Ra ngõ Flanders gặp món ngon Xứ Flanders ở phía
Bắc của Bỉ, nơi nổi tiếng với khoai tây chiên giòn tan, uống những loại bia nổi
tiếng và thưởng thức sôcôla tuyệt hảo.
Món ăn xứ Flanders có khẩu phần lớn như món Đức và chất
lượng như món Pháp. Một bài báo đã viết như vậy, theo lời một anh chàng hướng dẫn
viên du lịch. Lúc đang ngồi với cậu bạn Alastair trong một quán ăn khuất phía
sau quảng trường trung tâm Bruges, tôi nhắc lại câu này khi đang ăn những con vẹm
xanh núc ních hấp vang trắng, kèm khoai tây chiên giòn tan. Alastair gật gù xác
nhận, anh đang ăn một khẩu phần khổng lồ món Stoofvlees, thịt bò hầm bia nâu và
gia vị, cũng với khoai tây chiên.
Khoai tây chiên Có thể nói khoai tây chiên là một
trong những món quốc hồn của xứ sở êm đềm này. Ở Bỉ nói chung và những thành phố
xứ Flanders miền Bắc nói riêng, đúng nghĩa “ra ngõ gặp khoai tây chiên”, thích
nhất là những xe đẩy hoặc chòi gỗ ngoài đường, gọi là fritkots, nơi người bán
xúc khoai vào một ống giấy cứng, kèm theo nĩa gỗ mỏng và món chấm đi kèm, có thể
là sốt cà chua, nước chấm sền sệt vị cà ri, vị ớt cay, tùy khách lựa chọn.
Nhưng nếu bạn muốn giống như dân địa phương, hãy hỏi lấy một miếng mayonnaise.
Món khoai tây chiên bắt nguồn từ thế kỷ XVII tại
Dinant và Namur, nơi những người dân nghèo thường chiên những con cá sông nhỏ
xíu cho bữa ăn hằng ngày. Khi sông đóng băng vào mùa đông, hết cá, họ cắt khoai
tây thành khúc bằng con cá nhỏ rồi chiên lên ăn thay cá. Ngày nay, ở Bỉ có hơn
4.000 fritkots như vậy. Mỗi nơi có từ vài loại đến hơn 50 loại nước chấm khác
nhau.
và bia Biết tôi đi Bỉ, ai cũng hỏi “Uống bia đã đời
không?”. Ai thích uống bia đi Bỉ như cá gặp nước, như rồng gặp mây, như Từ Thức
gặp Giáng Tiên. Bia Bỉ có những nhãn hiệu nổi tiếng như Duvel, Stella Artois,
Hoegaarden hay Leffe, đều được sản xuất tại xứ Flanders. Nhưng thích hơn cả vẫn
là bia địa phương chỉ có ở Bỉ với hơn 400 loại khác nhau như nhóm bia vàng, bia
đen, bia hổ phách, bia đỏ, bia nâu, bia trắng, bia vị trái cây (anh đào, dâu, dừa,
chuối…). Đặc biệt là bia lambic làm từ lúa mì sản xuất ở vùng gần Brussels theo
phong cách cổ xưa, để lên men tự nhiên tạo ra một loại bia vị se và chát, càng
để lâu trong chai càng ngon, giống như rượu vang vậy.
Ngoài ra, xứ Flanders còn là nơi sản xuất 3 trong số
7 nhãn hiệu bia Trappist trên thế giới. Đó là bia được sản xuất ở St. Sixtus
(Westvleteren), Achel và Westmalle. Loại bia này được ủ trong những tu viện
dòng thánh Benedict từ gần ngàn năm nay tại vùng La Trappe ở Pháp. Cho đến Cách
mạng Pháp, những thầy tu rời Pháp đến Bỉ mang theo bí quyết làm bia Trappist.
Rất nhiều bia ở Bỉ có loại ly uống kiểu dáng riêng,
mỗi kiểu ly chỉ dùng để uống đúng thứ bia đó nhằm tăng hương vị. Sau một ngày
rong ruổi qua những phố cổ, còn gì thích thú bằng được ghé vào một quán bia có
vài trăm loại khác nhau tha hồ chọn, ngồi vào quầy bar để anh chàng phục vụ rót
một ly bia mật ong đầy rồi nhanh nhẹn lấy dao cắt ngang lớp bọt trên ly một đường
ngọt lịm trước khi đặt lên quầy. Lần đầu tiên thấy thế, chúng tôi đã không khỏi
phì cười.
Súp Waterzooi Rời Bruges, chúng tôi lên chuyến tàu
chiều đến Ghent cũng thuộc xứ Flanders. Ghent ít du khách hơn Bruges nên không
gian cũng dễ chịu hơn.
Chuông nhà thờ đổ chầm chậm khi chúng tôi ra ngoài
kiếm nơi ăn tối. Trong một nhà hàng dưới tầng hầm, chúng tôi thưởng thức những
con hàu sống còn thơm mùi đại dương trước khi chia nhau món súp Gentse
Waterzooi đặc sản của Ghent, gồm những miếng cá trắng nõn ngon dai nấu với cà rốt,
cần tây, kem, bơ, vang trắng và các loại gia vị.
và Sôcôla Nước Bỉ còn nổi tiếng về sôcôla. Mỗi năm,
đất nước này sản xuất 172 ngàn tấn sôcôla, cung cấp cho cả thế giới, là đối thủ
đáng gờm của Thụy Sĩ. Ở xứ Flanders đâu đâu cũng thấy những cửa hàng nhỏ bé ấm
áp, bày đầy sôcôla như muốn trêu ngươi và những hộp giấy để khách tự chọn từng
viên bỏ vào.
Hãng Neuhaus đã sáng chế ra loại praliné, tạm dịch
là sôcôla có nhân, cách đây gần 100 năm. Praliné bên ngoài là lớp sôcôla sữa hoặc
sôcôla đắng, bên trong là nhân hạt phỉ rang nghiền với bơ cacao.
Ngoài ra, còn có loại truffle, được xem là tinh tế
nhất trong họ nhà sôcôla, thường được các nghệ nhân làm bằng tay từ sôcôla trộn
với kem hoặc sữa và một ít kem bơ, bên trong mềm mại, bên ngoài phủ bột ca cao
hoặc hạt hạnh nhân bào.
Đúng là ở xứ Flanders ra ngõ gặp món ngon 15. Từ “Nữ hoàng xứ Sheba” Cô gái phục vụ
mang ra một mâm phủ tràn miếng bánh injera khổng lồ. Con gái châu Phi đã đẹp là
đẹp lắm, mắt to đen, tóc xù, da ngăm, nụ cười tươi rói, mỗi lần gặp các cô tôi
lại muốn nhìn không chớp mắt nhưng vì sợ mất lịch sự nên chỉ dám lén nhìn.
Cô đi rồi, tôi cúi xuống rứt một miếng bánh, thì thầm
với ông bạn trai: “Con gái Ethiopia đẹp quá!”, anh chàng cười cười: “Ồ, sao đẹp
bằng…”. Tôi chặn ngang câu tán tỉnh không cần thiết, cầm ly nước lên: “Chúc mừng
sinh nhật thứ ba mươi”.
Chúng tôi đang ngồi ở “Nữ hoàng xứ Sheba”, một nhà hàng
Ethiopia ở phía Bắc London. Con đường này mỗi lần chúng tôi đi từ nhà ra trung
tâm thành phố thường qua ngang, có hai quán cùng phong cách ẩm thực là nơi
chúng tôi đang ngồi và Lalibela, quán ăn được đặt tên theo một vùng đất thánh ở
Ethiopia, nơi người mộ đạo vẫn thường đi hành hương về.
Chúng tôi chọn “Nữ hoàng xứ Sheba” chỉ vì cái tên
huyền thoại ngàn năm của một vị nữ hoàng bí hiểm, của một đất nước cũng bí hiểm
không kém đối với phương Tây. Một đất nước mà nhắc đến tên, người ta dù không
muốn cũng phải nghĩ đến lũ lụt, hạn hán, nội chiến, đói kém.
Thật lâu, món chính của chúng tôi mới được đem ra.
Tôi chọn món qwant’a firfir, thịt bò nướng sốt bơ gia vị kiểu Ethiopia, đựng
trong một chén nhôm để múc ra trải trên bánh injera, rồi xé bánh ra cuốn cả lại
cùng rau trộn. Người bản xứ chỉ ăn bốc bằng tay, bánh injera thay dĩa, khi ăn xong
ăn cả “dĩa” khỏi phải rửa chén nhiêu khê.
Bánh được làm từ bột teff, một loại bột từ hạt nhỏ
nhất trong các loại hạt, chỉ ở Ethiopia mới có. Bột trộn với men và một ít cánh
hoa, để hai ngày cho lên độ chua rồi nấu trong chảo gang dẹt như chảo bánh xèo
khổng lồ. Bề mặt bánh bong bóng lỗ chỗ xôm xốp như miếng da heo trong nồi lẩu,
ăn chua chua rất lạ và hợp với thịt bò cho nhiều ớt cay.
Cô gái phục vụ vui vẻ bảo: “Ở nước chúng tôi người
ta đặt bánh giữa bàn, rồi cho đồ ăn vào ăn chung với nhau. Chủ nhà thường chọn
miếng ngon nhất trên bàn rồi… đút vào miệng khách để tỏ lòng hiếu khách”.
Quán nhỏ, cửa sổ phủ những ống tre và bên trong đặt
nhiều đồ trang trí bằng gốm, hình thù ở Anh gọi là phong cách thiểu số. Mùi
nhang trầm thoang thoảng, hoà với mùi cà phê từ bàn bên cạnh nghe dễ chịu.
Tôi vừa cho thịt bò vào bánh, vừa nói vẩn vơ: “Hình
như em không biết chút gì về Ethiopia hết. Ngay cả thủ đô cũng không”. Anh nói:
“Ừ, ngoài việc đánh thắng quân Ý cuối thế kỷ mười chín, hồi đó nước này còn có
tên là Abyssinia, gần như chẳng ai biết gì thêm về nó nữa hết”. Nước Anh của
anh tuy không “nợ máu” với Ý nhiều như với Pháp và Đức nhưng cũng không mặn mà
lắm với quốc gia này, vả lại dân Anh hay có thói quen ủng hộ nước nhỏ yếu, ngay
cả cổ vũ bóng đá cũng vậy.
Tôi kể cho A. nghe câu chuyện duy nhất tôi biết về Ethiopia
đọc trong sách những năm học cấp một ở Việt Nam còn nhớ mang máng. Chuyện về những
người từ nơi khác đến Ethiopia, được tiếp đãi long trọng, muốn gì cũng có,
nhưng đến khi về bị yêu cầu phải cởi giày ra để người bản xứ cạo hết lớp đất
dính dưới đế giày. Câu cuối cùng chốt lại đại loại như “Chúng tôi có thể tiếp
đãi các ngài trọng thể bằng tất cả những gì chúng tôi có, nhưng chúng tôi không
thể để các ngài lấy đi đất mẹ của chúng tôi…”, đại loại vậy.
Ở quầy bar gần bên, một cô gái tóc xù khác không kém
phần xinh đẹp đang chuẩn bị cà phê đặc biệt kiểu Ethiopia.
Cô rang cà phê còn nguyên hạt trong một chảo dẹt nhỏ
đặt trên bếp, mùi cà phê thơm lừng quyện với mùi hương trầm từ cây nhang cháy cạnh
bên. Những hạt cà phê sau khi rang được giã nhuyễn trong cối, rồi cho vào nấu
trong ấm bằng gốm trên lửa nhỏ trước khi rót ra cốc. Anh bạn trai nói: “À, còn
nhớ ra cái này nữa về Ethiopia, đây là nơi hột cà phê được người chăn dê phát
hiện ra ở một làng tên Kaffa. Bây giờ Ethiopia cũng là một nước xuất khẩu cà
phê lớn đó”.
Chúng tôi tiếp tục ăn, A. uống rượu mật ong còn tôi
đảm nhiệm việc lái xe về nên chỉ uống nước lọc mà tiếc đứt ruột, nhất định lần
sau đi ăn đồ Ethiopia sẽ đi bằng xe buýt để còn thử rượu mật ong và đặc sản bia
nấu từ cây cọ và chuối, đựng trong gáo dừa.
Rồi tôi lại nghĩ bụng, không biết có dịp nào lại đi
ăn đồ Ethiopia, đất nước của nữ hoàng xứ Sheba đi mở cõi mang theo trên lưng lạc
đà những đá quý, gia vị, vàng bạc, trầm hương? Hay tôi cũng sẽ như những thực
khách khác, đến đây thử món ăn lạ cho biết, nhìn quanh ngắm nghía quán, tự nhủ
nếu có dịp sẽ đến đất nước này. Như những ai sống lâu ở một xã hội bình ổn văn
minh, thỉnh thoảng lại “cuồng chân” muốn đến một nơi nào khác hẳn, lạ lẫm,
“exotic” để thay đổi, để thấy cái nghèo rồi nhận ra mình may mắn ?
Rồi tôi thấy nhói trong lòng khi nhận ra một điều gì
đó rất quen.
16. Chuyện mắm ba khía ở London Mỗi lần muốn ăn món
Việt Nam tôi phải tới Hackney ở phía bắc London, nơi có nhiều người Việt sinh sống.
Vài tháng một lần, tôi vào mấy quán Việt trên đường Mare mua vội vàng nhiều món
rồi về. Tình cờ đợt đi lần này tôi phát hiện một món đựng trong hộp nhựa vuông
nhỏ xíu trong quầy đông lạnh, nhìn không có vẻ gì khởi sắc. Nhưng lướt mắt qua
tôi vui mừng khi thấy hàng chữ “mắm ba khía” bên trên.
Tôi mua ngay, không phải vì rẻ quá (mà rẻ thật, một
hộp khoảng hai lạng chỉ có 1,5 bảng Anh, khoảng 38.000 đồng) mà vì nghe đồn mắm
ba khía ngon lắm nhưng chưa thử lần nào.
Về tới nhà, có thèm đến mấy cũng phải ráng chờ đến
cuối tuần hai bạn chung nhà đi chơi tôi mới khui hộp mắm.
Sống chung với dân bản xứ, tôi giữ ý không nấu những
món mình thấy thơm nức mũi nhưng người ta không chịu được mùi, giống như mình
không chịu được mùi phômai lên mốc xanh mốc đen của Tây hoặc đậu phụ Đài Loan.
Tôi múc vài muỗng mắm ba khía vào chén rồi cho vào
lò vi ba để rã đông. Ba bốn phút sau mùi mắm bốc lên thơm lừng. Món mắm ngon
không phụ lòng chờ đợi, thơm mùi đặc trưng khác với những loại mắm tôi từng ăn,
càng ba khía mập mạp đỏ au, cắn vỡ ra để lộ những miếng thịt mằn mặn hơi giống
thịt cua muối, ăn kèm khế chua chua, gừng cay nồng và những gia vị, rau thơm
khác làm vị giác kích thích dễ sợ.=P~ Đang ăn, chợt tôi liếc thấy miếng giấy lấy
ra từ bao bì hộp mắm có ghi “Mangrove crabs” (Cua cây đước). Bất giác tôi nhớ
câu ca dao hay dân ca gì đó:
Tháng bảy nước chảy Cà Mau Tháng mười ba khía hội,
kéo nhau đi làm U Minh, Rạch Gốc, rừng tràm Muỗi kêu kệ muỗi tao ham ba khía rồi.
Rồi cũng tự nhiên tôi nhớ một bài viết về mắm ba
khía. Ba khía chỉ hội vào vài ngày tháng 10 âm lịch, thời điểm đó người “làm”
ba khía phải chịu thức đêm thức hôm, ngủ bờ ngủ bụi, chịu muỗi chích, vắt cắn để
bắt được ba khía, có khi tay sưng lên vì bị càng ba khía kẹp. Người viết cũng nói
thêm “đi làm ba khía là nghề hạ bạc của con nhà nghèo”.
Sao có thể mua món mắm ba khía ở Anh với giá rẻ đến vậy?
Hầu hết những món đông lạnh xuất qua châu u toàn loại ngon nhất ở VN, tôi đoán
người mình không ăn để dành xuất khẩu. Người bắt ba khía sau mấy đêm ngủ rừng đước,
rừng mắm, rừng tràm có bán trực tiếp được cho công ty xuất khẩu không, hay còn
phải qua trung gian nữa. Rồi công đoạn muối, giã tỏi, ớt, tiêu, chờ đủ ngày
tháng mắm chín cho vào hộp đông lạnh theo tàu chở qua châu u.
Tôi chưa về miền Tây vào ngày hội ba khía để thấy cảnh
bắt ba khía cực đến mức nào, nhưng tôi đã thấy những người đàn bà ngâm mình tới
thắt lưng dưới nước trong cái lạnh căm căm của miền Bắc vào tháng chạp âm lịch.
“Họ riu tôm đấy cháu ạ!” - ông già tóc bạc chèo thuyền chở tôi thăm Tam Cốc ở
Ninh Bình nói.
Người ta riu tôm ở những khoảng sông hay khoảng đồng
ngập nước đầy rong rêu lau sậy, phải ngâm mình cả ngày mới được mớ tôm mang ra
chợ. Tôi cũng thấy những con tôm nhỏ đó ở chợ quê Hoa Lư, nhỏ như con tép bạc
búng lóc xóc, không biết bán có đủ mua gạo để ăn! Tôi cúi xuống món mắm ba khía
vẫn còn thơm lừng, nghĩ sao người dân quê VN mình khổ quá. Rồi tặc lưỡi: “Thời buổi
kinh tế toàn cầu suy thoái, ai cũng khổ chớ đâu phải chỉ người dân quê VN
mình”. Nhưng rồi tôi lại nghĩ đúng là ai cũng khổ, nhưng Warren Buffett lỗ 25 tỉ
USD từ chứng khoán thì tài sản vẫn còn 37 tỉ USD, chỉ phải nhường lại ngôi giàu
nhất thế giới cho người khác chứ đâu đến nỗi.
Ai cũng khổ,
nhưng dân Anh mất việc thì vẫn có trợ cấp xã hội, tuy cũng “muối mặt” lắm chứ
không vui vẻ gì nhưng có còn hơn không. Ai cũng khổ, đồng bảng Anh có xuống giá
thê thảm thì vật giá hầu như toàn bộ các nước châu u khác vẫn rẻ hơn ở Anh, trước
đây rẻ hơn gấp rưỡi, gấp đôi thì bây giờ rẻ hơn ít lại, dân Ănglê buồn vì mùa đông
lạnh lẽo vẫn có thể đi tắm biển Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cho nỗi buồn vơi đi mà
không sợ tốn kém nhiều.
Có ai đó nói
người giàu trở thành nghèo sẽ là người khổ nhất vì đã quen với sự sung sướng,
trong khi người nghèo hoài không khổ vì họ đã biết sung sướng, thừa mứa là gì đâu
mà so sánh với hoàn cảnh hiện tại. Có lẽ người nói câu đó chưa thấy những chị
ngâm mình dưới nước lạnh buốt riu tôm, hay những thanh niên ăn bụi nằm bờ ở rừng
mắm, rừng đước chờ bắt ba khía.
Người nông
dân nghèo vốn đã “khó từ ngã bảy ngã ba khó về”, bây giờ thời buổi khủng hoảng
càng khổ hơn vì vật giá leo thang chóng mặt, ai lỡ có con đi học ở thành phố lại
càng điêu đứng. Lần về Việt Nam tháng 10 năm ngoái, tôi ngạc nhiên làm sao với
thu nhập bình quân đầu người như vậy lại có thể đáp ứng được vật giá chừng kia.
Nhưng thôi, ăn gỏi mắm ba khía cho hết đi, nghĩ ngợi
lẩn thẩn hoài!
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT