Đêm càng khuya canh càng vắng. Người con gái lấy tay kéo vạt áo Nga đứng dậy bước đi. Không hiểu tại sao, Nga đứng dậy ngoan ngoãn bước theo.
Hai người một trước một sau, bước vào gian phòng có màn lụa trướng thêu, có kính quý lược ngà, có gối êm nệm ấm, khiến kẻ gan lim dạ sắt cũng
phải lạc phách tiêu hồn.
Người con gái tỏ ra vô cùng tình tứ.
Nàng giúp Nga cởi bỏ áo ngoài rồi đưa chàng lên giường nằm nghỉ. Nàng
cũng tự thay bộ quần áo ngủ mỏng tanh, chui vào chăn, kề đầu mặt má bên
cạnh chàng, để mùi thơm phưng phức xông vào mũi chàng. Không còn cầm
lòng được nữa, Nga quay mình ôm ghì người con gái vào lòng…
Giữa
lúc chàng đang mê đắm tận hưởng khoái lạc, bỗng có một tiếng xẹt ngoài
cửa sổ rồi một đại hán nhảy vụt vào phòng. Hắn trước hết giơ tay cướp lẹ chiếc áo dài có đeo đạo kim phù của Dân Nga rồi mới quay mình lại, tay
cầm cây cường đao sáng quắc đâm thẳng về phía hai người. Nga vội đẩy
mạnh người con gái đang ôm trong lòng bật văng ra xa, quát lên một
tiếng: "Mau!". Bỗng từ trong miệng chàng, không biết bao nhiêu là "kim
xà" 1 bay vun vút về phía tên đại hán.
Từ ngoài cửa sổ, bốn, năm tên đại hán khác, tay đều cầm bảo kiếm, nhảy vào vây lấy chiếc giường buồng màn gấm, tấn công ráo riết. Chẳng ngờ kim xà bắn ra hết sức lợi hại, khiến đao kiếm của bọn đại hán gần như trở
thành vô dụng. Bọn sát thủ thấy đánh mãi khó bề thắng nổi bèn phát lên
một tiếng "Rút!", tức thì cả bọn nhảy vù ra, chạy trốn mất dạng.
Bọn chúng về cung tâu Ung Chính hoàng đế. Ung nghe nói lấy làm lạ vội hỏi vị quốc sư, quốc sư nói:
- Đó là Linh Xà trận của Bà La Môn giáo. Bệ hạ yên tâm. Phàm học môn Linh Xà trận này, phải thề với đất trời là không được tham phú quý cõi nhân
gian. Xét ra Dân Nga quyết không có ý phản nghịch đâu mà ngài lo.
Ung Chính nghe lời vị quốc sư nửa tin nửa ngờ. Mãi về sau, nhân lúc Nga bị
bạo bệnh, mất hết nội lực, ngài cho đi bắt về giam trong lao, dùng độc
kiếm hạ thủ. Trước khi chết Nga còn đấu với bọn lực sĩ ba ngày liền,
giết luôn một hồi ba tay kiếm khách của Ung Chính.
Nhổ được cái
đinh trong mắt rồi, từ đó Ung Chính mới thấy lòng khoan khoái. Chẳng ngờ chưa được mấy hôm ngài lại được tin cấp báo từ biên cảnh về, nói La Bốc Tàng Đan Luật miền Thanh Hải dẫn dụ Đại Lạt ma Sát Hãn Nặc Môn, nhè
giữa lúc thế tôn mới đăng vị, nơi cung đình có nhiều biến cố, thừa cơ
tạo phản. Trước hết La Bốc sai người tới khuyên Quận vương Nhan Nhĩ Đức
Ni và Thân vương Sát Hãn Đan Luật, để hai người cùng cất binh đánh thốc
vào quan nội nhưng hai vị vương này không nghe. La Bốc nổi đoá, liền
điều động binh mã tới cưỡng ép hai vị vương phải xua quân đánh Thanh
triều. Thấy tiến thoái vô lộ, hai vị vương chỉ còn cách viết văn thư cáo cấp về Bắc Kinh.
Ung Chính hoàng đế xem văn thư, lòng do dự chưa quyết, bỗng viên nội thị chạy tới báo có quốc cữu Long Khoa Đa xin vào
bệ kiến. Hoàng đế nói luôn mấy tiếng.
- Xin mời vào.
Khi hai người gặp nhau, Ung Chính nói:
- Quốc cữu tới thật đúng lúc quá!
Nói đoạn, ngài bèn cầm tờ văn thơ cáo cấp nơi quan ngoại đưa cho Đa. Đa xem xong liền nói:
- Thần cũng vì việc này mà tới. Bệ hạ há chẳng thường nói đến công lao
phò trợ của Miên Canh Nghiêu mà chưa từng báo lại, chẳng thường bảo Dân
Đê chinh chiến bao lâu, rất được ai nấy quan tâm, đáng nên lo ngại đó
sao? Hơn nữa, khi còn làm quận vương, bệ hạ chiêu nạp rất nhiều hảo hán, nuôi họ trong phủ, nay việc lớn đã thành, bọn họ cậy mình có công
thường hoành hành bất pháp chốn kinh thành, chẳng ra thể thống gì cả.
Nhân dịp biên quan có biến, chi bằng hệ hạ xuống một đạo chỉ dụ phong
Dân Đê làm Phủ viễn đại tướng quân, Miên Canh Nghiêu làm phó tướng quân, còn bọn anh hùng hảo hán chiêu nạp trước đây, cũng đều phong cho họ làm quan võ rồi giao cho Miên Canh Nghiêu đem theo ra Thanh Hải, như thế
tất tránh được chuyện gây rối làm bậy nơi kinh kỳ.
Ung Chính hoàng đế nghe xong, bèn nói:
- Kế tuy hay đấy nhưng hiềm nỗi lão Miên kia đã từng gian khổ bao năm mà
chỉ cho y làm phó tướng, e rằng bẽ mặt y quá Lại nữa, cho Dân Đê làm đại tướng quân, sợ rằng thế lực hắn thêm lớn, khó có thể chế phục được sau
này. Còn bọn anh hùng hảo hán cũng chẳng chắc gì giữ nổi họ được mãi nơi Thanh Hải, rồi đến một ngày nào đó trở về họ vẫn tính nào tật ấy, tình
trạng đâu có hơn gì ngày trước.
Long Khoa Đa nghe xong, cười nói:
- Bệ hạ khỏi lo. Thần đã có dụng ý ở chỗ này…
Sau đó, Đa ghé sát tai Ung Chính thì thầm nói về dụng ý của mình. Ung Chính bất giác vỗ tay đánh đét khen hay và gật đầu lia lịa tỏ ý phục Đa.
Qua ngày sau, Ung Chính hoàng đế toạ trào, phong Dân Đê làm Phủ viễn đại
tướng quân, Miên Canh Nghiêu làm phó tướng quân, đi chinh tiễu quan
ngoại. Mặt khác ngài cho gọi Ngạc Nhĩ Thái cất mật dụ trong tay áo, tới
gặp Miên Canh Nghiêu dặn Nghiêu y kế thi hành như vậy… như vậy…
Miêu Canh Nghiêu nhận mật dụ, suốt mấy ngày liền tập hợp bọn giang hồ hảo
hán, cắt cử họ, kẻ thì làm phó tướng, kẻ thì làm tham tán, kẻ thì đô
thống, đô đồng, thiên tổng, bá tổng, đủ cấp quan lớn quan nhỏ trong quân ngũ.
Bọn hảo hán được làm quan, anh nào anh nấy khoái trí lắm,
diễu võ dương oai, vác kiếm vác đao đi. Khi tám vạn đại binh đã đủ số,
Ung Chinh hoàng đế truyền lệnh cho phó tướng đem quân mã đi trước. Đến
hôm xuất quân, nhổ lều trại lên đường, đấng thiên tử đích thân ra khỏi
thành tiễn đưa. Thế rồi ba tháng hành quân liên miên không ngừng, đại
binh đã tới biên cảnh Tứ Xuyên, hợp nhất với bốn vạn quân nữa của phó
tướng Nhạc Chung Kỳ, rồi mới ùn ùn kéo thẳng ra Thanh Hải cự địch.
Hai tháng sau, khi tướng Nghiêu đã vạn dặm nơi sa trường rồi, Ung Chính
hoàng đế mới cho Dân Đê xuất binh, mang ấn tướng đại soái, đem theo một
trăm thân binh, mặc áo thường, bỏ bớt đồ nhu tòng, gấp rút lên đường. Đê tới Tứ Xuyên, được tin Nghiêu đã xua quân ra quan ngoại, trong lòng rất lấy làm nghi hoặc, tự nghĩ sao phó tướng không đợi quân lệnh của đại
tướng mà lại tự ý xuất binh. Giữa lúc phân vân buồn bã, Đê bỗng được báo có thánh chỉ tới. Đê vội bày hương án đón nhận.
Một thái giám tuyên đọc.
"Phủ viễn đại tướng quân, lập tức miễn chức, Ấn thụ đại tướng giao lại cho
Miên Canh Nghiêu, được phong làm Phủ viễn đại tướng quân, Nhạc Chung Kỳ
làm tham tán".
Dân Đê nghe thánh chỉ xong, quay đầu lại sau,
thì đã thấy ông tướng Miêu Canh Nghiêu quỳ cạnh mình từ lúc nào để tiếp
chỉ. Đến lúc đó, Đê mới rõ hoàng đế đã dùng kế điệu hổ ly sơn để diệt
trừ đối thủ. Quân đội hiện không còn ở bên mình, binh quyền lại đã mất
vào tay kẻ khác, thử hỏi Đê còn biết làm cách nào hơn mà không, trao trả ấn tín, phất tay áo ra đi? Đê đã trở thành người không quyền không thế, do đó hành tung của Đê chẳng ai thèm để ý tra hỏi tới nữa.
Sau
chuyện này ít lâu, người ta thấy ở thành Quảng Đông tại chợ Châu có một
ngôi hàng buôn bán của chủ nhân người họ Lương lâu nay buôn thua bán lỗ, vốn liếng gần tới chỗ khánh kiệt. Từ ông chủ tiệm cho tới bọn làm công, cả nhà đều buồn rười rượi, ngồi so ro suốt ngày trong tiệm, chẳng biết
làm cách nào hơn. Năm hết tết đến chủ nợ kéo tới đòi tiền gây gổ om sòm. Ông chủ họ Lương suốt ngày thở vắn than dài, Buồn quá, ông bèn bảo tên
gia nhân ra bờ sông chiêu thần tài cầu may.
Nguyên lai, theo tục
lệ của bọn con buôn tỉnh Quảng Đông thì mỗi khi buôn bán thua lỗ, họ ra
bờ sông trồng một cây cờ phan, trên ngọn treo một chiếc đèn đỏ gọi chiêu thần tài.
Gia nhân nhà họ Lương vừa mới trồng cây cờ phan ngoài
bờ sông và chưa treo xong chiếc đèn đỏ thì đã thấy một chiếc thuyền hàng lớn ghé vào đỗ lại. Từ trên mũi thuyền, một người ăn mặc kiểu nô bộc,
mũi lớn như mũi trâu, nói tiếng Bắc Kinh, bước xuống tìm hỏi ông chủ
quán có nhà không. Ông chủ họ Lương vội vàng chạy ra, kế đó lếch thếch
theo lên chiếc thuyền hàng vừa mới đô bến. Ông chủ họ Lương thấy một
người đàn ông vào trạc trung niên, mặt mũi khôi ngô, cử chỉ đàng hoàng,
tự xưng là họ Kim, cất tiếng nói:
- Chuyến này tôi có đem theo
rất nhiều trà, quả, hàng hoá từ Bắc Kinh tới Quảng Đông để bán nhưng tìm mãi mà chẳng ra nhà quen. Nay thấy cửa hàng ông treo đèn đỏ cầu thần
tài nên tôi vội tới để nhờ ông giúp cho một việc.
Ông chủ họ
Lương thấy thuyền của vị khách thương họ Kim chất hàng cao như núi, trị
giá ra cũng bốn năm chục vạn lạng bạc thì đâu có dám tính đến chuyện mua bán. Thành Quảng Đông hồi đó thiếu nhiều hàng miền bắc cho nên ông ta
nghì nếu mua được thuyền hàng này thì nhất định đại phát tài.
Nhưng ông tự nghĩ minh làm gì có tiền mà mơ ước. Nỗi băn khoăn tiếc nuối hiện rõ trên nét mặt ông. Người khách thương họ Kim đoán biết niềm tâm sự
của ông bèn nói:
- Tôn ông không có vốn, chuyện đó cần gì. Trong
thuyên tôi hiện có tới bốn mươi vạn lạng bạc hàng. Tôi tạm gửi ông, để
nhờ ông bán dần cho. Tôi không cần ông trả nửa đồng kẽm nào bây giờ đâu. Tôi đợi tới ngày này năm sau sẽ kết sổ tiền hàng cũng chẳng muộn!
Lương chủ nhân nghe ông khách nói vậy, sung sướng đến phát điên lên. Ông chắp tay vái dài, miệng cảm tạ rối rít, cho dọn một bữa rượu thịnh soạn để
khoản đãi khách quý, đồng thời thuê phu bốc hàng về nhà. Ông khách họ
Kim ăn xong nói gọn một câu: "Chẳng dám phiền", rồi bước lên thuyền đi
luôn.
Thế là từ đó, ông chủ tiệm họ Lương trở thành người bán
giùm hàng cho vị khách thương phương bắc. Không đầy nửa năm, tất cả hàng hoá đều bán hết sạch, lời lãi lên tới mười vạn lạng bạc. Ông đem một ít lời ra làm vốn mở phố sinh lợi, còn bao nhiêu thì đợi ông khách quý trở lại thanh toán. Ngày tháng qua mau năm lại sắp hết. Ông chủ tiệm họ
Lương cho quét dọn nhà trên nhà dưới, sửa soạn tiệc rượu. Hôm đó ông
khăn đóng áo dài, đợi khách.
Đêm hôm đó, quả nhiên ông khách quý
tới nơi, mười chiến thuyền lớn đậu thành hàng ngoài bến trước tiệm,
thuyền nào thuyền nấy đầy ắp đủ thứ hàng nam, hàng bắc, lại còn cả sâm,
quế, nhung, yến, không thiếu vị nào. Người khách bước lên bờ, vừa trông
thấy ông Lương là tay bắt mặt mừng, tươi cười vồn vã, cất giọng nói:
- Lần này, tôn ông nhất định phải bận lắm rồi đấy. Thuyền của bọn tôi
hiện có đến bốn trăm vạn lạng bạc hàng. Tôn ông phải nghĩ cách bốc ngay
hàng về kho đi.
Lương chủ nhân một mặt đon đả mời ông khách quý
đánh chén, một mặt triệu tập hết bọn thương gia toàn thành lại để bàn
tính việc bốc và chứa hàng. Thế rồi trong chốc lát, năm bảy trăm phu
khuân vác đã tề tựu đông đủ. Tiếng "dô ta", tiếng hò hát vang động khắp
mấy khu phố.
Ông Lương ngồi hầu rượu khách quý, đến lúc cơm no
rượu say rồi mới khệnh khạng bưng một chồng sổ sách ra để mời khách kết
toán. Ông khách đẩy chồng sổ sách sang bên, bảo Lương:
- Thôi, tôn ông tính đúng rồi, hà tất phải xem lại, hãy để đó bán sau.
Nói đoạn, ông khách đứng dậy, cáo từ rồi đi luôn. Lúc từ biệt, ông khách còn dặn thêm:
- Chuyến này, xin hẹn ba năm sau, tôi sẽ lại tính toán sổ sách tiền nong với tôn ông. Bây giờ chẳng gấp gì!
Nói vừa dứt, ông khách nhẩy lên thuyền, nhổ neo giong buồm, thuận gió như bay, chẳng bao lâu đã mất dạng.
Ông chủ tiệm họ Lương sau khi tiễn đưa ông khách kỳ lạ lên đường rồi, đem
hết tài ba ra kinh doanh. Tiệm ông càng ngày càng phát đạt. Không đầy ba năm, mười chiếc thuyền hàng lại đã bán xong, ông lại khăn đóng áo dài
ngồi đợi khách.
Rồi một hôm, vào đêm trừ tịch, ông khách kỳ lạ
kia lại tới. Vừa thấy chủ nhân, ông khách đã tươi cười chào hỏi. Ông
Lương cho dọn rượu và trình bày với khách việc mình buôn bán hàng hoá
thế nào.
- Số hàng của tôn ông đã bán xong, hiện được lời trên
sáu trăm vạn lạng bạc. Số tiền đó hiện gửi tại các ngân hàng tỉnh Quảng
Châu. Vậy xin tôn ông cho biết tôn kiến ra sao.
Người khách nghe xong, liền nói:
- Hãy đem số tiền chia đôi: một nửa gửi vào ngân hàng Đức Dụ tại Hán Khẩu, còn một nửa vẫn để lại Quảng Châu, sau này sẽ tính.
Lương chủ nhân được lệnh của ông khách lập tức tới các ngân hàng để lo liệu mọi việc cho xong.
Chẳng mấy ngày lại đã mồng năm tháng giêng. Ông khách lần này ở lại tiệm ông
Lương, bên cạnh chỉ có một tên gia nhân. Tuy ngày nào cũng như ngày nấy
khách được chủ nhận cung phụng nào cơm ngon canh ngọt, nào rượu nồng dê
béo, nào cao lương mỹ vị nhưng khách vẫn cảm thấy nỗi cô đơn lạnh lẽo
trong những đêm trường vắng lặng nơi đất khách quê người.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT