“Có điều gì mà không thể nói ở nhà? Sao phải ra đây? Hay là cô mới được thưởng lớn cuối năm, định thết đãi?” Tử Phóng choàng chiếc áo lông vào lưng ghế, cầm thực đơn nghiên cứu tỉ mỉ.
Tư Dao dã phá lệ, hẹn Tử Phóng đến nhà hàng “Tùng Viên” bên cạnh tiểu khu “Ốc đảo quí tộc”, nói với thái độ không mấy hào hứng: “Thưởng cuối năm à? Tôi xin nghỉ quá nhiều để đi điều tra, không bị trừ lương là may rồi… Hôm nay không chỉ có chúng, còn có một cao nhân nữa.”
“Còn siêu hơn tôi?”
“Ít ra hai người cũng đã nói chuyện qua điện thoại với nhau – anh ấy là tiến sĩ của đại học Giang Kinh, tên là Trương Sinh”.
Tử Phóng cười vang: “Tôi nhớ ra rồi, lần đó cô bị Dục Chu bắt cóc, anh ta từng gọi điện cho tôi, hỏi thăm tung tích của cô. Gã ấy khá thú vị, có một chút gì không giống người thường.”
“Thôi nào, nếu so sánh kỹ, thì mấy người chúng ta ai cũng có chút gì không giống người thường”. Tư Dao giơ tay xem đồng hồ. “Tuy vậy, quan niệm về thời gian của anh chàng này có vẻ tệ quá, đã muộn nửa giờ rồi.”
Lại đợi thêm một lúc, cuối cùng Trương Sinh cũng tới, tò mò nhìn ngang ngó dọc.
Tử Phóng chế nhạo: “Tiến sĩ Sinh! Lúc mẹ anh có mang anh, không biết là trai hay gái, chắc chắn cha mẹ anh đã từng bàn bạc, nếu sinh con trai sẽ đặt tên là Trương Sinh, nếu sinh con gái, nhất định sẽ đặt là Trương San San(1), đúng không?”
Trương Sinh ngớ người: “Kìa sao anh nói tò mò, nói linh tinh như vậy?”
Tư Dao lườm Tử Phóng, rồi chỉ đồng hồ, Trương Sinh hiểu ra, cười cười: “Tôi đến muộn. Rất xin lỗi, muộn mất rồi; tôi có cái tật hễ ngồi trước máy tính là quên béng cả thời gian, đã bắt các bạn chờ lâu. Dao Dao, sao lời của bạn trên điện thoại nghe bí hiểm thế?”
“Thứ nhất, đây là chuỗi ký tự và chữ số do Viên Thuyên để lại cho cha mẹ cô ấy trước lúc chết, còn dặn học phải chuyển cho tôi. Ai có thể giúp tôi kiểm tra xem nó có ý nghĩa gì? Có phải mật mã hay không?” Tư Dao chỉ chuỗi ký tự và chữ cái trên bì thư. Tử Phóng và Trương Sinh cúi gần để xem, quả nhiên là một chuỗi ký tự không có đặc trưng gì riêng biệt: LW586136697400C.
Tử Phóng lắc đầu nói: “Tôi biết khó nên thoái lui, thứ trừu tượng thế này chỉ có thể giao cho tiến sĩ Sinh.”
Trương Sinh cẩn thận đọc đi đọc lại mấy lần, rồi lẩm bẩm “Không phải nó, quả là có cảm giác đã từng nhìn thấy, nhưng xem ra nó chẳng có đặc trưng gì.”
“Cái thứ hai là một bức ảnh, các anh xem, nhất định phải bình tĩnh, nếu không sẽ làm đổ đồ uống trên bàn mất.” Tư Dao đưa bức ảnh lấy được trong bụng con sóc ra trước mặt Trương Sinh và Tử Phóng, “Đây là bức ảnh chụp cầu Bộ Nhai ở Tân Thường Cốc, Trương Sinh đã từng nhìn thấy cảnh quan nơi này, đúng không?”
Tử Phóng và Trương Sinh cùng kêu lên “ôi”, mắt dán vào người thiếu nữ xinh đẹp trên bức ảnh.
“Lẽ nào là cô ta?”
Tử Phóng cuối cùng cũng đã hiểu được dụng ý tại sao Tư Dao lại chọn nhà hàng này, mà không ngồi nhà, để cùng bàn bạc phương hướng điều tra.
“Không thể tưởng tượng được, sao có thể là cô ta nhỉ?” Sau khi bị choáng, Tử Phóng vẫn nhắc lại. Trương Sinh cũng dã từng gặp Lịch Thu, trong đầu cố gắng liên hệ bức ảnh này với những gì mà Tư Dao gặp phải. Anh lật phía sau tấm ảnh, lắc đầu nói “Ảnh không ghi ngày tháng, không rõ chụp từ bao giờ. Nếu những người trên ảnh đều đã từng đến hang quan tài, thì không biết họ còn sống hay không”.
“Điểm này tôi có thể trả lời bạn: ít nhất còn một người đang sống. Anh chưa từng gặp ‘Tiên nữ’ này à?” Tử Phóng chỉ vào Lịch Thu.
“Đương nhiên tôi biết “tiên nữ” mà anh nói. Nhưng bức ảnh này giống như chụp từ xa, tiên nữ lại đeo kính râm, rất khó phán đoán 100% là cô giáo Thu. Vả lại, nếu người trên tấm ảnh này đúng là cô ta thì anh dựa vào đâu để bảo cô ta còn sống?” Trương Sinh nói một cách nghiêm túc.
“Sao? Anh có ý gì vậy? Tức là ngôi nhà của chúng tôi có ma à? Đây là một cách nói mới mẻ quá nhỉ.” Tử Phóng nói có phần giễu cợt.
“Thôi nào, trong khi còn chưa biết rõ sự thật, chúng ta có thể bình tĩnh một chút để điều ta không? Anh Tử Phóng, nói thực tôi rất ngại khi phải nói ra điều này: có thể điều tra về con người của Lịch Thu không?” Tư Dao cảm thấy mình đang làm một việc gì sai trái.
“Không cần cô nói tôi cũng đi điều tra, lòng hiếu kỳ có thể khiến ta chết dở mà!”
Trương Sinh cảm thấy có gì đó không phải lắm, lúc này mới nhớ ra, hỏi: “Kỳ lạ quá, mấy người đều ở cùng một nhà, tại sao không hỏi trực tiếp cô ta?”
Tử Phóng và Tư Dao nhìn nhau, lập tức đều cười vang, Tư Dao nói: “Đại khái là vì tôi vẫn bị chột dạ, những gì tôi trải qua cách đây không lâu mách bảo tôi: bên cạnh ta, ai rất không giống người xấu có lẽ lại là người nguy hiểm nhất. Trực tiếp hỏi cô ta, nếu cô ta trả lời qua loa cho xong thì sao? Trái lại sẽ còn làm rối loạn sự phán đoán của tôi. Huống hồ đại ca Tử Phóng này không thể để cái hứng thú điều tra tuột khỏi tay mình, đúng không?”
“Không sai chút nào, thú vui lớn nhất của điều tra là quá trình, trong khi Lịch Thu không hề phòng bị, tôi tin rằng có thể điều tra ra những tư liệu giá trị nhất. Câu hỏi lớn nhất lúc này là…”
“Bạn lấy được bức ảnh này ở đâu?” Trương Sinh đã cướp lời hỏi trước.
Tư Dao kể lại cho hai người nghe chuyện cô đi tìm con mèo Linda hôm qua. Tử Phóng vẫn ngồi ngay ngắn, còn Trương Sinh lại như ngồi trên bàn chông.
“Ai gửi tấm ảnh này cho cô? Bất kể kẻ đó là ai, chắc chắn hắn là kẻ rồ dại.” Tử Phóng điểm lại những người bạn của Tư Dao, chỉ còn có Thường Uyển. Thường Uyển từ khi bị Lâm Mang lợi dụng lừa dối, suýt nữa thành trợ thủ của anh ta mấy ngày này giống như một đứa trẻ luôn giật mình vì sợ hãi, khiến Tư Dao phải thường xuyên an ủi. Chẳng có lý gì mà nghi ngờ Thường Uyển.
“Tôi nghĩ có lẽ tôi biết đó là ai. Ông già mặc áo mưa. Bây giờ tôi càng ngày càng cảm thấy mọi điều đều do ông ta thao túng. Từ lần đầu tiên nói ra lời nguyền “Đau thương đến chết”, ông ta lần lượt có mặt ở hiện trường các vụ tai nạn của mấy người bạn tôi, luôn khiến tôi cảm thấy đây là một trò chơi gì đó, một loại trò chơi cực kỳ tàn nhẫn. Lâm Mang rồi Dục Chu cũng vậy, dù họ đều phạm tội khó tha, nhưng dường như họ chỉ là vai diễn vừa khớp với các phần trong trò chơi đó – vai kẻ ác. Còn kết quả của trò chơi này chính là những người tham gia lần lượt phải “Đau thương đến chết”. Bức ảnh này, nhất định lại là một nước cờ của ông ta. Đáng buồn là, tôi lại tiếp tục làm quân cờ trong tay ông ta. Còn vì sao việc này lại liên quan đến Lịch Thu, thì đúng là một câu đố.”
“Vậy mục đích của ông ta là gì? Bất kỳ ai làm việc gì đều cần có mục đích, nhất là ông già mặc áo mưa kia, theo cách nói của cô, ông ta mưu tính thâm sâu, thì ông ta càng không thể mù mờ làm một việc, mù mờ chơi một trò chơi.” Lúc này Tử Phóng cũng hơi thấy kinh sợ.
“Vừa may gần đây tôi luôn tự hỏi mình. Mấy ngày trước tôi lại đến núi Vũ Di, phát hiện ra ông ta có gốc gác gì đó với một cái thôn cô quái, những người trong thôn đó dường như muốn đánh chết tôi, thật hết sức đáng sợ.”
“Cho nên tôi biết tên thôn đó, để tôi đi kiểm tra xem sao.”
“Nhưng thôn đón lại không có tên, trên bản đồ chỉ đánh dấu thôn A.”
“Cô gặp ông già đó trong thôn à?”
“Không, một chàng trai người ở thôn đó nói với tôi, ông già mặc áo mưa tuy có dây mơ rễ má với thôn của họ, nhưng chưa từng xuất hiện trong thôn. Sau này tôi nghĩ, nơi ở chính thức của ông già mặc áo mưa phải là ở Giang Kinh. Đây chỉ là suy luận nhưng bức ảnh này là một chứng cứ. Nói cách khác, không chừng ông già đó luôn theo sát tôi, nắm chắc mọi bí mật của tôi. Bức ảnh này chỉ là gửi thông tin cho tôi, hy vọng tôi tiếp tục tham gia trò chơi của ông ta.”
“Cứ như là cô vẫn còn bí mật gì đó? Lẽ nào ông ta không có việc gì quan trọng khác để làm, ông ta lấy gì ăn để sống chứ? Trừ phi…”
“Ông ta rất giàu!” Trương Sinh đột nhiên bật ra một câu. Ba người nhìn nhau, đồng thời nghĩ đến món tiền lớn không hiểu sao Viên Thuyên lại có được trước lúc chết.
Nhiều đầu mối rắc rối như vậy khiến họ không sao hiểu nổi.
Ba người bàn bạc rất lâu, lúc ra khỏi nhà hàng đã gần nửa đêm. Trương Sinh đạp xe về đại học Giang Kinh, trước khi đi còn dặn Tư Dao nếu trên đường anh ta bị ngã lên tuyết thành một đám nát nhừ thì cô phải đi bưng canh bón thuốc cho anh ta.
Vì nhà hàng ở gần nhà nên Tư Dao và Tử Phóng định đi bộ về. Trước cửa nhà hàng, Tử Phóng phát hiện ra trong điện thoại mà ban nãy anh ta đã cố ý tắt chuông có mấy cuộc gọi khẩn cấp, bèn bảo Tư Dao đợi, anh ta sẽ nói nhanh.
Trên con đường chếch phía đội diện đằng xa, một cô thiếu nữ mặc váy trắng đang đi nhanh trong mưa tuyết bay lả tả. Dưới ánh sáng đèn đường, cái bóng chập chờn, mờ tỏ, vô cùng kỳ quái.
Cô đặc biệt chú ý đến chi tiết cô ta dường như đang đi chân trần.
Cô gái dáng người mảnh dẻ, da trắng như tuyết, có phải người cô từng quen?
Đúng là cô ta?!
Cô vội vàng quay đầu gọi Tử Phóng. Tử Phóng dùng tay bịt điện thoại, hỏi cô đã xảy ra chuyện gì. Tư Dao chỉ phía trước mặt nói: “Anh xem, quá chỗ rẽ kia, nhìn về phía trước, anh trông thấy gì không?”
Tử Phóng ngớ ra: “Mấy cô gái đẹp đứng trên tuyết, quảng cáo áo mùa đông chứ gì!”
“Sao vậy?” Hóa ra Tư Dao chỉ vào tủ kính trưng bày của cửa hàng Đông Đằng, trên tủ kính là một tấm quảng cáo lớn với ảnh vài cô gái trẻ, mặc những bộ quần áo mùa đông rất đẹp đùa chơi trên tuyết, khuôn mặt rặng rỡ hơn cả ánh mặt trời, đang tươi cười với khách qua đường. Cô gái mặc váy trắng đi như chạy kia đã không còn thấy tăm hơi.
“Nhưng vừa nãy ở đó, trước tấm quảng cáo trên tủ kính kia tôi nhìn thấy một cô gái mặc váy trắng đang chạy nhanh trong mưa tuyết, nhìn kỹ thì hình như chính là Lịch Thu!”
Tử Phóng kinh ngạc nhìn Tư Dao. Tuy anh không nói một lời, nhưng Tư Dao có thể cảm thấy rõ ràng lời nói của cô không làm anh ta tin được.
Nửa đêm khuya khoắt thế này có ai lại mặc váy, chạy chân trần trong tuyết?
*
* *
Đêm đã khuya, Tư Dao vẫn không sao ngủ được. Ngoài cửa sổ là bầu trời Giang Kinh, dòng khí lạnh và ấm giao tranh, tạm thời chưa phân thắng bại; tuyết vừa rơi đã âm thầm chảy tan trong đêm, thi thoảng có tiếng giọt nước rơi vào mái hiên lợp ngói ở tầng dưới.
Một ngày đã trôi qua, kết quả điều tra thế nào rồi? Tử Phóng không nói gì, chứng tỏ tiến triển chưa đâu vào đâu, nếu không thì anh ta chắc chắn đã lóe xóe nói ra.
Tấm ảnh do Linda mang đến, dù có phải là do người mặc áo mưa thao túng hay khôg, dường như đang thầm cảnh cáo cô: có một đôi mắt luôn dõi theo cô sát sàn sạt. Cảm giác này so với những sóng gió trên QQ cách đây không lâu, hình như còn khiến người ta càng sởn tóc gáy hơn.
Và càng khiến cô không tài nào ngủ được.
Dù trên cửa sổ đã có lồng sắt, nhưng cảm giác bị theo dõi đã từng có truớc đây vô tình trỗi dậy, cô thậm chí còn có thể cảm thấy đôi mắt đó trong bóng tối. Cô vốn cho rằng sau vụ việc Dục Chu tự hủy hoại mình và Lâm Mang bị bắt thì cặp mắt trong bóng tối sẽ không còn quấy nhiễu mình nhưng cô đã nhầm. Cặp mắt đó còn ngoan cố theo dõi cô hơn cả khi trước. Thậm chí đó còn là cặp mắt cô đã từng nhìn thấy, tràn đầy oán hận và cháy bỏng mong muốn báo thù.
Lồng sắt ngăn cản nguy hiểm ở bên ngoài, nhưng lại ngăn cản lối mình thoát ra. Mình đang chạy trốn cái gì? Sự khủng hoảng trong lòng? Nỗi sợ hãi về tương lai? Sợ hãi vì “Đau thương đến chết”? Chứng sợ hãi không gian khép kín, mày đến rất đúng lúc.
Cuối cùng cô cũng mơ màng thiếp đi, một giấc ngủ chập chờn. Trong mơ, dường như cô lại bị nén chặt trong một không gian chật hẹp, tất cả xung quanh đều là những thứ cứng ngắc, lạnh như băng, tuyệt đối không phải là căn phòng được trang trí cẩn thận của cô. Hình như cô bị gông cùm, không thể cựa quậy, chỉ có thể trừng mắt nhìn tất cả xung quanh vụt biến đổi từng phút. Bốn bức tường lạnh giá bỗng trở nên nóng hừng hực, cô cảm thấy từng cơn nóng ập đến, ánh lửa nhảy múa trong mắt. Cô gào lên kêu cứu nhưng không ai trả lời.
Cô cố gắng thoát ra khỏi gông cùm ấy đi ra cửa, muốn đẩy cửa xông ra khỏi biển lửa nhưng lửa ập vào từ bên ngoài, cánh cửa giống như đáy nồi đặt trên lửa bỏng, không chạm vào được, huống chi cửa đã bị khóa trái.
Hơi nóng hầm hập khiến toàn thân cô ướt đẫm.
Tư Dao giật mình tỉnh dây mồ hôi nhễ nhại. Cô không thể ngủ tiếp được bèn khoác áo ngồi dậy, đi đến bên cửa sổ, nhẹ nhàng đẩy cánh cửa ra. Một cơn gió lùa vào. Cảm giác sợ hãi vì bị đè nén bởi không gian khép kín cũng vơi đi đôi chút.
Bên ngoài tuyết tan và mưa rơi tí tách, luồng đèn đường phía xa xa chiếu rõ muôn vàn hạt mưa đang rơi.
Và một cái bóng màu trắng xuất hiện.
Một cô gái mảnh dẻ mặc váy trắng, mái tóc đen nhánh xõa trên vai. Nếu là hai tháng trước, Tư Dao sẽ sợ hãi kêu lên “Kiều Kiều.” Nhưng cô biết không phải Kiều Kiều, cái bóng này rất quen.
Lịch Thu!
Thế này là thế nào? Tại sao trong đêm đông giá rét thế này mà cô ta mặc một chiếc váy dài mong manh… có lẽ là váy ngủ, rồi chạy trong mưa? Cô ấy đang trốn tránh cái gì? Tìm kiếm cái gì?
Cái bóng cô gái mặc váy trắng lặng lẽ biến mất, Tư Dao lập tức đẩy cửa đi ra, đến trước cửa phòng Lịch Thu.
Cửa phòng Lịch Thu dang mở.
Tư Dao đứng ngoài khẽ gọi “Chị Thu”, không có tiếng đáp lại.
Cô hít một hơi thật sâu, nhẹ nhàng bước vào trong. Chiếc đèn áp tường trong phòng được chỉnh đến mức tối nhất, quả nhiên Lịch Thu không ở trên giường. Tư Dao ngẩng đầu nhìn đồng hồ điện tử đặt trên bàn, 12 giờ 25 phút, nửa đêm.
Lúc cô quay người chuẩn bị đi ra, bất chợt nhìn thấy một tập album ảnh đang mở ra trên giường Lịch Thu. Cô nảy ra một ý, bèn đi đến đó. Một bức ảnh quen thuộc đập vào mắt cô.
Bức ảnh chụp năm người đứng trước cầu Bộ Nhai, chính là bức ảnh được cất trong hộp đựng phim giấu trong bụng con sóc ở rừng thông.
Vậy thì, cô thiếu nữ trong bức ảnh chính xác là Lịch Thu.
Cô ta liên quan gì đến Tân Thường Cốc và cả lời nguyền “Đau thương đến chết”? Tại sao từ trước tới nay không nghe thấy cô ta nói tới việc này? Cô ta đang che giấu điều gì?
Dù cảm thấy không thỏa đáng nhưng Tư Dao vẫn muốn lật giở quyển album ra xem, hy vọng có thể tìm thấy nhiều đầu mối hơn. Lúc này, từ tầng dưới đột ngột vang lên tiếng mở đóng cửa khe khẽ.
Chắc chắn là Lịch Thu đã về.
Làm thế nào bây giờ? Nếu quả thực Lịch Thu có vấn đề thì mình hoàn toàn không nên đánh động vội.
Cô nhón chân ra khỏi phòng Lịch Thu, chui tọt vào phòng mình, nhẹ nhàng khép cửa, chỉ để lại một khe nhỏ để nhìn ra ngoài.
Hành lang gần như tối om, chỉ có ánh đèn lờ mờ trong phòng Lịch Thu lọt ra. Tư Dao cố căng mắt nhìn, thấy một bóng người màu trắng từ từ đi lên cầu thang, không một tiếng động. Dáng người ấy đúng là Lịch Thu, chính là bóng người cô vừa thấy bên ngoài cửa sổ, cô gái mặc váy trắng chạy trong tuyết lả tả, cô gái mặc váy trắng chạy qua tủ kính trưng bày của cửa hiệu Đông Đằng trên phố.
Lịch Thu “không ăn thức ăn của trần gian”, lẽ nào thực sự là người đứng ngoài trần thế?
Cô bất chợt nhớ đến dáng ngồi cô độc của Lịch Thu trong bóng tối, nhớ đến cuộc trò chuyện cách đây không lâu của hai người, Lịch Thu từng nói, mấy ngày nay gió mưa khiếp quá ngủ không ngon giấc(2).
Chạy trong đêm mưa lạnh giá, đương nhiên là ngủ không ngon.
Cô nhớ đến đôi chân trần của người con gái mình thấy đêm qua mà giật mình. Cô nhẹ nhàng mở cửa đi xuống tầng dưới, khẽ mở cửa chính, bật đèn lên.
Dù đã lường trước nhưng tim cô vẫn thắt lại.
Trên mặt phiến đá ngoài thềm rành rành có hai vết chân ướt, vết ngón chân cho thấy rất rõ – quả nhiên là Lịch Thu chân không đi trong tuyết!
Tư Dao thẫn thờ quay về phòng mình, đờ đẫn nằm xuống. Tất cả những việc này đều nằm ngoài khả năng lý giải của cô.
Có lẽ, đó chỉ là những cảnh trong một giấc mơ, giấc mơ không bao giờ hiểu nổi.
E là cả Giang Kinh này chỉ mình anh ấy có thể đoán được giấc mộng của mình”. Trên ghế ở phòng chờ, Tư Dao bồn chồn nhìn về cánh cửa phòng khám của Du Thư Lượng. Nhận thấy bên cô là một sự im lặng nặng nề, cô bèn quay sang Thường Uyển: “Cảm ơn Thường Uyển đã dành thời gian đưa mình đi khám”.
Thường Uyển rốt cuộc không nén nổi, nói: “Mình biết mục đích của Dao Dao khi cậu bảo mình đưa cậu đi…Thực ra cậu không cần ai đưa đi, mà là cậu muốn tỏ ra tín nhiệm mình, dù đã trải qua những chuyện đó nhưng cậu vẫn coi mình là bạn thân. Nhưng như thế này lại càng khiến mình nghĩ ngợi, căm ghét bản thân mình sao lại hồ đồ đến thế?”
Thường Uyển đã từng bị Lâm Mang lợi dụng, bỏ thuốc ngủ cho Tư Dao uống, suýt nữa thì cả hai người cùng bị Lâm Mang sát hại.
“Uyển Nhi ngố ạ, cậu đừng nghĩ thế. Toàn bộ câu chuyện, thật sự là do cậu rơi vào bẫy của Lâm Mang. Anh ta muốn làm cho hai đứa mình nghi kỵ lẫn nhau, ngày càng không tin nhau, làm cho mình mất đi tất cả bạn bè. Chúng ta không thể nào tiếp tục lún sâu vào cái sai như thế.” Nghĩ đến cái chết thảm bất ngờ của Lâm Mang, từ nơi sâu thẳm yếu mềm nhất trong lòng Tư Dao lại run lên khe khẽ, không hiểu sao cô vẫn thầm cảm thấy đau đớn.
“Rốt cuộc anh ta chết như thế nào? Có thuộc về trách nhiệm của cảnh sát không?”
“Cái chết của anh ta cũng là một sự cố bất ngờ như cái chết của mấy người kia, không thể trách ai được.”
“Đau thương đến chết?”
“Nghe có vẻ hơi mâu thuẫn thì phải? Nói là "đau thương đến chết”, nhưng ứng nghiệm với lời nguyền chết chóc ấy lại là những sự cố bất ngờ.”
“Mình nghĩ lúc anh ta chết chắc phải rất đau xót. Thực ra anh ta đối với cậu… thôi, không nói nữa, sợ cậu lại giận mình.”
“Mình biết… anh ta… nếu anh ta có thể đi gặp bác sỹ để xin trợ giúp như mình, thì có lẽ sẽ không đến nỗi như vậy.”
“Có lẽ thế, nhưng bây giờ, chỉ còn lại mình và cậu, hễ nghĩ tới là mình lại vô cùng sợ hãi.”
“Cho nên chúng ta càng phải nương tựa vào nhau, rũ bỏ hết mọi nghi ngờ trước đây, phải thương yêu nhau như chị em trước kia để cùng nghĩ cách giải quyết vấn đề, cậu thấy thế nào?”
"Thật ra chính mình cũng sợ, có lúc sợ đến mức phải vùi đầu vào gối mà khóc. Nhưng mình không muốn vứt bỏ cơ hội sống, mình vẫn hướng về cuộc sống tươi đẹp của con người" - Tư Dao tự nhủ.
Người y tá đi tới nói nhỏ: “Mạnh Tư Dao, chủ nhiệm Lượng mời cô vào!”
Tư Dao bảo Thường Uyển: “ Phiền cậu chờ mình nhé, nghĩ xem lát nữa sẽ đi đâu ăn trưa”.
Thư Lượng đã giở không biết bao nhiêu lần những ghi chép ngắn gọn về những lần khám cho Tư Dao trước đây. Tuy cô đã thoả thuận hẹn khám lần này, anh vẫn phải cân nhắc mãi, gần như đã có phương án điều trị. Lúc này anh lại gắng nhớ lại nội dung lần trò chuyện trước, hy vọng có thể giúp cho sự chẩn đoán hôm nay.
“Lúc hẹn khám em có nhắc đến tình hình nằm viện ở bệnh viện số 7 cách đây không lâu. Tôi đã hỏi sơ qua bác sỹ Tạ Tốn về bệnh tình của em, hình như mấy tuần vừa rồi em đã trải qua không ít chuyện?”.
Tư Dao gật đầu: “ Bác sỹ Lượng thực là người có tâm.”
“Mong là em không khó chịu về việc tôi đã điều tra trước. Các vấn đề về tâm lý luôn liên quan đến những chuyện em phải trải qua, bao gồm cả tình trạng sức khỏe, nhất là khi kê đơn thuốc tôi phải hiểu cặn kẽ quá trình bệnh trạng của em.”
“Đương nhiên ạ, anh làm như vậy là để tốt cho em, đấy là lý do vì sao em cảm thấy cần anh giúp đỡ thêm.”
Sự thành khẩn của Tư Dao khiến Thư Lượng có phần cảm động.
“Căn cứ vào cuộc nói chuyện của chúng ta lần trước, tôi cảm thấy tình hình của em khá là đặc biệt… Đương nhiên mỗi người tìm đến bác sỹ đều có những lý do riêng. Nói thật, rất nhiều người mắc phải tình trạng giống em, bị ám ảnh bởi những chuyện không tháo gỡ nổi, vì thế sinh ra ảo giác nhưng những người tích cực đi tìm hiểu vấn đề, tìm lời giải như em thì không nhiều. Những người đó rất bị động, chính vì không cố gắng tìm lời giải nên cuối cùng dẫn đến tình trạng tâm thần phân liệt nghiêm trọng, ảo giác chiếm ưu thế, thậm chí chỉ đạo cuộc sống bình thường của họ… Mong rằng những câu này của tôi không khiến em quá căng thẳng”.
“Không đâu, anh phân tích rất có lý, em còn cảm thấy anh đang khen em vì em không bị động, đúng không? Em nghĩ, mình cũng không có gì là khác biệt rõ rệt so với mọi người. Ảo giác đã xuất hiện từ mấy tháng nay, lúc mới bị em cũng mặc kệ, nghĩ là chỉ ít lâu sẽ hết, ai ngờ càng ngày nó lại càng nghiêm trọng. Em phải đối mặt với vấn đề này, thực ra là vì bức bách mà thôi. Gần đây em thường nghĩ, nếu sớm nghe lời người bạn trai, đến tìm anh, chưa biết chừng đã chẳng bị kẻ xấu lừa gạt lâu như vậy.” Suy nghĩ này là kết quả sau khi Tư Dao tự phân tích nghiêm túc và cô nhận thấy Lâm Mang cũng như Dục Chu đều đã thành công trong việc lợi dụng ảo giác của cô.
“Nếu em thật sự ý thức được những vấn đề này thì việc điều trị của chúng ta từ nay về sau sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.”
“Nhưng em cảm thấy bây giờ vấn đề mỗi lúc một nhiều. Không chỉ chứng bệnh sợ khép kín của em ngày càng tăng, em còn bắt đầu không tin vào mắt mình nữa, không biết có phải ảo giác đã trở lại không.”
“Em cứ nói từ từ, trước tiên nói về chứng bệnh sợ khép kín. Lần trước thời gian ngắn quá, chúng ta đã nói nhiều về những ảo giác mà chưa nói rõ về vấn đề cảm giác sợ hãi. Xem bệnh án của em, trước đây em đã từng được điều trị về nhận thức, rõ ràng chưa trị tận gốc – nhưng ít ra cũng đã được cải thiện. Tuy vậy, xem các ghi chép thì bác sỹ trước đây chưa nhắc đến căn nguyên, hay là bản than em cũng không biết căn nguyên của nỗi sợ hãi này? Nếu em đồng ý, tôi có thể giúp em cùng phân tích.” Thư Lượng cảm thấy giữa chứng sợ hãi bị khép kín của Tư Dao và chứng tâm thần phân liệt cấp độ nhẹ chắn chắn có mối liên hệ sâu xa, dù chúng vốn là hai loại bệnh thần kinh hoàn toàn khác nhau.
“Em không biết nguyên nhân, hình như là bẩm sinh. Sau khi vào trung học thì nó ngày càng rõ rệt. Thậm chí bác sỹ đã phải dùng thuật thôi miên mà em cũng không nhớ ra được bất cứ việc gì dẫn đến chứng sợ hãi này.”
“Khi cảm giác sợ hãi trào lên mãnh liệt, có đồng thời nảy sinh ảo giác không? Ví dụ như cảm thấy có nguy hiểm nào đó sát sạt bên mình?”
“Không có ảo giác. Nhất là những lần điều trị trước kia, em chỉ thấy trong lòng vẩn vơ sợ hãi nhưng không biết tại sao. Tuy nhiên… gần đây, hình như mấy tháng gần đây, sau mỗi lần em nằm mơ thì nỗi sợ hãi bị khép kín lại càng mạnh mẽ.”
“Mơ như thế nào?”.
“Nó cũng rất bình thường, giấc mơ không có sức tưởng tượng gì ghê gớm. Em mơ thấy bị nhốt trong một căn phòng nhỏ, chỉ có những bức tường lạnh như băng, bỗng nhiên bốn phía là lửa, hình như lửa từ bên ngoài, dù em không nhìn thấy nhưng cảm giác hơi nóng áp sát mình, căn phòng nhỏ như chìm trong lửa, em ra mở cửa nhưng cửa nóng bỏng. Cuối cùng, em không có cách nào chạy thoát, cảm thấy mình sắp bị thiêu chết, hoặc bị chết trong phòng đó vì nóng.”
“Nằm mơ như vậy thì bất kể ai cũng sợ bị khép kín! Bản thân em đã có giả thiết tại sao lại mơ như thế chưa? Ví dụ, về căn phòng nhỏ ấy, trước đây em đã từng trải qua sự việc tương tự như thế hay chưa? Tôi biết em không thể lập tức nhớ ra, nhưng hy vọng em sẽ gắng từ từ nhớ lại thật chi tiết.”
Tư Dao nhắm mắt, cố gắng hồi tưởng. Ký ức là một thứ sâu xa huyền diệu, có những việc dù đã xa cách nhiều năm nhưng lại hiện ra rất rõ ràng, có những việc mới xảy ra không lâu mà lại xa lắc như cả ngàn năm.
Và, có những ký ức đã quên lãng, có khi lại bất chợt hồi sinh.
Tại sao, tại sao lúc này khi nhắm mắt vào, dường như có thể nhìn thấy ngọn lửa nhảy nhót? Đây là nơi nào? Đây là chuyện xảy ra từ khi nào? Cô chỉ biết, ánh lửa và sự bất lực của mình khiến cô phẫn nộ và tuyệt vọng. Đây là cảm giác cô rất căm ghét.
Tại sao bỗng nhiên lại đi tìm kiếm sự phiền muộn như thế này?
Cảnh tượng hoàn toàn không có thật, cũng rất có thể là ảo giác.
Thư Lượng nói không sai, chứng sợ hãi bị khép kín đích thực có quan hệ sâu xa với ảo giác. Trên thực tế nỗi sợ đối với không gian khép kín là do ảo giác trực tiếp tạo thành.
Đúng thế, tất cả những thứ này chỉ là ảo giác.
Thư Lượng nhíu mày, hơi thất vọng. Anh có cảm giác chứng sợ bị khép kín của Tư Dao có nguồn gốc sâu xa hơn, chỉ vì cô không thể ý thức được, hoặc đã bị thất lạc một phần hồi ức nào đó, một chuyện cũ mà tiềm thức đã ép mình phải lãng quên không muốn nhớ lại. Đây là điều thường thấy trong những bệnh nhân của các loại bệnh thần kinh.
“Tư Dao nghĩ lại xem, có phải chỉ là ảo giác thật không?”
“Là ảo giác, chắc chắn là ảo giác, không thật, tất cả đều là không thật! Những thứ hư ảo trong cuộc sống của em quả là rất nhiều, em hy vọng là chúng sẽ rời em càng xa càng tốt, bác sỹ Lượng có thể giúp em, đúng không? Nếu không phải là ảo giác, chắc chắn em có thể nhớ ra, em không bất lực đến thế đâu.” Tư Dao có vẻ nôn nóng.
Sự kiên quyết của Tư Dao lại khiến Thư Lượng càng cảm thấy cô đang cự tuyệt một cái gì đó. Từ giấc mơ có liên quan đến chứng sợ bị khép kín mà cô vừa kể,có thể thấy cô căm ghét cảm giác bị trói buộc, căm ghét cảm giác bế tắc không lối thoát, cô có đủ can đảm muốn chiến thắng sự sợ hãi này,nhưng rồi lại thẫn thờ và mờ mịt. Nếu không tìm được căn nguyên sẽ rất khó giải thoát triệt để khỏi nỗi sợ bị khép kín này. Dường như giấc mơ đó đã cho thấy một manh mối rất khả quan.
Đáng tiếc,Tư Dao có lẽ vẫn đang bị ảo giác vây khốn nên mới coi cơn ác mộng đó là ảo giác mà cô đang nóng lòng muốn khắc phục.
“Vậy thử nói ảo giác gần đây nhất của em xem?”
“Em không biết đó là ảo giác hay nhìn thấy thật. Nếu là trước đây em sẽ không nghĩ đó là ảo giác; mà nếu nó xảy ra sớm hơn vài ngày - trong những ngày rối tinh rối mù đó - thì em sẽ tin chắc đó không phải là sự thật, hoặc là lại có người đang giở trò quấy phá. Chuyện liên quan đến sự riêng tư của người khác,xin anh giữ bí mật.”
Thư Lượng gật đầu: “Đây là đạo đức nghề nghiệp cơ bản nhất mà anh nên tuân theo”.
“Có một cô gái rất xinh đẹp thuê một căn phòng trong cùng ngôi nhà…”
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT