Trần các lão, miệng thì hỏi tên tiểu đồng, chân thì tông mạnh cánh cửa
phòng để vào trong. Ông nhìn thấy phu nhân nước mắt đầy mặt, tay vỗ bàn, miệng kêu om sòm:
- Trời ơi! Thằng bé nhà ta rõ là con trai, thế mà vào vương phủ có một buổi bỗng biến thành con gái, ông ạ!
Trần Thế Quan nghe đoạn, đã hiểu cớ sự, vội xua tay nói:
- Đừng có làm om sòm lên!
Nói xong, ông đuổi hết mọi người trong phòng ra, đóng cửa lại,
rồi mới gọi nhũ mẫu lại gần bên mà cật vấn. Nhũ mẫu gạt lệ, đem chuyện
tới vương phủ như thế nào, mụ quản gia bế cậu bé vào trong chuyện mãi
tới chiều mới bế trả lại ra sao, không cho lật cái khăn phủ mặt cậu bé
thế nào và khi về tới nhà cậu bé hoá thành cô bé ra sao, từ đầu chí cuối kể lại một lượt rành mạch không sót một chi tiết nhỏ nào, chỉ bỏ quên
có một việc là y thị quá chén say chếnh choáng trong vương phủ mà thôi.
- Trai hay gái chẳng kể gì! Trẻ nào cũng cần cho ăn no ngủ kỹ là được rồi, còn chuyện tới vương phủ từ nay cấm không được nhắc tới nghe
không? Nếu người lắc lém cái mồm thì trước hết ta lấy đầu ngươi đó, nhớ
chưa?
Nói xong, ông quát bảo nhũ mẫu ra ngoài ngay. Nhũ mẫu hoảng hồn
bạt vía, vội bế cô bé rút êm theo cửa hậu. Lúc đó Trần Thế Quan mới bảo
vợ:
- Này bà! Việc không có gì khó hiểu cả. Vương phi sinh hạ một
tiểu công chúa nhưng vì bà ta chót nói dối vương gia là một tiểu vương
gia, nên mới bảo đem thằng bé nhà mình vào cung rồi thừa dịp đánh đổi.
Bây giờ, việc chạy vào vương phủ để đòi con về hẳn không được rồi. Ngay
cả nếu tùm lum lên thì chẳng những mạng thằng bé khó toàn mà toàn gia
đình mình cũng hết sống nổi nữa. Thôi, bà ơi! Già này xin bà từ nay chớ
nhắc tới chuyện đó. Số vợ chồng mình mà có con trai thì rồi thế nào chả
có. Bà đã sinh một đứa trai thì lo gì lại chả sinh đứa thứ thứ ba.
Trần phu nhân nghe chồng nói đầy đủ góc cạnh của câu chuyện mới
vỡ lẽ, hết mọi nghi ngờ. Toàn gia Trần Các lão hình như không ai hay
biết có chuyện đó xảy ra.
Tính đủ hai tháng vương phi mới bế cậu bé ra cho Ung vương nhìn
mặt. Vương vừa nhìn qua thấy cậu bé mũm mĩm trắng trẻo, hơn nữa lại là
con của phi tử Nữa Cô Lộc, thì lấy làm yêu quý lắm. Người trong phủ đều
gọi cậu bé là Từ vương gia.
Trần Thế Quan rất sợ việc đổi con này bị bại lộ, liên luỵ tới
mình nên ông dâng sớ xin Khang Hi cho trở về quê vui thú điền viên.
Hoàng đế cố giữ lại mà không được, đành phải ưng thuận. Ung vương thấy
mất một tay thân tín thì lòng buồn khôn xiết. May cho vương còn có Ngạc
Nhĩ Thái và Trương Đình Ngọc hai người đem hết tâm lực để phò trợ nên
chẳng bao lâu phần nửa các hoàng tử đều trở thành tâm phúc của vương.
Trong số các hoàng tử, có Dân Chỉ, Dân Kỳ, Dân Hựu, Dân Nga, Dân Đường, Dân Đào, Dân Đê tự lập môn phái riêng, nhất định không chịu đi
cùng một đường với Ung vương. Bọn này một mặt thực hiện âm mưu của mình
một cách kín đáo một mặt tìm cách lấy lòng vua cha. Khang Hi hoàng đế
bèn phong Dân Chỉ, Dân Kỳ, làm Thân vương; Dân Hựu, Dân Nga làm Quận
vương; Dân Đường, Dân Đê làm bối tử.
Ung vương được tin này, càng lấy làm giận. Trong bọn hoàng tử
vừa kể trên phải nói Dân Dị, Dân Đường là hai đối thủ đáng ngại nhất của vương. Thâm tâm bọn này là hoạt động ngấm ngầm để mưu đoạt ngôi thái tử cho bằng được. Họ chẳng cần luyện tập võ nghệ, chẳng cần bầu bạn các
tay hảo hán, chỉ thông đồng với mấy tên thái giám rồi nhờ đó giao kết
với bọn phi tần, ngày ngày đem chuyện tồi bại của thái tử ra nói với nhà vua. Chuyện nói xấu càng ngày càng nhiều. Có kẻ nói thái tử nhiều lúc
vào cung đùa cợt với cả phi tần. Cung có kẻ nói thái tử kết ngầm bọn hư
đảng mưu sát hoàng đế, bao chuyện động trời như vậy, dù là gan đồng dạ
sắt cũng phải nổi đoá, huống hồ một người như Khang Hi hoàng đế. Hơn
nữa, những chuyện kể đây lại đều từ miệng mấy bà phi cưng quý nhất thì
làm sao Khang Hi lại không tin. Thế là ngài truyền lệnh cho Tôn Nhân
phủ, phế ngay thái tử. Nhưng Cố Luân công chúa cố tâm khuyên can đôi ba
lần. Bà nói:
- Hoàng thượng hãy bớt giận. Phế lập thái tử là một đại sự chứ
không phải việc thường. Ngài nên bàn tính cẩn thận với các vị đại thần
trước đã.
Qua ngày hôm sau, biên viễn có tin cấp báo, nói bộ lạc Cát Nhĩ
Đan làm phản, hết sức ngang ngược. Các bộ lạc Xa Thần, Trát Tát Khắc bị
chiếm cứ, đều cho người chạy tới kinh đô cáo cấp năm lần, bảy lượt.
Khang Hi hoàng đế được tin lập tức toạ trào, cùng các vị đại thần thương nghị, rồi xuống luôn mấy đạo thánh chỉ. Đạo thứ nhất phong Dụ Thân
Vương Toàn Phúc làm Phủ Viễn đại tướng quân, Dân Đê làm Phủ Viên phó
tướng quân, đem theo năm vạn người ngựa xuất binh ra Bắc Cổ Khẩu. Đạo
thứ nhì phong Cung Thân vương Thượng Ninh làm An Bắc đại tướng quân,
Giản Thân vương Nhã Bố Hoà và Tín Quân Vương Ngạc Lễ làm phó tướng quân
đem theo năm vạn người ngựa xuất binh ra Hi Phong khẩu. Đạo thứ ba khiến bọn Nội đại thần là Đông Quốc Cương, Đông Quốc Suy, bọn đại thần là
Sách Ngạc, Đồ Minh Châu, bọn A Mật Đạt đô thống là Tô Noa Lạt Khắc Trì,
Chương Xuân A, Tịch Đát Nặc Mại, bọn Hộ quân thống lĩnh là Miêu Tề Nạp,
Dương Dại, bọn Tiền phong thống lĩnh là Ban Đạt Nhĩ, Sa Mai Đồ Đô tuỳ
doanh tham tán quân vụ, đem tất cả mười vạn đại binh rầm rầm rộ rõ kéo
thốc ra quan ngoại.
Không ngờ, một lực lượng hùng hậu như vậy mà suốt một năm trời
từ mùa thu xuất quân tới mãi mùa hạ năm sau vẫn chưa đẩy lùi được bọn
Cát Nhĩ Đan. Khang Hi hoàng đế trong lòng càng thêm nóng nảy bực dọc.
Ngài bèn tự mình điều động ngự lâm quân mã kéo tới miền Bác Lạc Hà để
đốc chiến. Đồng thời ngài hạ lệnh thái tử Dân Nhung ở lại kinh đô giám
quốc.
Khi Khang Hi hoàng đế vừa ra tới quan ngoại thì không ngờ cáo
trạng tội ác của thái tử cũng bay theo ra như bươm bướm. Có tờ tố cáo
thái tử khi lăng tôn thất, có tờ tố cáo nhiễu hại bách tính, có tờ tố
cáo tự tiện cướp đoạt cống vật, có tờ tố cáo làm loạn cung đình, có tờ
khủng khiếp hơn, tố cáo âm mưu thí nghịch phụ hoàng. Hoàng đế xem rồi
lòng giận tức xưa lại nổi dậy, gần như phát điên lên. Ngài lập tức hạ
một đạo thánh chỉ, cho người về ngay kinh triệu thái tử ra quan ngoại.
Mấy ngày sau, thái tử Dân Nhung đã tới hành dinh. Nhung vào
trướng quỳ trước mặt phụ hoàng. Khang Hi hoàng đế nghe Nhung nói khùng
khùng điên điên thì bực tức đến cùng độ. Ngài tuốt cây bội đao, vung lên chém Nhung một nhát. May thay lúc đó có ông cậu Đông Quốc Duy đứng bên
cạnh đỡ kịp. nên không việc gì. Hoàng đế vỗ bàn quát mắng um xùm, rồi
nhỏ lệ ròng ròng xuống đôi má. Ngài rủa thái tử hành động bậy bạ. Chỉ vì nể mặt người mẹ mà ngài nín nhịn hai mươi năm trời và tha tội cho thái
tử đó thôi. Bây giờ, tội ác càng ngày càng nhiều, thái tử lại dám tự ý
kết đảng, làm nhục đại thần, sinh tính hung ác, mưu hại anh em, thậm chí nhiễu loạn cả cung đình, mưu thí cả vua cha. Người như thế quả đã cuồng vọng, bội nghịch đến quá mức, thử hỏi ngài còn muốn để lại trên đời này mà làm gì?
Khang Hi hoàng đế chửi rủa đến nỗi ngất xỉu luôn. Lúc tỉnh dậy,
ngài vẫn thấy thái tử quỳ trước mặt, bèn nhảy tới phía trước, giơ thẳng
cánh tát hai cái vào mặt thái tử rồi quát lớn:
- Cút ngay đi cho rảnh mắt ta!
Hôm sau, mọi người thấy một đạo thánh chỉ hạ xuống, phế bỏ thái
tử, giao binh quyền lại cho Khang Thân vương, rồi bãi giá hồi kinh. Về
tới kinh, Khang Hi hoàng đế sai cầm tù Dân Nhung, rồi triệu tập đại thần bàn chuyện lập thái tử mới. Bọn đại thần anh nào cũng vì sự biệt đãi
của hoàng tử mình phò trợ, nhân dịp này hết sức hết lòng đề cử chủ mình.
Hồi đó, Bát hoàng tử Dân Dị đã ngầm biếu xén rất nhiều châu báu
vàng ngọc cho quốc cữu Đinh Quốc Duy và đại học sĩ Mã Tề để họ ngầm sai
bọn Nội đại thần A Linh A; Tán trật đại thần Ngạc Luân Đại, Thượng thi
Vương Hồng Tư, Thị lang Khuê Tự và cả Ba Hỗn Đại, làm tờ sớ tâu lên nói
Bát A Ca (Dân Dị) có thể kế vị.
Khang Hi hoàng đế xem xong tờ sớ, chẳng ngờ nổi trận lôi đình, quát:
- Bát A Ca ít khi chăm lo đến công việc. Huống hồ trước đây, hắn còn bị nghi là mưu hại thái tử. Mẹ hắn lại xuất thân nơi bần tiện thì
làm sao lập hắn được?
Ngài phái người bí mật điều tra, quả nhiên tra ra việc Dân Dị tư thông với bọn đại thần. Qua ngày thứ hai, hoàng đế lên điện, lớn tiếng
quát hỏi. Ba Hỗn Đại giật mình kinh hoảng, mồ hôi toát ra như tắm, vội
quỳ xuống đất, đem chuyện Đông Quốc Duy cùng Mã Tề hai người chi vẽ bọn y bảo tấu cho Bát A Ca như thế nào kể lại một lượt. Khang Hi hoàng đế
nghe xong, long nhan càng giận dữ. Ngài lập tức cách chức tất cả bọn
quan lớn nhỏ; lại cách luôn cả tước vị Thân vương của Dân Dị. Đông Quốc
Duy nhờ được cái thế quốc cữu nên chỉ bị quở trách vài câu rồi đuổi ra
khỏi kinh sư, vĩnh viễn không được vào cung. Đại học sĩ Mã Tề bị kết án
ly gián tình cốt nhục trong hoàng gia, tội rất nặng, hạ chỉ giao hình bộ chém đầu. Các quan văn võ Mãn triều cực lực tâu xin miễn tội, lúc đó
hoàng đế mới khoan hồng, chỉ cách tước danh. Dân Dị cũng bị giao về hình bộ nghiêm hành quản thúc.
Sau khi xảy ra việc động trời này, bá quan văn võ miệng đều câm
lại như hến, chẳng còn kẻ nào dám ho he xin xỏ cho ai. Ngay cả hoàng đế
cũng chẳng thèm nói tới việc lập thái tử.
Mãi về sau, khi thấy hoàng đế bớt giận rồi thì hoàng hậu mới lên tiếng khuyên nhủ:
- Lập thái tử vốn là việc quốc gia đại sự. Bệ hạ hiện có một số
đông hoàng tử, ngài không thể không lập người kế ngôi. vì có thế mới
tránh khỏi chuyện biến loạn trong tương lai được.
Hoàng đế thấy hoàng hậu nói phải, liền bàn tính với bà, hỏi xem hoàng tử nào xứng đáng, thì bà nói:
- Thập tứ hoàng tử Dân Đường, tính vốn hiên hậu, có thề lập làm tự quân được.
Câu nói này của hoàng hậu thật rất hợp ý hoàng đế. Song, thập tứ hoàng tử hiện còn nhỏ tuổi, nếu đem công bố thánh chỉ ra, e rằng có kẻ
mưu hại mất. Nghĩ tới chỗ này, bỗng ngài nhớ tới Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đình Ngọc. Hoàng hậu cùng hùa thêm, nói hai người này vốn có bụng trung thành có thể ký thác được, thánh chỉ liền hạ xuống, truyền Trương, Ngọc hai người vào cung gấp để bàn tính việc lớn.
Được hỏi về chuyện lập thập tứ hoàng tử lên làm thái tử, Ngạc Nhĩ Thái bỗng nghĩ ra một kế bèn đề nghị với Khang Hi hoàng đế:
- Xin thánh thượng tự tay viết chiếu truyền ngôi rồi bí mật đem
giấu tại mặt sau tấm biển lớn của điện Chính Đại Quang Minh. Đợi khi nào thánh thượng trăm tuổi, lúc đó Cố mệnh đại thần sẽ tới lấy chiếu thư
tuyên đọc. Các hoàng tử thấy thủ bút của thánh thượng, tất nhiên không
còn ai có thể tranh vào vào đâu được nữa.
Khang Hi hoàng đế gật đầu khen hay. Ngài nhớ tới quốc cữu Long
Khoa Đa, liền cho triệu về cung, mặt khác và tự tay mình thảo tờ chiếu.
Chiếu như sau:
"Dân Nhung nhuốm chứng tật khó dạy bảo, đã bị truất phế. Sau
khi yến giá, trẫm truyền ngôi lại cho thập tứ hoàng tử Long Khoa Đa vốn
là nguyên cữu (quốc cữu đầu tiên), Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đinh Ngọc đâ
từng chịu cái ơn tri ngộ đặc biệt của Trẫm: các ngươi phải đồng tâm hợp
lực phò trợ tự quân, làm sáng tỏ lẽ trời, chớ có bạc ơn mà hỏng trọng
trách khiến phụ ý trẫm, Khâm thử".
Ba vị đại thần chịu cố mệnh của hoàng đế, đem tờ chiếu giấu kín
vào sau tấm biển lớn tại điện Chính Đại Quang Minh. Xong đâu đấy họ rút
êm ra khói cung, ai về nhà nấy.
Cách lập đi chiếu này của Thánh tổ còn được dùng liên tiếp bảy
đời về sau, suốt từ Ung Chính, Càn Long, Gia Khanh. Đạo Quang cho tới
mãi Hàm Phong, Đồng Trị, Quang Tự. Sau đó cũng là việc về sau, chưa cần
nói tới. Lại nói chuyện quốc cữu Long Khoa Đa vừa đặt chân tới phủ đã
thấy tên nội giám của Ung quán vương ngồi đợi đó từ lâu. Hai bên thì
thầm. Đa bảo tên nội giám hẹn gặp Ung vương tối hôm đó, vào canh ba bốn
khắc. Tên nội giám vội quay về vương phù hồi bẩm.
Trời đêm qua canh ba, Long Khoa Đa lặng lẽ bước ra cửa sau rồi
tới cống hậu cung Ung vương, lẻn vào bên trong. Khi tới một mật thất,
ông đã thấy đại học sĩ Trương Đinh Ngọc, tướng quân Ngạc Nhĩ Thái đều đã có mặt tại đây. Ngoài ra còn có vài vị quân sư, một đám đông kiếm
khách. Lát sau, Ung vương bước vào mật thất. Cả bọn thì thào bàn tán với nhau suốt tới sáng mới nghỉ ăn cháo yến rồi giải tán. Long Khoa Đa,
Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc lại thượng triều như cũ. Hoàng đế thăng
điện, nhưng lúc này ngài không lớn tiếng, nặng mặt như hôm qua nữa.
Quan Binh bộ thượng thư xuất ban tâu:
- Muôn tâu thánh thượng! Văn thư cáo tiệp của Khang Thân vương
từ tám trăm dặm vừa mới về tới, nói bộ chúa Cát Nhĩ Đan đã đại bại ở Đại Tích sơn, chạy trốn suốt đêm tới Cương A Não Nhĩ. Hiện nay quân ta đã
thu phục toàn bộ Cát Nhĩ Đan, bộ chúa đã đích thân tới đại doanh của ta
nộp khoản đầu hàng Khang thân vương bất nhật ban sư về kinh.
Khang Hi hoàng đế nghe tin này, lòng vô cùng hoan hỉ, liền
truyền chỉ khen thưởng, chuẩn bị tiệc mừng chiến thắng, đợi khi Khang
thân vương về là đích thân xa giá tới để khao thưởng. Chẳng bao lâu,
Khang thân vương thống lĩnh đại binh về tới kinh. Hoàng đế ngự giá ra
khỏi thành đón rước. Mười vạn đại quân vừa nhìn thấy hoàng đế nhất tề
tung hô vạn tuế. Ngài ngồi ngay trên ngựa, ban thưởng rượu mừng.
Qua ngày hôm sau, Khang thân vương đem theo cả bọn quan viên
tướng tá tùng chinh vào triều tạ ơn, hoàng đế ban yến ngay tại Sùng
Chính điện, hạ thánh chỉ thăng cấp cho mọi người, ban thưởng cho Khang
Thân vương chức Tử cấm thành kỵ mã.
Lúc này, trong nước thái bình, bốn bề thịnh trị, Hoàng đế lại
Nam tuần lần thứ sáu. Nội đại thần sớm đã tống đạt văn thư đi khắp các
tỉnh miền Giang Nam phải chờ chực tiếp giá suốt lộ trình.
Đã năm lần Nam tuần, hoàng đế lần nào cũng tới miền Tô Châu du
ngoạn. Đất này có một vị thân sĩ giàu có vào bậc nhất, họ Uổng tên Uyển. Mỗi lần xa giá tới, vị Uổng thân sĩ này đều đem bọn sĩ phu toàn thành
ra đón. Trong trang viên của họ Uổng có một khu vườn bài trí rất đẹp gọi là Sư tử lâm.
Nơi đây được coi là một trong nhưng thắng cảnh nổi danh nhất
miền Giang Nam. Lần Nam tuần đầu tiên vào năm thứ hai mươi ba niên hiệu
Khang Hi, hoàng đế đã có tới Sư tử lâm một lần. Ngài đối với Uổng Uyển
rất thân tình. Lúc lâm biệt, ngài có thưởng cho Uổng Uyển một cuốn sổ
trong có thủ bút của ngài. Cuốn sổ này tất nhiên truyền tới tay con trai Uyển, lúc đó mới có tám tuổi, tên gọi Uổng Nguyên. Quang cảnh tiếp giá
của cha xưa thế nào, Nguyên đều nhớ rành rọt trong đầu.
Khi Thánh Tổ trở về kinh, những đồ ngự dụng đều được cất giấu và niêm phong cẩn thận. Lần Nam tuần thứ sáu này tính ra cách lần đầu có
hơn hai mươi năm.
Thế rồi công văn hoả tốc tới Tô Châu. Đám thân sĩ lại một phen
cuống quýt cả lên. Viên tuần phủ Tô Châu ngày đêm chỉ có một việc bàn
tính với đám thân sĩ về việc tiếp giá. Trong bọn thân sĩ, tuy có kẻ đã
tiếp giá lần trước nhưng ngoài hai mươi năm rồi, họ đã già lẫn cả, không còn làm được việc gì.
Còn mấy kẻ hậu bối chưa từng được thấy quang cảnh vĩ đại này,
thử hỏi có dám ra đảm nhiệm trọng trách tiếp giá? Tuần phủ Tô Châu bèn
đưa ra ý rằng, lại để gia đình họ Uổng nhận lĩnh việc này, lấy cớ rằng
hoa viên nhà họ Uổng rộng lớn, gia tài lại sung túc, bao nhiêu những đồ
ngự đụng ngày trước vẫn còn nguyên cả.
Uổng Nguyên thấy mọi người chứng khẩu đồng từ, cũng chẳng cần thoái thác làm gì nữa, liền nhận lĩnh trách nhiệm.
Gia đình họ Uổng có hai vị tiểu thư, nàng lớn tên Liên, nàng nhỏ tên Dung. Cả hai nàng đều mặt tươi như hoa phù dung, thân hình lả lướt
như cành dương liễu. Cô chị mười bảy, còn cô em mười sáu - cái tuổi của
xuân tình đương độ.
Thành Tô Châu khắp ba hạng người, từ thượng lưu, trung lưu cho
tới hạ tiện, ai chẳng nghe danh hai người đẹp của nhà họ Uổng. Biết bao
nhiêu quan gia quý tộc đã tới cầu hồn, nhưng Uổng Nguyên đều một mực từ
chối, chỉ vì y không muốn xa hai cô con gái quý của mình. Liên và Dung
đang ở trong hoạ viên, nhưng vì việc hoàng đế sắp tới nên phải đi vào
nội viên, chẳng mấy chốc ngày mồng một tháng hai đã tới. Hôm đó người ta thấy hai tên nội giám đem mật dụ của hoàng đế tới Tô Châu, xông thẳng
vào nha môn phủ đài. Viên phủ đài Tô Châu vội mở ra xem mật dụ, bèn cho
quan lại, thân sĩ Tô Châu tới Trấn Giang đón rước. Hai tên nội giám còn
nói thêm:
- Thánh chỉ của hoàng thượng còn bảo bọn tôi tới Tô Châu kiếm
cho kỳ được một trăm cô gái con nhà lương gia sẵn sàng để đợi lệnh. Vậy
xin cố lo cho đủ số trăm người trong ba ngày để bọn tôi mang đi.
Phủ đài nghe tới chuyện này, tuy thấy chẳng ra thể thống gì cả
nhưng không thể bác bỏ, ngay đêm hôm đó, triệu tập thân sĩ trong vùng
lại để hàn tính. Một vị thân sĩ đứng lên nói:
- Việc này dễ quá mà! Xứ Tô Châu nhà mình có thiếu gì cô đào con hát. Ta chỉ cần chọn đúng một trăm đứa xinh đẹp, ăn mặc lịch sự rồi đưa đi là xong.
Viên phủ đài nghe ra, vỗ tay khen hay, rồi tức khắc cho sai nha
đi lùng khắp nơi, bắt tất cả cô đào, con hát, đĩ điếm về nhà, đích thân
chọn lựa đúng một trăm đứa, giao cho hai tên nội giám mang đi. Đồng
thời, ông tập họp tất cả văn quan võ tướng, cùng thân sĩ toàn tinh tới
Trấn Giang đón giá.
Cách đó vài hôm, hoàng đế ngồi thuyền tới Hữ Dả quan rồi lên bờ. Mười sáu tên thái giám khiêng một cỗ kiệu chạm rồng, chạy thẳng vào hoa viên của Uổng thân sĩ mới hạ xuống. Uổng Nguyên thấy hoàng đế giáng lâm nhà mình, lấy làm vinh hạnh đến tột bực, suốt ngày chờ chực ngoài cổng. Hoàng đế ngự trong hoa viên, ngày đêm vui đùa với bọn cô đào, con hát,
nào gối dài, nào chan ấm, phè phỡn hành lạc. Phía ngoài. phu đài cho tập hợp hết bọn quan chức đứng đợi lệnh. Bọn thái giám canh cửa không cho
một kẻ nào vào trong. Đám quan lại đành phải hùn nhau kiếm một số tiền
là mười vạn lạng bạc "hiếu kính" lũ thái giám, lúc đó chúng mới chịu vào thông báo giùm. Hoàng đế nhất nhất truyền kiến. Người cuối cùng là Uổng Nguyên, được vào trò chuyện mãi tới canh hai mới lui gót trở ra.
Từ hôm đó, hoàng đế ngày nào cũng truyền gọi Nguyên vào hầu
chuyện. Nguyên cũng chuẩn bị rất nhiều những món ăn đồ chơi đặc biệt để
dâng lên ngài. Quan hệ giữa hai người thành ra hết sức mật thiết. Hoàng
đế bảo Nguyên:
- Ngày xưa, nhiều vị vua có thiếu gì bạn áo vải. Nay trẫm muốn cùng khanh kết nghĩa anh em có được không?
Nguyên nghe xong, giật mình hoảng sợ, vội bò sát xuống đất, dập đầu lia lịa, tâu:
- Kẻ vi thần thực không dám thu mệnh!
Hoàng đế đích thân bước tới nâng Nguyên dậy mà bảo:
- Xin cho mời phu nhân và tiểu thư ra đây cho Trẫm được gặp một lần và nhận làm chỗ người nhà.
Lệnh của hoàng đế ban ra, thử hỏi Nguyên làm sao dám trái lời.
Nguyên chạy đi gọi vợ là Phương thị và hai con gái là Uổng Liên, Uổng
Dung ra hoa viên. Được ra chầu vua, hai cô Liên, Dung trang điểm lộng
lẫy, vàng ngọc châu báu gắn đầy người, môi son má phấn, mắt phượng mày
ngài, xinh đẹp không để đâu cho hết.
Hoàng đế vừa nhìn thấy bóng hai nàng đã hết lời khen ngợi. Ngài
hạ lệnh đặt tiệc, tự tay chuốc chén, bồi tiếp ba mẹ con. Tiệc vui kéo
dài mãi tới lúc trăng lên đèn mở, thế mà ba mẹ con vẫn chưa thấy ra cho. Nguyên trong lòng lo lắng cuống quýt cả lên nhưng biết làm sao được kia chứ? Nguyên đứng phía ngoài cống, lăng xăng chạy đi chạy lại, hòng có
tí tin tức gì lọt ra. Nhưng buồn thay, tịnh vô âm tín! Mong mãi Nguyên
mới thấy vợ bước ra, hỏi tới con gái, thì thị chỉ thở dài và lắc đầu
nói:
- Hoàng thượng lưu chúng lại trong phòng rồi?
Nguyên nghe xong như bị ai nện cho một cùi vào đầu, chỉ còn biết tròn xoe đôi mắt và giậm chân xuống đất thình thịch, nhưng rồi cũng
đành chịu chứ làm gì hơn được nữa.
Luôn một hơi ba ngày ba đêm, hoàng đế chẳng truyền ai cả. Qua
ngày thứ tư, tên thái giám canh cửa bỗng truyền lệnh, nói hoàng thượng
muốn hồi kinh. Bọn văn quan võ tướng Tô Châu lại một phen chạy vạy đến
bở hơi tai. Họ rối rít, nào nghị trình này nọ để tống tiễn bọn thái
giám, nào lo liệu mười sáu chiếc quan thuyền để đưa hoàng đế xuống ngự.
Uổng Nguyên cũng theo sau đoàn người tiễn đưa. Chính mắt Nguyên
nhìn thấy hai cô con gái cưng được đưa xuống thuyền. Rồi một tiếng thanh la vang dậy, long kỳ kéo lên, ngự thuyền rời bến và xa dần.
Uổng Nguyên tiễn đưa thánh giá xong, cúi đầu buồn bã trở về. Vừa về tới nhà Nguyên đã thấy rất đông thân hữu kéo tới để chúc mừng. Ai
cũng nói chẳng bao lâu nữa y sẽ trở thành quốc trượng.
Qua ngày thứ ba, bỗng từ nơi phủ đài một viên võ tuần bộ chạy tơi bảo:
- Hôm nay, phủ đài vừa mới tiếp được một công văn rất khẩn yếu, xin mời ngài tới gấp nha môn để thương nghị.
Uổng Nguyên nghe xong chẳng hiểu sự thể ra sao, đành phải leo
lên kiệu đi ngay tức khắc. Khi tới phủ nha, Nguyên thấy vị phủ đài cùng
khá đông quan lại, thân sĩ ngồi trong, vẻ mặt người nào cũng hớt hơ hớt
hải, lấm lét nhìn vào chiếc án thư phía trên có đặt một bức công văn.
Bọn này thấy Uổng Nguyên vào liền cầm đưa cho Nguyên xem, thì ra đó là
bức công văn từ Hoài Ân phủ gửi tới, nội dung nói thánh giá qua địa phận vào ngày mai mười bốn tháng hai và tính ra thì ngày hai mươi sáu sẽ tới Tô Châu.
Mọi người có vẻ lo sợ, vì lúc này họ mới biết rõ hoàng đế hôm
trước là hoàng đế giả, còn người sắp tới đây mới chính là Khang Hi hoàng đế. Kẻ nào nhìn thấy bức công văn đó còn được, chứ với Uổng thân sĩ thì thật là cả một chuyện trời sập trước mắt ông. Ông giậm chân thình thịch xuống đất, miệng lắp bắp nói:
- Hỏng… bét! Hỏng… bét rồi! Tội nghiệp cho hai con gái tôi! Trời ơi!
Uổng Nguyên còn chưa nói hết câu thì hai dòng lệ đã tràn xuống
đôi gò má xám ngoét. Bọn quan lại đứng chung quanh, kẻ dỗ người khuyên.
Có kẻ an ủi:
- Đứa nào cả gan giả dạng hoàng đế, bọn tôi thế nào cũng tầm nã
được, đem về kêu án tử hình. Lúc đó hai vị thiên kim tiểu thư sẽ lại "châu về hợp phố" thôi.
Phủ đài cũng lên tiếng:
- Câu chuyện nầy xảy ra tất cả bọn ta đều liên can. Vậy xin chư
vị nhân huynh tuyệt đối giữ kín, chớ có tiết lộ cho bất cứ kẻ nào khác
hay được. Thử hỏi chư vị còn muốn sống nữa hay không?
Lời nói nửa như nhắn nhủ nửa như doạ nạt này quả đã làm cho bao
nhiêu cái mồm câm lại như hến. Rồi không ai bảo ai, tự biết phận mình
tất cả lặng lẽ rút để mai đây lại phải lo liệu chương trình tiếp giá lần nữa.
Tháng hai ngày hai mươi sáu, hoàng đế giá lâm Hồ Khẩu, rồi ba
mươi, lên chơi Đặng uý sơn. Lão hoà thượng Tế Chí chùa Thánh Ân năm xưa
tiếp giá thì còn trẻ, nay đã bảy mươi ba tuổi, đầu tóc bạc phơ, quỳ mọp
ngoài sơn môn đón giá. Khang Hi hoàng đế sai thái giám ban thưởng cho
nhà sư già hai cân nhân sâm và không biết bao nhiêu là hoa trái, dưa cáp mật, quả phiên bà, trái nho, trái tùng… Thánh tổ giơ tay ra vuốt mớ râu tóc bạc phơ của hoà thượng Tế Chí rồi nói:
- Hoà thượng già rồi. Đến ngày mười hai tháng ba, hoà thượng nên tới Ký Sương Viên núi Huệ Sơn vùng Vô Tích mà ở.
Ký Sương Viên là khu vườn trong đó có cây cổ thụ, thân cây có
tới ba người ôm mới xuể. Thánh tổ thường đi bách bộ dưới bóng cây này.
Sau đó, khi về kinh rồi, ngài thường có thư hỏi xem cây cổ thụ còn
không. Hồi đó, có một vị thân sĩ tên gọi Tra Thận Hành, có làm một bài
thơ nói cây được binh an gởi trình hoàng đế. Bài thơ như sau:
Cao tận mây xanh khoát mấy ôm.
Khum khum cành lá hỏm nên vòm
Bình an xin báo thiên nhan rõ.
Danh mộc Giang Nam chỉ một chòm
Sau khi gặp hoà thượng Tế Chỉ ở Hoa Sơn, hoàng đế về tới kinh,
trong lòng thường nhắc nhở tới. Về sau, khi thánh tổ sáu mươi chín tuổi
thì hoà thượng Tế Chí đã tám mươi tám thế mà vẫn còn khang kiện. Ngài
bèn sai một viên quan tới Vô Tích đón hoà thượng về kinh, cử hành Thiên
Tẩu Yến. Thiên Tẩu Yến là gì? Đó là yến tiệc do nhà vua thết một ngàn
ông lão từ sáu mươi lăm tuổi trở lên, bất luận là Mãn hay Hán.
Các vị bô lão này được đưa tới đây bằng noãn kiệu, dự yến liên
tiếp trong ba ngày. Hoà thượng Tế Chí được mời lên ghế chủ toạ trong
buổi tiệc. Ngoài ra, hoàng đế còn bày một chiếu rượu đặc biệt toàn tế
tửu để thưởng cho Tế Chí hoà thượng.
Ngài ngồi cạnh để chuốc chén, lòng đầy vui vẻ. Ba ngày sau tiệc
mới tan. Hoàng đế ban thưỏng cho mỗi người một bức tự hoạ đem về nhà.
Suốt cả năm đó, thánh tổ hết sức hứng khoái tháng giêng tháng hai, ngài
tuần hạch Cơ Điện. Từ tháng tư đến tháng chín, ngài tuần hạch Nhiệt Hà.
Qua tháng mười, ngài tuần hạch Nam Uyển, tổ chức cuộc săn bắn. Ngài cưỡi ngựa bắn cung còn rất mạnh. Nhưng đến tháng mươi một, có một hôm, ngài
bỗng nhuốm lại bệnh, chẳng mấy bệnh đã trở thành trầm trọng. Ngài bèn hạ lệnh cho rời giá từ Nam Viên qua Sướng Xuân Viên để về dưỡng bệnh tại
Ly cung.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT