Tướng quốc Minh Châu tính đưa bọn gái đẹp vào cung cho Khang Hi hoàng
đế. Không ngờ có kẻ nào đó đến mách với tướng quốc phu nhân, bảo quan
ông lấy một lúc những ba mươi sáu cô hầu thiếp hiện đang để ở biệt thự
ngoài thành tây để ngày đêm thủ lạc. Bà tướng quốc vốn thuộc loại sư tử
Hà Đông, vừa nghe xong, tức thì tam bành lục tặc nổi lên. Bà chẳng cần
hỏi kỹ; bắt đóng xe đưa bà đi ngay tới biệt thự ngoài thành tây. Bà
không thấy quan ông ở đây mà chỉ thấy một ông giáo già. Ông giáo già lật đật đem ba mươi sáu cô gái ra bái kiến. Bà tướng quốc đưa mắt nhìn một
lượt thấy cô nào cô nấy như hoa như liễu. Bà chẳng nói một lời nào, chỉ
bảo ông giáo già rút lui. Lúc đó, bà mới cho gọi hết các cô lại gần để
quan sát và hỏi han cẩn thận. Trong bọn con gái, bà thấy có mười hai cô
đẹp nhất. Bà liền cho giữ lại rồi lập tức truyền lệnh bày tiệc thiết
đãi. Bọn con gái này vừa mới lớn lên nào đã biết gì, nói nói cười cười
ăn uống say sưa bí tỉ. Bà tướng quốc thiết đãi xong bữa tiệc, bèn lấy xe về phu.
Mọi người thấy phu nhân đi đi về về, chẳng giận mà cũng
không vui, không nói mà cũng chẳng cười đều tỏ ý kỳ lạ. Có ngờ đâu ngày
hôm sau, vào lúc tảng sáng, người ta đã thấy mười hai cô gái tuyệt sắc
được biệt đãi hôm qua đã nằm chết cong queo trên giường từ lúc nào. Tân
Mai, Lê Phượng, Kiều Hạnh, Thanh Đào, bốn ả cũng chẳng thoát được vận
số. Đến lúc rõ chuyện, quan ông tướng quốc chỉ còn biết thở vắn than
dài, cho vác mấy cái xác đi chôn chứ còn biết làm gì được hõn nữa. Từ đó quan ông sợ quan bà đến vở vía, vội đem hai mươi bốn cô cô còn lại nhất tề cho chở về quê quán hết. Nhưng rồi cũng từ đó giữa quan ông và quan
bà tình nghĩa mỗi ngày mỗi nhạt, mỗi ngày mỗi cay cú ghét bỏ. Quan tướng quốc suốt ngày chỉ uống rượu làm thơ với bọn tân khách, không thèm đặt
chân tới cửa buồng the của bà nhà nữa.
Khí quan ông được lệnh
Đông cung triệu vào đàm luận văn chương, quan tướng quốc lại có dịp bầu
bạn với đám tao nhân mặc khách, kể cũng khuây khoả đôi phần. Thái tử vốn đối tốt với ông cho nên thường giữ ông ở lại trong cung.
Hồi đó
có một vị tổng đốc Vân Quý tên gọi Phạm Thừa Động về kinh bệ kiến thấy
hoàng đế và thái tử trở thành hai con mọt sách, bèn dâng lên một tờ sớ ý nói bản triều lấy việc mã thượng mà được thiên hạ, thiết tưởng con cháu không nên bỏ phế võ công. Khang Hi hoàng đế vốn trọng Phạm Thừa Động
nên khi đọc xong tờ sớ lập tức truyền chỉ mở trường luyện từ cỡi ngựa
bắn cung trên Liễu đê trong vườn Sương Xuân Uyên. Lúc đó thái tử cùng
các hoàng tử Dân Trinh, Dân Đề, Dân Nga, Dân Đường đều đứng trước phụ
hoàng đợi chỉ. Hoàng đế bèn hạ lệnh cho thái tử và bọn hoàng tử từng cặp so tài bắn cung và các loại binh khí. Trong số hoàng tử xem ra chỉ có
Dân Trinh là bản lãnh cao cường hơn hết. Thái tử Dân Nhung bản chất văn
nhược nên việc đao cung có chiều thua xa, thậm chí cung bắn đến ba tên
mà chả có tên nào trúng đích khi đua ngựa trên Liễu đê (bờ đê có trồng
liễu hai bên), thái tử lại cũng thua nữa.
Khang Hi hoàng đế thấy
vậy bực tức quá, bèn cho gọi võ sư của thái tử tới quở trách ngay trước
mặt. Vị võ sư vô cùng xấu hổ, đến cả thái tử cũng xấu hổ không kém. Khi
về tới Đông cung, thái tử tập họp các vị sư phó lại để bàn luận.
Giữa lúc đó, có một tên nội giám vào báo cho thái tử biết bọn hoàng tử Dân
Trinh, Dân Nga có lập một võ trường ở ngoại thành để ngày đêm luyện tập. Thái tử giật mình kinh sợ. Một vì sư phó đề nghị:
- Nếu vậy, chi bằng ta cho mời mấy nhà sư Lạt ma ở Tây Sơn về dạy bí pháp bùa chú, và
cả những tay dũng sĩ về truyền thụ mười tám ban võ nghệ cho thái tử. Như thế tất không còn phải lo ngại gì nữa.
Thái tử nghe xong lấy làm hợp lý lắm, lập tức cho xây cất mật thất và võ trường ngay trong Đông
cung rồi ngày ngày theo nhà sư Lạt ma và các võ sư tới luyện tập.
Thái tử còn sai người đi khắp nơi bỏ tiền ra để mời những tay võ sĩ hiệp
khách về cùng sớm hôm giúp việc luyện võ. Cũng vì vậy nên thành Bắc Kinh hồi đó tụ tập không biết bao nhiêu là tay hảo hán. Họ thường ra phố
nhậu nhẹt chán rồi gây sự. Viên quan địa phương biết mà vẫn phái làm
ngơ.
Giữa lúc tình trạng đua tranh đến lúc khẩn trương thì bỗng
Vệ phi chết. Khang Hi hoàng đế cố nhiên là thương xót vô cùng. Ngay cả
viên quan thị vệ họ Vệ cũng bi thương không kém. Họ Vệ bèn lui ra khỏi
cung bày mưu lập kế cho Dân Trinh hãm hại thái tử.
Từ khi Vệ phi mất, Khang Hi hoàng đế đâm ra chán cả mọi sự, sống trong cung điện chẳng thấy thú vị gì nữa.
Tuy trong tam cung lục viện có biết bao nhiêu cung tần mỹ nữ bầu bạn bên
cạnh nhưng đối với ngài thực chẳng có ai bằng được Vệ phi. Suốt ngày
ngài thở vắn than dài ăn không ngon ngủ không yên. Có khi ngài nhớ tới
Vệ phi lại cũng có khi ngài nhớ phụ hoàng của ngài.
Lúc đó, quan
tài của Vệ phi được đưa ra quan ngoại mai táng. Khang Hi hoàng đế vẫn
nhớ tới tình xưa nghĩa cũ bèn lấy danh nghĩa thăm viếng Phục lang để đưa linh cữu Vệ phi tới chôn cât ở Sơn Hải quan. Chính ngài đốc suất xây
lăng đắp mộ.
Công việc tang ma đã xong, nhưng Khang Hi hoàng đế
không muốn trở về cung. Ngài bèn hạ chỉ Nam tuần, lấy cớ là đi quan sát
tình cảnh khổ cực của dân. Ngài lại hạ chỉ sai thái tử Dân Nhung lo việc quốc giám.
Sau đó, ngài cùng với văn võ đại thần, vương công bối lặc chọn đúng ngày mồng một tháng chín niên hiệu Khang Hi thứ hai mươi
ba khởi trình ra khỏi kinh đô. Quan đại học sĩ Trương Anh cùng với nội
đại thần Giác La Vũ Truất Nạp, thống lĩnh khắp triều văn võ tiễn đưa xa
giá Nam tuần.
Lần đi tuần du này hoàng đế hạ chỉ cho các châu
huyện trên đường ngài đi qua vẫn phải làm việc như thường, không được
đón rước cung đốn, nếu trái chỉ sẽ bị cách chức và hỏi tội. Ngài ngồi
trên một chiếc thuyền nhỏ của dân chúng lặng lẽ chèo tới chân núi Ngũ
Đài sơn, ngồi kiệu lên núi rồi ngừng lại nơi chùa Thanh Lương.
Nhà sư trụ trì chùa này thấy nhà vua đến bất ngờ, sợ muốn chết, vội vội
vàng vàng chạy ra tiếp giá và mời vào phương trượng. Bọn nội giám đã
chuẩn bị sẵn đèn nhang, mời ngài lễ Phật. Lễ xong Khang Hi hoàng đế bèn
hỏi:
- Trẫm nghe nói đã từ lâu có một vị cao tăng tu tại chùa. Vậy nay ở đâu?
Nhà sư trụ trì hồi đáp:
- Tâu bệ hạ! Vị cao tăng hiện thiền toạ trong thảo xá trên ngọn núi cao.
Có nhiều đàn việt muốn qua thăm nhưng người đều từ chối.
Khang Hi hoàng đế nói:
- Trẫm nhất định phải lên yết kiến ngài bằng được.
Nói đoạn, ngài bảo bọn thị vệ và nội giám ở lại chùa, chỉ ngài với một chú
tiểu sa di dẫn lộ leo ngược lên chóp núi, theo đường mòn quanh bên tả,
rẽ lên hữu: vất vả lắm mới tới nơi.
Hoàng đế mồ hôi toát ra nhễ
nhại, đành phải ngồi lại dưới gốc cây cổ thụ nghỉ mệt. Ngài phóng tầm
mắt ra xa, thấy một toà thảo xa, bèn đứng dậy bước tới. Một chú tiểu
đồng từ trong ngôi nhà đi ra hỏi, nhưng ngài không đáp, chỉ quay lại hỏi chú tiểu sa di xem vị cao tăng ở trong căn nào trong thảo xá.
Chủ tiểu chỉ vào căn bìa bên phải, ngài bèn chạy tới chỉ thấy một vị hoà
thượng râu tóc bạc trắng nhắm mắt ngồi xếp bằng tròn trên một chiếc bồ
đoàn.
Khang Hi hoàng đế chăm chăm nhìn vị hoà thượng một lúc lâu, rồi bỗng không nhịn được nữa, bèn chạy vụt vào miệng thốt lên một tiếng "phụ hoàng", đổi gối quỳ gập xuống mặt đất.
Vị hoàng thượng nghe gọi mở mắt ra nhìn, nhưng rồi lại từ từ nhắm mắt, không nói lời nào -
Người ta chỉ biết Khang Hi hoàng đế sau đó thì thào những gì không rõ,
một lúc lâu mới cáo biệt xuống núi. Đi đến giữa đường, ngài dặn dò chú
tiểu chớ có phao tin ra ngoài, đồng thời trông nom vị cao tăng nọ cho
chu đáo thì tương lai thế nào cũng có chỗ đẹp. Chú tiểu sa di vốn tính
thông minh, bèn nói: "Tuân chỉ".
Khang Hi hoàng đế rời khỏi núi
Ngũ Đài sơn bèn hướng về ngả Tế Nam tiến phát. Vì ngài có chỉ cấm hẳn
địa phương đón rước cung đốn, cho nên khi ngài tới hành cung Tế Nam quan Tuần phu Sơn Đông Tiền Ngọc suất lĩnh các tỉnh văn võ quan viên lớn nhỏ tới thỉnh an chiếu lệ rồi đều trở về phủ nha làm việc như thường.
Khang Hi hoàng đế chờ cho bọn quan lại đi hết rồi, bèn cải trang thường phục
rồi cùng một tên thị vệ thân tín lẻn ra cửa sau, tới một quán nhỏ uống
trà để hỏi dò dân tình phong tục hành vi của quan lại mãi tới lúc trời
xế chiều, ngài lại mới lẻn về hành cung.
Cơm tối xong, ngài cùng
với quan tướng quốc Trương Ngọc Thư chong đèn đánh cờ. Hai người vốn là
hai tay cao cờ nên gặp lúc kỳ phùng địch thủ thật không còn gì thú vị
hơn nữa.
Cuộc cờ kéo dài mãi tới nửa đêm mà hai tay cờ vẫn còn
hăng tiếp. Nhà vua giơ cao một con cờ, và giữa lúc đang say sưa xuất
thần, bỗng ngài nghe tiếng ngựa hí người la ngoài tường. Bọn thị vệ và
nội giám ai nấy mặt đều biến sắc. Hoàng đế một mặt hạ tay đặt mạnh con
cờ xuống bàn, một mặt sai nội giám ra ngoài tra hỏi. Một lát, tên nội
giám trở vào tâu:
- Tâu bệ hạ! Con ngựa Xích Ký của bệ hạ buộc ở hậu viên đã bị trộm lấy rồi!
Khang Hi hoàng đế nghe xong cả giận, ngẩng mặt bảo Trương Ngọc Thư:
- Con Xích Ký vốn do bộ lạc Khách Nhĩ Khác triều cống đấy! Đã bảy, tám
năm nay, trẫm chưa hề xa nó một ngày. Không ngờ tới nơi này thì bị mất
trộm. Tên trộm nào đó kể cũng táo gan thật, chẳng biết lão Tiền ở địa
phương này đã làm được những việc gì nhỉ?
Mấy lời nói này, khi
truyền tới tai Tiều tuần phủ đã khiến cho họ Tiền bạt vía kinh hồn,
tưởng như trời đất sắp sụp đổ đến nơi. Sáng hôm sau, Tiền tuần phủ vội
vã tới hoàng cung, tự bỏ hết mũ mãng, quỳ mọp ở ngoài cổng để đợi chỉ,
một mặt nhờ nội giám vào trong cầu khẩn Trương tướng quốc thế mình xin
tội trước Hoàng đế. Nhưng không ngờ sáng mai thức dậy, hoàng đế đã quên
bẵng chuyện mất ngựa tối qua rồi. Báo hại quan tuần phủ Tiền Ngọc phải
bỏ ra đến một ngàn lạng bạc mua một con ngựa màu vàng lúa, bộ mã khá
tốt, bước đi hay lắm, để đem dâng hoàng đế. Chưa hết, ông còn phải bỏ
thêm năm vạn lạng bạc hối lộ bọn nội giám thị vệ để nhờ bọn họ nói tốt
cho mình trước mặt hoàng đế.
Qua ngày thứ ba, Khang Hi hoàng đế
lại lên đường, hướng về tỉnh Giang Tô tiến phát. Tiền Ngọc tiễn hoàng đế ra khỏi thành xa đến mấy dặm mới trở về. Ông vừa bước vào nha môn thì
đã thấy một hàng chữ viết trên tường từ lúc nào, chính giữa công đường: "Kẻ trộm ngựa của nhà vua đó là Đậu Nhị Đôn tỉnh Sơn đông!"
Tuần tiễu phủ xem hết câu, bất giác giật mình đánh thót một cái. Ông tức tốc hạ lệnh đóng ngay cổng thành để ruồng bắt. Ruồng bắt đã mười ngày mà
tuyệt nhiên chẳng thấy Đậu Nhĩ Đôn hình bóng nơi nào.
Đậu Nhĩ Đôn vốn một tay đại hán nổi danh tỉnh Sơn Đông.
Suốt một giải Sơn Đông, Trực Lệ, Hà Nam, Đôn hoành hành chằng coi quan quân, pháp luật ra gì. Cái khoái nhất của Đôn là gian dâm với phụ nữ. Con gái người ta đang ngủ trong phòng tới nửa đêm, Đôn dỡ ngói nhảy xuống bắt
cóc. Vừa đặt chân vào phòng, hắn đã bảo ngay cô gái: "Đậu gia gia lại
rồi đó, hãy ưng thuận đi nghe không?" Nếu cô gái bằng lòng ưng chịu, tức thì hắn lấy chăn quấn lại cặp nách mang đi. Hắn phi thân nhảy ra, rồi
chạy một mạch về nhà tha hồ mà gian dâm. Sau khi thoả mãn, hắn lại cho
vào chiếc chăn quấn chặt mang về nhà cô gái, bỏ vào phòng như cũ. Người
con gái cài lại then cửa, rồi lên giường nằm ngủ như lúc đâu hôm, coi
như không có chuyện gì xảy ra. Thật là người chẳng biết, quỷ không hay.
Nhưng nếu cô gái giữ lòng trinh bạch không chịu. Đôn giết chết ngay,
hoặc cũng có khi cướp mang về nhà rồi không bao giờ thả ra nữa. Bởi vậy, những cô gái dù có xảo quyệt tinh quái đến đâu cũng đành phải nhẵn
nhục, mặc tình hắn làm gì thì làm. Tuy thế, đôi khi Đôn cũng cho những
gia đình nghèo túng khá nhiều tiền bạc. Bạn hữu của Đôn rất đông ở vùng
Tế Nam, thảng hoặc có kẻ giang hồ mãi võ ngang qua tỉnh thành, ắt thế
nào cũng phải tới thăm viếng hắn trước. biếu xén chút ít thì lúc đó có
làm ăn gì mới mong trót lọt, trái lại nếu không biết mà qua mặt thể nào
hắn cũng mang huynh đệ của hắn tới đánh phá cho một phen đến tới bời hoa lá không còn cách gì làm ăn được nữa.
Bỗng một năm nọ, có một
ông lão đầu lâu tóc bạc đem hai cô con gái tuyệt đẹp đến thành Tế ngay
tại miếu Thái Ngạc. Hai cô gái này đều nhỏ nhắn xinh xinh, mặc một chiếc áo xanh, một chiếc quần hồng, đi đi lại lại, múa võ làm vui khiến khán
già đứng xem ai cũng mê hồn lạc phách. Thế mà đến lúc xin tiền đều quái
lạ nhất là khán giả ai cũng lắc đấu nghẹo cổ rồi rút lui sạch, chẳng một ai cho một đồng kẽm nào. Ông lão chưng hửng ngạc nhiên, cúi đầu buồn
bực vô hạn. Giữa lúc đó bỗng có một tên đại hán lướt tới trước mặt ông
lão giơ cao bàn tay to tướng y như chiếc nạng đập mạnh xuống hai ông lão rồi quát lớn.
- Thằng giặc già này! Mi có nhận ra Đậu Nhĩ Đôn đất Sơn Đông này không?
Ông lão nghe quát, liền quay đầu lại ngước mắt nhìn tên đại hán từ đầu tới
chân lại từ chân tới đâu hai ba lần thấy hắn đứng ưỡn ngực liếc méo hẳn
đôi mắt, một tay chống mạng vào sườn, một tay mân mê hai viên đạn sắt.
Ngắm nhìn một lát để đo dò xong, ông lão trả lời với giọng khinh khi
lạnh nhạt:
- Ai thèm biết đến mi là Đậu Nhĩ Đông, Đậu Tam Đôn mà
làm gì? Huống hồ ta làm ăn theo nghề nghiệp của ta, biết đến mi cũng vô
ích!
Câu trả lời của ông lao làm cho Đậu Nhĩ Đôn mở to mắt. trợn
trừng con ngươi, những đường gân xanh ở trên mặt nổi hẳn lên như những
chiếc dây thừng. Hắn chẳng để cho ông lão nói thêm, giơ thẳng cánh thoi
cho một đấm vào giữa ngực ông lão như trời giáng.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT