Quân Minh thiệt hại nặng nề ở Đa Bang, đang đêm chạy mấy chục km
mới dừng lại kiểm kê, Trương Phụ tái mặt khi các tướng báo
cáo chỉ còn chưa đầy 7 vạn quân. Quân Minh chán nản, mệt mỏi,
kéo lê thân tàn một mạch chạy về ải Pha Lũy. Trên đường về thu nhặt thêm một ít tàn quân, đến Pha Lũy kiểm kê lại là hơn 8
vạn, lương thảo vật tư bị đốt sạch. Trương Phụ một mặt bố trí tàn quân thủ ải, mặt khác viết biểu chịu tội cấp tốc gửi
về Đại Minh.
Ở Đa Bang, quân Minh bị bắt sống 70 ngàn, bị ép phải tự mình
xây dựng 7 doanh trại tù binh, bên ngoài chôn đầy thuốc nổ, chỉ
cần quân Minh dám làm loạn lập tức sẽ đem bọn chúng thổi bay
lên trời. Số phận của đám quân Minh này phụ thuộc vào giai
đoạn đàm phán tiếp theo, nếu nhà Minh không chịu trả tiền
chuộc, hội Liên Việt sẽ đem bọn chúng ném vào các mỏ khai
thác, các công trường thi công đường sắt...
----------
Nam Kinh, Ngự Thư Phòng
Lại có vài chục món báu vật bị ném rơi tung tóe trên mặt
đất. Hoàng đế Chu Lệ nhận được thư báo của Trương Phụ, trong
cơn giận dữ đem vô số bảo vật ném rơi, lại giận dữ lôi mấy tên thái giám, cung nữ ra đánh đòn đến chết... đúng là khổ thay
cho đám dê phải hầu hổ dữ, chết lúc nào cũng không biết.
Tin dữ ào ào đưa đến, quân Ngõa Thích tập hợp 2 vạn kỵ binh chuẩn bị vượt trường thành, tấn công nhà Minh.
Tộc Ngõa Thích là một chi của Mông Cổ, trước kia sinh sống du
mục ở phía Nam hồ Baikan. Khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất các
bộ tộc Mông cổ, Ngõa Thích quy phục Thành Cát Tư Hãn rồi dần
dần di cư về phía Nam sông Diệp Ni Tái, phát triển về phía Nam, mở rộng thế lực đến tận sông Táp bồn và vùng lòng chảo
Chuẩn Cát Nhĩ.
Mấy tháng chiến tranh với Đại Việt, nhà Minh đã cử người vỗ
về tộc Ngõa Thích, nhưng tin quân Minh càng đánh càng bại làm
thái sư Ngõa Thích là Dã Mộc Chân nổi lên ý muốn khôi phục
nhà Nguyên, liền đem quân về phía Tây, xây dựng quan hệ thông gia
với các vệ Sa Châu và Xích Cân Mông Cổ. Đến tháng 7 năm 1405,
Dã Mộc Chân đánh Cáp Mật vệ, thủ lãnh Đảo Ngõa Tháp Thất Lý cầu viện nhà Minh, nhưng Minh Thành Tổ đang chia quân đánh Đại
Việt nên phớt lờ lời cầu cứu của y, buộc Đảo Ngõa Tháp Thất
Lý phải đầu hàng quân Ngõa Thích.
Tháng 10 năm 1405, nghe tin quân Minh đại bại, thái sư Dã Mộc Chân tập hợp quân các bộ tộc Mông Cổ, sẵn sàng nam tiến.
-------
Cũng vào tháng 10 năm 1405, shogun Ashikaga tuyên bố mộ binh lệnh, mộ binh được 100 ngàn túc khinh cùng 20 ngàn samurai, ào ào
vượt biển đánh vào triều tiên. Vua triều tiên là Lý Thành Quế
một mặt vội vàng sai người trấn giữ các vùng duyên hải, một
mặt sai người cầu viện nhà Minh. Nhưng nhà Minh lúc này ốc
không mang nổi mình ốc, còn hơi sức đâu mà cứu viện triều tiên
nữa.
Tháng 11 năm 1405, Nguyễn Biểu nhận lệnh của hoàng đế Trùng
Quang đi sứ Đại Minh. Lâm Tú Viên ầm ĩ đòi đi, tuyên bố đòi
quyền lợi lớn nhất cho Liên Việt, nhưng lo lắng nhà Minh chó
cùng dứt dậu, Mạnh và hội Liên Việt không cho nàng đi, cử nàng đi sứ Nhật Bản...
--------
Nguyễn Biểu, quê làng Bình Hồ, huyện La Sơn, trấn Nghệ An. Ông
đỗ Thái học sinh cuối thời Trần, hiện là tham tán bộ ngoại
giao, dưới quyền Lâm Tú Viên. Tuy có chút gúc mắc việc mình
phải làm việc dưới quyền nữ nhân, nhưng Nguyễn Biểu cũng chăm
chú theo học các kỹ năng ngoại giao. Lâm Tú Viên cũng biết ông
là người tài, cũng chú tâm bồi dưỡng.
Trước khi đi sứ, vua Trần Trùng Quang làm bài thơ “Tiễn Nguyễn Biểu đi sứ”
Mấy vần thơ cũ ngợi hoàng hoa
Trịnh trọng rầy nhân dựng khúc ca
Chiếu phượng mười hàng tơ cãn kẽ
Vó câu ngàn dặm tuyết xông pha
Tang bồng đã bấm lòng khi trẻ
Khương quế thêm cay tính tuổi già
Việc nước một mai công ngõ vẹn
Gác lân danh tiếng dọi lầu xaNguyễn Biểu cũng làm một bài thơ họa lại
Tiếng ngọc từ vâng trước bệ hoa
Ngóng tai đồng vọng thuở thi ca
Đường mây vó ký lần lần trải
Ải tuyết cờ mao thức thức pha
Há một cung tên lồng chí trẻ
Bội mười vàng sắt đúc gan già
Hổ mình vả thiếu tài chuyên đối
Dịch lội ba ngàn dám ngại xaNgày 10 tháng 11, đoàn sứ thần Đại Việt đến ải Pha Lũy. Trương Phụ mở tiệc đón sứ đoàn, bày đầy binh khí trên giá, lại cho
đao phủ cầm đao đứng đầy ở cửa. Nguyễn Biểu không sợ hãi, đi
xuyên qua hàng đao phủ, tay cầm cây đao này, lại sờ thanh kiếm
nọ. Trương phụ thấy thế liền hỏi
- Sứ thấy vũ khí của mỗ thế nào? Có sắc bén không?
Biểu ung dung trả lời
- Rất sắc bén, chỉ tiếc...
- Tiếc gì? – Phụ hỏi
- Chỉ tiếc sắc bén thế cũng không phá được ải Đa Bang
Phụ nghe thế thì đỏ hết cả mặt, không biết là xấu hổ hay là giận dữ.
Lúc vào bên trong trướng bồng, Nguyễn Biểu thấy một bức tranh
rất đẹp, nhưng trông có vẻ kỳ lạ. Lại gần mới thấy đó là
một bức tranh làm bằng tai người ghép lại, không biết Phụ đã
giết bao nhiêu người mới có thể làm được bức tranh này. Quan
sát kỹ, Biểu còn giật mình khi thấy có những cái tai bé xíu, rõ ràng là tai của trẻ sơ sinh. (Trương Phụ nổi tiếng về việc giết người bằng cách mổ bụng, rán mỡ, moi lấy trẻ sơ sinh cho vào cối giã)
Trương Phụ cười gằn một tiếng, vỗ tay. Một người lính hầu bê
một mâm đồ ăn phủ khăn lụa đỏ cùng một bầu rượu vào. Phụ
cười nói
- Giờ đã quá trưa, mới sứ thần cùng mỗ dùng bữa.
Tấm vải đỏ được gạt ra, để lộ bên trong là một quả sơn màu
nâu, khảm xà cừ, đậy nắp nghiêm trang. Nguyễn Biểu cùng Trương
Phụ chia ra chủ khách, cùng ngồi xuống. Lúc này, lính hầu của Phụ mở nắp quả, để lộ bên trong một cái đầu người luộc chín để trên một cái đĩa bạc sang trọng. Gương mặt còn để lộ ra
sự kinh hãi, nhe răng trợn mắt rất ghê rợn. Nguyễn Biểu hơi
sửng sốt nhưng sắc mặt vẫn không thay đổi, ung dung rót rượu,
cầm đôi đũa ngà và dao khoét đôi mắt chấm muối rồi nhấm với
rượu, rồi ung dung nói một mình, nhưng thật ra cốt là để cho
Trương Phụ nghe thấy
- Chẳng mấy khi mà người Nam được ăn đầu người Bắc luộc!
Phụ tái mặt, nhưng cố lấy bình tĩnh nói
- Nghe nói sứ thần là người giỏi thơ văn, không như Phụ này là
kẻ võ biền. Nay hữu duyên gặp nhau đây, không biết sứ thần có
thể làm một bài thơ cho Phụ này được mở rộng tầm mắt được
không?
Nguyễn Biểu chắp tay nói
- Tướng quân đã yêu mến, vậy Biểu xin làm một bài thơ tặng tướng quân
Xong rồi đọc luôn
Ngọc thiện trân tu đã đủ mùi
Gia hào có thêm cỗ đầu người
Nem công chả phượng còn chưa béo
Thịt gụ gan lân cũng kém tươi
Ca lối lộc minh so cũng một
Đọ bề vàng sắt trội hơn mười
Kia kìa ngon ngọt tày vai lợn
Tráng sỹ như Phàn ( * ) tiếng để đờiĐọc xong thì ung dung đứng dậy, cười lớn đi về dịch trạm nghỉ
ngơi, để lại Trương Phụ gương mặt hết đỏ lại tái, tái chán
lại đỏ...
Ngày hôm sau, đoàn sứ thần lại lên đường tiến về Nam Kinh. Phụ
đích thân đi tiễn, nhìn theo bóng đoàn sứ thần rồi chán nản
nói
- Thật là một bậc tráng sỹ, hào kiệt nước Nam. Có người như
thế, chúng ta làm sao có thể chinh phục Giao Châu được.
-----------
Đầu tháng 11, đoàn sứ thần đến Nam Kinh. Lúc này, thái sư Dã
Mộc Chân cũng tiến đánh Đại Minh, binh chia 4 đường:
Đại hãn Thoát Thoát Bất Hoan lĩnh quân Sở Bộ cùng Ngột Lương Cáp đánh Liêu Đông
Biệt tướng Hãn Bất Lí Hoa tấn công Cam Châu (Trường Dịch, Cam Túc)
A Thích Tri Viện đánh Tuyên Phủ
Dã Mộc Chân đánh Đại Đồng.
Từ khi nhận được tin quân Mông Cổ hội binh, Minh Thành Tổ đã sai sứ đến các phủ Tuyên Phủ, Đại Đồng chỉnh đốn quân bị để đối phó.
Lúc này Nguyễn Biểu tiến vào Nam Kinh, đưa biểu xin cầu hòa,
yêu cầu nhà Minh trả lại ải Phá Lũy, bồi thường chiến phí và trả tiền chuộc 7 vạn quân Minh với giá 70 vạn lượng bạc
trắng. Chu Lệ giận tái mặt, các đại thần nhà Minh kêu gào đòi đem Nguyễn Biểu ra chém. Nguyễn Biểu ung dung mắng lại rằng:
"Trong bụng toan tính cướp nước người ta, ngoài mặt lại nói láo phô
trương là danh nghĩa, trước đã hứa lập con cháu họ Trần mà bây giờ lại
âm mưu chia lập quận, huyện, không những cướp bóc của báu, mà còn tàn
hại sinh dân. Thật là quân giặc tàn ác, bạo ngược"
Đồng thời, Nguyễn Biểu cũng đem lời nhắn của Mạnh nói lại
với quân Minh: trên chiến trường giết người là chuyện bình
thường, nhưng nghe nói hai nước giao tranh, vốn không chém sứ
giả. Đó là người văn minh làm vậy. Đại Minh xưng là thiên triều thượng quốc, nếu có làm việc trái với nhân hóa, trái lễ,
vậy Đại Việt cũng không ngại đem Nam Kinh biến thành Ung Châu.
Nghe đến đây, toàn thể văn võ trong triều cũng giật mình rồi.
Minh Thành Tổ dù tức giận vô cùng, nhưng đành phải nén giận,
sai người hộ tống sứ thần về sứ quán nghỉ tạm, tự mình xem
thư cầu hòa của Đại Việt. Càng xem lại càng tức giận, cuối
cùng lại đập phá chục món đồ quý nữa mới xem như nguôi ngoai.
Trong thư, Lâm Tú Viên dùng bút pháp cứng rắn, chỉ ra cuộc
chiến của nhà Minh là phi nghĩa, vô cớ xâm lược Đại Việt là
sai trái... rồi nàng đòi nhà Minh thực hiện các điều sau
1- thực hiện tự do giao thương, không thu thuế quan.
2- Xóa bỏ quan hệ phụ thuộc bao lâu nay, yêu cầu Đại Minh tôn
trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Đại Việt, bỏ tiến
cống, bỏ xưng thần, hai nước coi nhau như anh em... bla bla... (Cái này hoàn toàn là viết cho có, ai mạnh thì thắng mà thôi)
3- Nhà Minh xâm lấn, giết hại tướng sỹ, dân chúng Đại Việt,
phải bồi thường cho Đại Việt 300.000 lượng bạc trắng
4- Quân Minh đốt phá chiến thuyền, nhà cửa, chiến lũy, nhà Minh phải đền cho Đại Việt 50.000 lượng bạc trắng
5- Quân Đại Việt anh dũng đánh thắng quân Minh, đem 70.000 quân
Minh bắt làm tù binh, trong đó có 3000 tướng sỹ cao cấp. Đại
Việt yêu cầu mỗi binh sỹ chuộc bằng 4 lượng bạc, sỹ quan chuộc bằng 10 lượng bạc, tổng cộng là 350.000 lượng bạc trắng.
6- Đại Việt hứa sẽ không sử dụng khí độc đối phó với quân dân nhà Minh trong bất kỳ tình huống nào
Đến ngày 15 tháng 11, tin dữ liên tục bay về Nam Kinh, hoàng đế
Đại Minh Chu Thành Tổ đành phải đồng ý kí hiệp ước hòa bình, sử gọi là hiệp ước Nam Kinh 1405. Nhà Minh mặc cả như đi chợ,
cuối cùng đem bồi thường còn 20 vạn lượng bạc, cùng với 3 vạn lượng bạc đổi lấy 3000 tướng sỹ, còn binh lính, Đại Minh
triều hoàn toàn đem bọn họ vứt bỏ. Đám văn thần võ tướng nhà Minh lại càng mong Đại Việt đem đám lính này giết chết, khơi
dậy thù hận dân tộc, sau này càng dễ lấy cớ xâm lược Đại
Việt. Còn hiệp ước, trước nay viết ra là để xé bỏ mà.
( * ) Phàn Khoái, công thần khai quốc nhà Hán, bảo vệ Lưu Bang khỏi bị Hạng Võ giết trong bữa tiệc Hồng Môn Yến