Tôi đã đến Huế hai lần, lần nào cũng vội vã vì bận công việc nên chỉ ở lại
một hai ngày. Huế vốn thâm trầm, thầm lặng, nên chẳng thể hiểu vội vã được. Tôi
đã liều viết cái phần mình chưa hiểu về Huế nên không tránh khỏi sự hiểu lầm.
Rất mong bạn đọc gốc Huế lượng thứ.
*
* *
Tường dắt tôi đi thăm lăng Tự Đức. Vốn là dân Huế nên Tường rành rọt, chỉ cho
tôi biết nơi nhà vua xem hát bộ, nơi cung nữ ở... Khiêm Lăng to lớn này được xây
dựng trong ba năm và vua thường đến đây vừa nghĩ ngơi vừa chiêm ngưỡng nơi sẽ
chôn cất mình.
Ngồi nghỉ chân dưới bóng mát một cây sứ cổ thụ, bên ngôi mộ xây bằng đá cẩm
thạch của vua, tôi tò mò đọc bài thơ chữ nôm của vua Tự Đức in trên tấm vé bán
vào thăm lăng. "Khôn dại cùng chung ba tất đất, Giàu sang chưa chín một nồi kê".
Tôi thầm hỏi: "Vua đã viết được như vậy, sao còn làm khổ người dân xây chung
quanh "ba tấc đất" của vua nhiều ngôi nhà to lớn như một cung điện? Phải chăng
từ xưa đến nay, giữa viết và làm thường khác xa nhau?"
Trưa hè ở Huế trời nắng gắt. Khi rời khỏi lăng vua Tự Đức, tôi cảm thấy đói
bụng. Tôi nói Tường chở tôi đi ăn một món ăn Huế. Tường nói sẽ chở đến quán bánh
khoái. Nơi đó cô gái bán hàng biết mười ngoại ngữ.
Tôi tin là Tường nói thật. Người Huế vốn ham học. Cô gái hàng ngày phải giao
dịch với nhiều khách du lịch nước ngoài nên có thể em đã học được một số ngoại
ngữ. Nhưng biết được mười ngoại ngữ thì cũng đáng nể, tôi hối thúc Tường chạy xe
Honda thật nhanh để được gặp mặt cô gái. Vừa "no mắt" vừa no bụng.
Tường dừng xe trước một quán bán bánh khoái gần chợ Đông Ba. Khách ra vào tấp
nập. Nhiều nhất vẫn là khách du lịch nước ngoài mặc quần soọc vai mang balô.
Phải đợi một lúc, chúng tôi mới có ghế ngồi. Những chiếc bánh khoái nóng hổi
được đem đến. Chúng giống như bánh xèo ở Sài Gòn nhưng chỉ nhỏ bằng lòng bàn tay
và được chiên vàng rụm. Đặc biệt bánh khoái ăn với tương chứ không phải nước mắm
chua ngọt. Ăn xong một chiếc bánh khoái mùi rau húng quế còn thơm ngát trong
miệng, tôi hỏi Tường:
- Cô gái biết mười ngoại ngữ đâu?
Tường cười chỉ cô gái mặc áo thun đỏ, váy trắng (điều hiếm thấy ở các cô gái
Huế) đang đứng nói chuyện với một ngoại kiều cách chỗ tôi ngồi hai cái bàn. Em
đứng quay lưng lại nên tôi không nhìn thấy khuôn mặt em. Hai người đang trò
chuyện vui vẻ, rất tiếc họ đứng hơi xa nên tôi không nghe rõ họ nói tiếng nước
nào.
Một khách nước ngoài ngồi gần bàn tôi, gõ đũa vào miệng chén. Cô gái quay lại
nhìn rồi bước đến tính tiền. Lúc này tôi mới nhìn rõ khuôn mặt em. Một khuôn mặt
thanh tú với đôi mắt to đen láy và cái miệng luôn cười. Người khách chỉ những
đĩa thức ăn trên bàn. Cô gái gật đầu nhẩm tính rồi ghi vào phiếu tính tiền đưa
cho ông ta xem. Người khách chỉ vào một cái đĩa và giơ hai ngón tay. Cô gái cười
ghi thêm vào phiếu tính tiền. Người khách móc tiền ra trả và cười nói: "How old
are you?". Đáp lại, cô gái xòe hai bàn tay ra hai lần, lần sau em cụp lại một
ngón cái.
Bây giờ tôi mới hiểu Tường đã "chơi chữ". Cô gái bị câm và phải nói chuyện
bằng 10 ngón tay. Uống một ngụm bia Huda, tôi hỏi Tường:
- Cô gái bị tật hồi nhỏ à?
Tường gật đầu rồi nói:
- Cả ba chị em đều bị câm.
- Bệnh di truyền?
- Không, ba mẹ mấy cô đều nói năng bình thường. Người ta đồn rằng mộ ông nội
của mấy cô táng trúng lưỡi rồng nên gia đình làm ăn phát đạt, bù lại con cháu
đều bị câm. Nếu dời mộ đi chỗ khác, các cô sẽ nói được nhưng bù lại gia đình sẽ
nghèo mạt ba đời. Cô chị đang đứng đổ bánh khoái đó. Cô thứ hai đi tính tiền,
còn cô út ở trên lầu lâu lâu xuống phụ việc. Cũng may ba chị em tuy không nói
được nhưng vẫn nghe được và họ viết chữ rất đẹp.
Tôi không biết đấy có phải là điều "may" hay càng khốn khổ hơn khi người ta
nghe được mà không nói được?
Đợi quán thưa khách, tôi gọi cô gái đến tính tiền để có dịp trò chuyện. Cô
gái đếm những đĩa bánh khoái và hai chai bia trên bàn rồi em viết phiếu tính
tiền. Tôi hỏi:
- Em tên gì?
Cô gái cười nhìn quanh rồi chỉ bức tranh vẽ hồ sen Tịnh Tâm treo trên
tường.
Tôi nói:
- Em tên Liên?
Cô gái gật đầu. Tôi hỏi tiếp:
- Nhưng gì... Liên?
Em viết trên phiếu tính tiền chữ Diệu.
- Diệu Liên! Tên hay quá. Đóa sen huyền diệu.
Cô gái e thẹn cúi đầu. Tôi bắt đầu kể lể: Tôi ở Sài Gòn mới ra thăm Huế lần
đầu. Đến một nơi nào xa lạ, tôi nghĩ không phải chỉ đi xem thắng cảnh hay đi dạo
phố xá mà hiểu được nơi đó. Cần phải thưởng thức những món ăn đặc sản và nhất là
phải làm quen với một cô gái, nhờ vậy mình sẽ hiểu nơi đó hơn. Tôi đã ăn bánh
khoái Huế rất ngon. Tôi muốn em giúp tôi hiểu Huế thêm một chút nữa được
không?
Cô gái nhìn thẳng vào đôi mắt tôi. Cũng may vì vội vã khi ra Huế, tôi đã bỏ
quên đôi kính cận một độ của mình ở Sài Gòn nên nhìn đôi mắt tôi lờ đờ như đôi
mắt cá ươn rất "vô tư", cô gái đã thương hại gật đầu.
Buổi tối mùa hè, Huế đã mát nhờ những hàng cây hai bên đường rì rào tiếng lá.
Tôi chở Diệu Liên trên chiếc xe Honda mượn của Tường. Em ngồi sau chỉ đường bằng
cách vỗ vai phải, vai trái của tôi và tôi sẽ quẹo phải hay quẹo trái.
Nhờ em tôi mới biết hồ Tịnh Tâm với ngôi nhà ngồi hóng mát bị sụp đổ một bên,
không còn nguyên vẹn như trong bức tranh vẽ treo ở quán em. "Đường phượng bay"
xanh rì bóng lá vì mùa hoa phượng đã tàn. Bánh cuốn ở Kim Long khác hẳn bánh
cuốn ở Sài Gòn. Và chè thịt heo quay ngon hơn chè sâm bổ lượng ở Chợ Lớn.
Tôi hỏi: Em hãy chỉ tiếp cho tôi biết nơi nào bán cơm hến, bánh ướt, chè
bắp?
Em che miệng cười khúc khích. Tôi đưa cuốn sổ tay cho em và em viết: Ông tham
ăn quá. Những món ăn ngon, ông ăn cùng một lúc, chúng cũng sẽ hết ngon.
Tôi nói: Nhưng ngày mai tôi phải về Sài Gòn rồi. Làm sao tôi có thể thưởng
thức những món ăn kia?
Em viết: Chúng sẽ mãi còn ngon khi ông còn háo hức muốn ăn?
Tôi nói: Thôi bây giờ chúng ta đi uống cà phê. Tôi muốn biết cà phê ở Huế
ngon cỡ nào.
Em gật đầu và tôi tiếp tục chở em đi. Cầu Tràng Tiền đang sửa chữa lại, em
chỉ tôi chạy xe qua cây cầu mới. Chúng tôi vào một quán cà phê lộ thiên ở sát bờ
sông Hương, ngay phía trước trường Quốc Học.
Tôi chọn một cái bàn đặt ngay dưới bóng đèn điện sáng choang. Chẳng phải tâm
hồn tôi ưa thích sự trong sáng mà vì ngồi ở nơi sáng sủa, tôi mới có thể đọc
được những câu em viết trả lời.
Tôi gọi cho em một ly đá chanh và cho tôi ly cà phê đen. Rất bất ngờ tôi được
nghe lại giọng ca Tuấn Ngọc với bài "Chiều một mình qua phố" của Trịnh Công Sơn
ở quán cà phê này. Diệu Liên mấy máy đôi môi hát theo. Tôi hỏi:
- Em cũng biết bài hát này à?
Diệu Liên gật đầu và môi em tiếp tục mấy máy. Tôi buồn muốn khóc khi thấy em
say sưa hát một bài ca không thành lời. Im lặng là vàng, đúng vậy. Nhưng im lặng
mãi sẽ là đất đá. Tôi không muốn em là đất đá. Tôi thầm cầu mong cho em một lần
được nghe giọng hát của chính mình. Bài hát dứt, môi em vẫn còn run run vì xúc
động hay vì lời ca "ngoài kia không còn nắng mềm, ngoài kia ai còn biết
tên?"
Không ngăn được tò mò, tôi hỏi em câu chuyện người ta đồn về gia đình em mà
Tường đã kể cho tôi nghe lúc trưa.
- Chuyện đó có thật không?
Em gật đầu. Ôi "ba tấc đất" của người chết đã làm khổ người sống quá nhiều!
"Giàu sang chưa chín một nồi kê". Tại sao người ta bắt im lặng mãi? Tự nhiên tôi
nổi sùng nói:
- Em hãy cho tôi biết mộ ông nội em nằm ở đâu? Tôi sẽ thuê người ta dời mộ để
em nói được. Em cần phải nói, phải hát.
Em khẽ nắm tay tôi lắc lắc. Rồi em cúi xuống viết vào cuốn sổ tay tôi để trên
bàn: Ông cần em phải nói, ông mới hiểu? Sông Hương có nói chi mô mà người ta
cũng hiểu nó.
Viết xong, em ngẩng lên nhìn dòng sông Hương lấp lánh ánh trăng. Mặt nước
phẳng lặng không gợn sóng. Gió từ mặt sông thổi lên mát rượi. Tôi nhìn vào đôi
mắt em đang mở lớn. Đôi mắt cũng lấp lánh ánh trăng nhưng có nói chi mô. Đôi mắt
đó câm hay tâm hồn tôi điếc?
Huế 7-1993
Đoàn Thạch Biền
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT