhà đứng tuổi rắc vào bột cà
phê xay nhuyễn mịn một ít hạt gia vị có mùi hơi giống hoa hồi, rồi cho nước vào
nấu sôi trong ấm ibrik đến ba dạo trước khi rót vào tách. Những chiếc bánh quy
giòn bà mới nướng làm cân bằng vị đắng và tăng lên vị thơm có hậu ngọt của Greek
cfee làm chúng tôi nhấm nháp hoài không chán, khi bên ngoài mặt trời đỏ rực bắt
đầu lặn xuống biển và gió đại dương thổi lao xao những cây ôliu xanh rờn ngoài
sân.
Và đến buổi trưa nọ tình cờ theo chị đi bộ trên
con đường giày dép gần chợ Bến Thành, quầy cà phê bên hông chợ với những chiếc
ghế nhựa thấp lè tè có lẽ sẽ khuất trong những tấp nập đường phố không để lại
chút ấn tượng gì nếu người bán không dùng muỗng khuấy đá, cà phê và sữa đặc
trong ly lên với một âm thanh rồn rột vui tai. Và nhất là cái mùi quen thuộc ấy,
mùi cà phê phin nhỏ từng giọt mới pha, nóng và thơm, sực nức không gian bụi bặm
ồn ào làm tôi đứng nhìn sững, vừa nhìn vừa nuốt nước miếng. Mùi thơm quyến rũ ấy
làm tôi nhớ những ngày học cấp hai theo mẹ đi chợ uống cà phê sữa đá, hay khi
lang thang ở châu u, bên ngoài tuyết rơi lạnh cóng nhưng vừa bước vào quán hai má
đã nóng rực lên... Những ngày đi uống cà phê ấy, "ngỡ đã xa xăm bỗng về
quá thênh thang..."
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT