Giữa lúc tính thế gay cấn đó, thanh niên áo trắng bỗng lắc đầu quầy quậy, tỏ ý ta thán về sự xung đột vừa rồi đã làm chết một mạng người, đồng thời chàng bước chầm chậm tới bên gói hành lý của Chu Uyển Thanh, tức là chính giữa đám người võ lâm cao thủ đang đứng vây quanh trước tửu điếm.
Mọi người không khỏi giật mình lo ngại, nín thở nhìn từng cử động của thanh niên. Có người khẽ kêu lên một tiếng kinh hãi, vì trong tình thế gay cấn này, đến gần bọc hành lý đó tức là đến chỗ chết. Các cao thủ võ lâm đứng đó đều đang bị kích thích đến cực điểm, chỉ một cử chỉ sơ suất, để cho họ nghi rằng thanh niên có ý định chiếm đoạt gói hành lý là lập tức chưởng phong bay ra tới tấp.
Ngay cả đến những tay võ công trác tuyệt cũng không chống nổi một loạt những thế công mãnh liệt, từ bốn phía ập lại như vậy, huống hồ là một chàng thư sinh yếu ớt có vẻ trói gà không chặt, tránh làm sao cho khỏi tan thây nát xác.
Người lo lắng nhứt có lẽ là Chu Uyển Thanh, thiếu niên chủ nhân gói hành lý đang bị tranh chấp kịch liệt đó. Chu Uyển Thanh định há mồm kêu gọi, ngăn cản thanh niên áo trắng, nhưng không kịp nữa rồi, vì thanh niên đã bước tới bên gói hành lý.
Cũng may, những võ lâm cao thủ lúc đó để ý nhận xét thấy bước đi của thanh niên hoàn toàn như người thường, không có chút võ công nào, nên không ai giơ tay tấn công ngăn cản chàng.
Thanh niên áo trắng chắc hẳn không hay biết rằng mình đang đứng vào cửa “tử”, nét mặt chàng vẫn ung dung tự toại, chẳng hề lo sợ chút nào hết.
Chẳng những thế, chàng còn cúi xuống nhặt bọc hành lý của Chu Uyển Thanh lên. Cử chỉ của thanh niên, bên cạnh xác người chết nằm cứng đờ, hai người nữa bị thương đang ngồi vận công chữa thương, trong một bầu không khí nặng nề khó thở, quả là rùng rợn hết sức. Thanh niên phải là hạng người vô tri, không biết trời cao đất thấp là thế nào, nếu không y hẳn phải là người gan dạ đầy mình, mới dám khiêu khích thần chết đến mức đó.
Thanh niên vừa cầm bọc hành lý lên tay thì xung quanh, những cặp mắt đầy hung hăng. Tất cả các nhân vật võ lâm không ai bảo ai, đã vận kình lực trong người, sẵn sàng phát tác, bởi vì cùng một lúc, một tia nghi ngờ thoáng trong óc họ: phải chăng đó là quỷ kế để lừa chiếm lấy vật báu?
Thanh niên áo trắng cầm gói hành lý, đưa mắt nhìn quanh một lượt, rồi mỉm cười nói :
- Chư vị hãy nghe tại hạ nói một lời. Từ nãy giờ, tại hạ đã được nghe đầu đuôi câu chuyện tranh đoạt, chung quy cũng chỉ tại bọc hành lý này. Cũng vì vật này mà một căn tửu điếm tư sản của thường dân, bị trật nóc, lại thêm một mạng người chết và mấy người bị thương, tại hạ quả thấy bất nhẫn quá...
Thanh niên nói đến đó, bỗng có tiếng cười gằn, rồi một giọng nói như sấm từ phía đám cao thủ trước mặt đưa ra :
- Hủ nho đọc nhiều sách quá hóa ra cuồng trí, hết muốn sống nữa rồi!
Thanh niên thư sinh như không nghe thấy câu nói đó, vẫn tiếp tục :
- Thiện ý của tại hạ như thế này. Vật chư vị muốn tranh đoạt thì có ít, vốn chỉ có hai thứ, còn chư vị lại có nhiều người, có đến hai chục vị, như vậy làm sao phân chia cho đều được? Nếu cùng ra tay tranh đoạt lẽ tất nhiên phải có người chết kẻ bị thương, thảm trạng không sao lường trước được. Chi bằng chư vị hãy bằng lòng trao trả vật này cho chủ nhân của nó là hai ông cháu vị Chu tiền bối đây, như vậy vừa tránh khỏi mất hòa khí, duy được võ lâm đạo nghĩa có hơn không?
Thanh niên vừa nói dứt lời, những tiếng phản đối nhao nhao nổi lên. Đồng thời lại có tiếng mắng chửa tục tĩu, đại khái nói thư sinh là đồ mọt sách, không biết gì mà dám can thiệp vào việc quan trọng của võ lâm.
Giữa những tiếng ồn ào đó, bỗng nhiên giọng nói sang sảng như tiếng chuông của Tuệ Giác thiền sư nổi lên :
- Thí chủ là người của môn phái nào, can thiệp vào việc này có dụng ý gì?
Không để thanh niên thư sinh trả lời, Tuệ Giác thiền sư lại tiếp ngay bằng một tiếng niệm Phật hiệu :
- A di đà Phật! Thí chủ khỏi chối cãi nữa vô ích, nếu thí chủ không phải là nhân vật võ lâm, làm sao biết nói đến “duy trì võ lâm đạo nghĩa”?
- “A!” mấy tiếng thét chói tai nổi lên ở tứ phía, sau khi Tuệ Giác thiền sư nói câu đó. Tất cả các cao thủ đều như chợt tỉnh ngộ, mắt lóe ra hung quang gớm ghiếc, nhao nhao lên như muốn nhảy xổ lại.
Những việc xảy ra kế tiếp đó mau lẹ không thể tưởng tượng.
Độc Thủ Ma Vương đột nhiên nhảy vọt lên miệng thét như sấm nổ :
- Tiểu tặc gian trá, muốn sống buông bọc hành lý đó ra!
Thân hình y còn lơ lửng trên cao độ một trượng thì hai tay y đẩy thẳng xuống, kình lực Âm Phong chưởng phát ra âm ru rùng rợn vô cùng, nghe như tiếng ma kêu quỷ hú, đó là lúc chưởng lực tuyệt kỹ của y đã phát đến mười thành công lực.
Chưởng phong của Độc Thủ Ma Vương ập xuống đầu chàng thanh niên, khí thế dũng mãnh vô cùng, đến nỗi những cao thủ đứng quanh cũng bị Âm Phong chưởng đẩy lùi lại một bước, như vậy chàng thanh niên áo trắng tránh sao khỏi bị vỡ ngực mà chết?
Cậu thiếu niên tên gọi Chu Uyển Thanh đã phải rú lên một tiếng kinh hãi và đau đớn, thương tiếc người đứng ra bênh vực mình bị chết thảm.
Ai ngờ thanh niên thư sinh áo trắng vẫn ôm bọc hành lý đứng im lặng mỉm cười, như không biết có luồng chưởng phong dữ dội đang ập tới.
“Bộp! Bộp” chưởng phong đã đánh bổ xuống đúng vào người thanh niên, tuyết ở xung quanh chàng bắn tung lên trắng xóa, nhưng thanh niên vẫn như không, kỳ lạ nhất là chưởng phong dữ dội là thế mà một vạt áo, một sợi tóc của chàng cũng không bị tung bay, như thể toàn thân chàng có một bức màn vô hình che chở.
Trừ mấy cao thủ tuyệt đỉnh như Tuệ Giác, Tuệ Hải thiền sư hiểu ngay đó là vì thanh niên có một thứ thần công hộ thể vô cùng linh diệu, còn những người khác lạ lùng kinh hãi, cho là thanh niên có tà thuật.
Nhưng mọi người chưa hết ngạc nhiên. Chưởng phong của Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo chưa tản hết thì đã nghe hai tiếng “xoẹt xoẹt” rợn người, từ ngoài bay vào.
Đó là hai chiếc ngân tiêu sắc sáng trắng như bạc, nhằm đúng ngực thanh niên phóng tới.
Thanh niên áo trắng cười nhạt một tiếng, tay mặt còn phải giữ bọc hành lý, nên thuận tay trái, chàng đưa lên gạt nhẹ một cái. Lập tức một luồng kình lực từ tay chàng phát ra đẩy hai chiếc ngân tiêu bay ngược trở lại.
Tốc lực bay trở lại không ngờ lại mau lẹ hơn tốc lực bay đi rất nhiều. Mọi người hoa mắt, chỉ thấy hai vết sáng dài như hai sợi chỉ xuyên ra ngoài, đã thấy một tiếng kêu thét lên thảm thương, một chàng đại hán, tay cầm đại đao, đã ngã vật ra chết, hai mũi ngân tiêu ghim vào ngực, máu chảy trên tuyết trắng loang lổ. Đại hán đó chính là người vừa ném ngân tiêu vào thanh niên, chẳng ngờ khi ngân tiêu bay trở lại tránh không kịp nên bị chết thảm. Sinh ư nghệ tử ư là thế vậy.
Giữa lúc kinh hãi đó, một bóng người đã lao đến trước mặt chàng thanh niên, tay mặt người ấy cầm một thanh kiếm ánh sáng xanh biếc, chém thẳng vào mặt thanh niên khí thế như vũ bão, tay trái giơ lên thành trảo, chộp lấy bọc hành lý, thân pháp và chiêu số mau lẹ và vô cùng trác tuyệt.
Người vừa nhảy đến tấn công thanh niên là một nhân vật mặt mũi phương phi, trạc ngoài bốn mươi tuổi, ba chùm râu đen nhánh trên khuôn mặt trắng hồng, coi rất uy nghi khí phách. Các nhân vật giang hồ đều biết mặt nhân vật này, đó là Thiên Y Quái Tú Hoàng Lâm Sách, Trại chủ của Lâm Đường trại ở Tứ Xuyên.
Nguyên Hoàng Lâm Sách vốn là nhân vật ở giữa hai phái Hắc Bạch, tính tình trang nghiêm hào phóng, rất được giang hồ vị nể, hôm nay tình cờ cùng một người sư đệ đi ngang qua thị trấn này nên được chứng kiến vụ tranh đoạt chớ y không có ý định đến cướp báu vật.
Không ngờ người sư đệ, chính là chàng đại hán phóng ngân tiêu vừa rồi, thấy vật báu nổi lòng tham, định thừa lúc thanh niên vô ý, phóng ngân tiêu cho chết rồi nhảy vào cướp. Nhưng đối phương không chết mà y lại chết vì ngân tiêu của chính mình.
Thiên Y Quái Tú Hoàng Lâm Sách thấy sư đệ chết thảm, bỗng đùng đùng nổi giận, rút kiếm nhảy xổ vào tấn công thanh niên luôn.
Hoàng Lâm Sách đứng đầu một trang trại nổi tiếng ở Tứ Xuyên nên võ công của y không phải hèn kém. Hơn nữa trong lúc quá nóng giận muốn báo thù, họ Hoàng đã giở ngay những thế tối hiểm độc của sư môn định hạ thủ đối phương trong khoảnh khắc.
Thanh niên áo trắng bất ngờ thấy có người nhảy đến tấn công một kiếm sách liệt như vậy cũng phải giật mình thận trọng. Không biết chàng ta giở thân pháp gì, chỉ thấy thoáng một cái, thanh niên đã ra thoát khỏi luồng kiếm quanh của Hoàng Lâm Sách.
Nhưng Thiên Y Quái Tú chưa kịp tấn công đến chiêu thứ hai thì y đã hoa mắt, thoáng thấy tiếng cười nhạt phía sau lưng, rồi một luồng kình lực ghê gớm đẩy y bắn lên không như một chiếc pháo thăng thiên.
Thiên Y Quái Thú Hoàng Lâm Sách rú lên một tiếng, kiếm bị bắn văng đi một nơi, người ngã vật xuống bãi tuyết, mồm hộc máu tươi, tắt thở ngay lập tức.
Các nhân vật võ lâm kinh hoảng, không ngờ thanh niên dáng điệu thư sinh mà võ công lại ghê gớm, xuất thủ lại ác độc đến như vậy. Mọi người trố mắt nhìn chàng ta, không hiểu thanh niên là nhân vật thế nào trong võ lâm mà không ai biết mặt cả.
Giữa lúc ấy đột nhiên có tiếng cười the thé rất ghê rợn từ một cây cổ thụ cành lá rườm rà ở gần đó phát ra, rồi một giọng lanh lảnh tiếp theo :
- Các ngươi không biết tên tiểu tử đó là ai hay sao? Hắn chính là Kim Ngang Tiêu vừa học được võ công quái dị dưới Địa huyệt Dã Nhân lãnh thuộc núi Miêu Cương đó...
Toàn thể các nhân vật võ lâm đứng đó vừa nghe thấy ba chữ “Kim Ngang Tiêu” đã giật nẩy người, nhiều tiếng kêu thét cực kỳ kinh ngạc nổi lên, tất cả đều chú mục ngắm nhìn chàng thanh niên áo trắng đứng cầm gói hành lý trên bãi tuyết.
Thì ra cái tên Kim Ngang Tiêu đã chấn động giang hồ từ mấy tháng nay, người ta cũng bàn tán sôi nổi về chàng thanh niên tuổi trẻ cô độc, một thân một mình dám đứng lên chống chọi với toàn thể Câu Hồn bang ghê gớm đang reo rắc khủng khiếp khắp võ lâm. Mới đầu chỉ có ít người biết tới việc này, nhưng từ khi Kim Ngang Tiêu ra khỏi Miêu Cương, thi triển võ công tuyệt thế, sát hại Hổ Ma Phạm Hống và rồi lại giúp đỡ Cái bang thảm sát trên bốn chục tên Câu Hồn bang ở Kim Lăng thì tên tuổi Kim Ngang Tiêu nổi lên như sóng cồn, chỉ trong có mấy ngày, chàng đã được võ lâm liệt vào đệ nhứt cao thủ.
Tuy nhiên, không mấy người trong võ lâm được biết mặt Kim Ngang Tiêu. Bởi thế đến lúc đột nhiên có người lạ mách bảo đó Kim Ngang Tiêu, mọi người ngạc nhiên quá đỗi, họ cứ tưởng Kim Ngang Tiêu phải là một hảo hán quắc thước uy nghi, anh hùng cái thế, không ngờ chàng là một thư sinh mặt còn non choẹt. Cũng vì lẽ đó mà mọi người nửa tin nửa ngờ, đưa mắt ngắm nhìn chàng thanh niên áo trắng.
Lúc ấy, vừa nghe thấy tiếng quát the thé, chàng thanh niên đang tươi cười bỗng sa sầm nét mặt, đôi mắt chàng đột nhiên sáng rực lên, tia ra những tia hận thù ghê gớm, nhìn về phía cổ thụ nơi phát ra tiếng nói vừa rồi.
Thanh niên trầm giọng quát :
- Câu Hồn bang chủ! Ta đang muốn tìm ngươi để trả mối thù tuyệt hận, ngươi lại dẫn xác tới đây nạp mạng, còn gì hay nữa. Mau ra đây để ta khỏi mất công truy đuổi.
Câu Hồn bang chủ! Các nhân vật võ lâm đang kinh ngạc vì cái tên Kim Ngang Tiêu, chợt thấy chàng thanh niên áo trắng gọi kẻ đứng trên cây là Câu Hồn bang chủ, mọi người bỗng nhớt nhác lùi lại một bước, nét mặt lộ vẻ vô cùng kinh hoảng, nhìn về phía cổ thụ um tùm.
Câu Hồn bang đã hoành hoành, reo khủng khiếp trong võ lâm từ mấy năm nay, cái tên Câu Hồn bang chủ quả có uy lực lớn hơn cái tên Kim Ngang Tiêu rất nhiều.
Ngay cả đến hai hòa thượng thuộc Mâu Ni đường Bắc Thiếu Lâm tự cũng phải giật mình, vội vận kình khí lên toàn thân đề phòng, vì biết tên ma đầu ghê gớm nhất võ lâm đã xuất hiện.
Tuy nhiên khi mọi người nhìn lên cổ thụ vừa rồi, chỉ thấy cành lá um tùm tuyệt không có một bóng người nào.
Thanh niên áo trắng lúc này đã lộ bộ mặt lầm lì đầy sát khí, quát lớn :
- Câu Hồn bang chủ! Ngươi không dám ra mặt tức là đã làm tiêu uy thế của Câu Hồn bang. Nhưng ngươi không thoát khỏi tay ta đêm nay đâu.
Đột nhiên ở cây đối diện góc phía tây lại có chuỗi cười the thé nổi lên. Mọi người kinh hãi, Câu Hồn bang chủ quả là danh bất hưu truyền, di chuyển từ cây này qua cây khác lúc nào mà tuyệt nhiên các cao thủ không hay biết.
Chuỗi cười the thé vừa dứt thì tiếng nói lanh lảnh lại tiếp :
- Kim tiểu tử, ngươi chết đến nơi rồi mà chưa biết hay sao? Các vị võ lâm tiền bối, cao thủ giang hồ hãy nghe bổn Bang chủ nói đây. Các vị chỉ biết tranh đoạt hai di vật của phái Côn Luân, nhưng có mấy thứ báu vật võ lâm quí giá hơn gấp bội ở trước mắt mà không biết.
Đó là cuốn võ học thượng thừa, tự cổ chí kim không có, tức là cuốn Cự Linh thần công chân kinh cùng nhiều bí cấp võ học khác ở dưới địa huyệt Dã Nhân lãnh, lại thêm có một cây Thiên Niên Tuyết Sâm và hai hoàn tối thượng linh dược do Hà Thủ Ô luyện thành, có khả năng giúp người luyện công đạt được mức bốn chục năm khổ luyện trong mấy ngày trời...
Lời nói của Câu Hồn bang chủ quả là lợi hại vô cùng. Kẻ học võ ai chẳng ham mê bí quyết và mật cấp công phu thượng thừa, có thể nói quý hơn tính mạng, giá trị hơn tất cả những thứ châu báu ở trên đời. Nay lại thấy nói đến Tuyết Sâm và hoàn thuốc Hà Thủ Ô, làm sao không nổi long tham cuồng vọng. Còn chàng thanh niên áo trắng có vẻ lặng người đi vì kinh ngạc, không ngờ Câu Hồn bang chủ biết được những chuyện đó.
Trong khi ấy, giọng nói của Câu Hồn bang chủ vẫn nheo nhéo tiếp, mỗi lúc hấp dẫn hơn :
- Chư vị võ lâm đồng đạo có biết những dị bảo vô song của võ lâm ở đâu không?
- Ở ngay trước mặt chư vị đó! Tên tiểu tử Kim Ngang Tiêu này đang mang trong người những thứ đó. Y chính là kẻ đã xuống được địa huyệt Dã Nhân lãnh và chiếm đoạt được những báu vật đó.
Câu Hồn bang chủ vừa nói dứt lời, tức thì các nhân vật võ lâm ở đó nhao nhao cả lên, những tia mắt đầy tham vọng bỗng chiếu vào thanh niên áo trắng đứng giữa.
Thanh niên tức giận, chàng biết rằng Câu Hồn bang chủ dùng quỷ kế, định thôi thúc lòng tham của các nhân vật võ lâm ở đây, gây khó dễ cho chàng nên chàng quát lớn :
- Câu Hồn bang chủ, không ngờ ngươi hèn nhát đến thế, ngươi chớ hòng lẩn tránh nữa.
Đáng lẽ thanh niên chưa nói dứt lời đã nhảy vọt như tên bắn, nhưng tay chàng lại vướng bọc hành lý của Chu Uyển Thanh thành thử chàng ngần ngừ đôi chút. Chỉ trong giây ngần ngại đó cũng đủ các cao thủ võ lâm ngăn cản chàng.
Nhiều tiếng quát tháo nổi lên từ tứ phía :
- Khoan ngươi không đi đâu hết!
- Chớ có chạy, ngươi định chiếm cả di vật của phái Côn Luân hay sao?
Lại có tiếng nói :
- Chớ để y chạy thoát, muốn sống phải để cuốn chân kinh Cự Linh thần công lại đây.
Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo giơ hai chưởng lên cười hô hố :
- Mộng xuống Dã Nhân lãnh lão ma vương này đã có từ lâu, không ngờ chú mày đã xuống đó thay ta, tiểu tử kia, khỏi phải nói lôi thôi gì hết, nếu ngươi đưa tất cả báu vật cho ta, lão ma vương này thề sẽ che chở bảo toàn tính mạng cho ngươi.
Tuệ Giác và Tuệ Hải thiền sư mau tay hơn, trong chớp mắt đã thấy bốn luồng kình phong của Kim Cương chưởng bay ra cuốn lấy thanh niên, như thể sợ thanh niên chạy trốn.
Đồng thời Tuệ Giác thiền sư cũng lên tiếng :
- Thí chủ phải đứng im nơi đó, không được đi đâu hết, để bần tăng hỏi cho rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao.
Tứ bề bốn bên, trên hai chục cao thủ võ lâm, toàn là những tay võ công tuyệt thế, khét tiếng giang hồ, kẻ giơ chưởng người vung vũ khí, nhất tề vây chặt thanh niên vào giữa, như muốn băm vằm chàng ngay ra làm muôn mảnh. Ghê thay lòng tham của giới võ học đối với những mật quyết võ lâm!
Trước tình thế đó, thanh niên áo trắng gượng cười chắp tay nói :
- Chư vị anh hùng hãy bình tâm nghe tại hạ nói một lời. Tại hạ chính là Kim Ngang Tiêu, kẻ tử thù của Câu Hồn bang đây. Chư vị chớ nghe lời xảo trá của tên Câu Hồn bang chủ, trúng kế ly gián của y. Câu Hồn bang chủ là tên ma đầu bại hoại số một của võ lâm, đã làm hại biết bao anh hùng hảo hán trên chốn giang hồ. Dịp may này thật hiếm có, chư vị hãy cùng tại hạ hợp lực trừ diệt cho xong mối họa của võ lâm. Còn... còn mấy báu vật dưới địa huyệt Dã Nhân lãnh, chuyện còn dài và còn nhiều uẩn khuất. Chờ khi diệt xong Câu Hồn bang chủ, tại hạ sẽ thưa chuyện cùng chư vị anh hùng cũng không muộn mà.
- Không! Không!
- Không được! Chớ để tên tiểu tử này xảo trá đánh lừa.
- Muốn gì hãy để lại cuốn Cự Linh thần công trước đã!
Bao nhiêu tiếng nhao nhao nổi lên, trong khi từ phía cây um tùm một chuỗi cười ròn khanh khách đầy vẻ đắc chí của Câu Hồn bang chủ lại buông ra.
Chàng thanh niên áo trắng đó thực ra là Kim Ngang Tiêu. Từ khi đạt được võ công thượng thừa đến giờ, chàng ngày đêm mong mỏi, chỉ muốn gặp ngay kẻ thù là Câu Hồn bang chủ để đua tài thử sức hầu trả thù tuyệt hận cho cha mẹ Khốn thay khi gặp được Câu Hồn bang chủ, Kim Ngang Tiêu lại trúng kế của địch, lọt vào giữa đám võ lâm cao thủ này.
Kim Ngang Tiêu rất tin tưởng ở võ học của mình. Từ khi chia tay với Dị Cái Bạch Thiên Vân, thấm thoát hơn một tháng rồi, trong thời gian này chàng tiếp tục cuộc hành trình đi về phía núi Thanh Thành, để tìm lại động núi dưới ngọn Gián Vân phong hội kiến với lão ác bà như dự kiến, đồng thời chàng tiếp tục nghiên cứu cuốn chân kinh Cự Linh thần công hàng ngày chăm chỉ tập luyện nên võ công ngày càng tinh tiến.
Nhưng giờ đây chàng không khỏi e ngại trước đám cao thủ bị tham vọng làm cho cuồng nhiệt. Chàng đã chứng kiến tài ba Âm Phong chưởng của Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo và Kim Cương chưởng của hai hòa thượng phái Bắc Thiếu Lâm, nhận thấy võ công của họ đều có phần trội hơn cả Hổ Ma Phạm Hống và Cổ Ma Lâm Tàn. Ngoài ra còn có lối tới hai chục cao thủ khác, trong số có nhiều tay không kém gì Độc Thủ Ma Vương và hai hòa thượng Thiếu Lâm. Nếu tất cả hợp lực liên thủ, xông lại tấn công chàng dù có võ công cái thế cũng khó lòng địch nổi.
Kim Ngang Tiêu lên tiếng giảng giải, nhưng chàng chưa kịp nói, bọn cao thủ võ lâm đã lên tiếng mắng át chàng đi. Giữa lúc gay cấn đó bỗng chàng thiếu niên tên gọi Chu Uyển Thanh nhảy vọt lên một bước thét lanh lảnh :
- Kim thiếu hiệp, xin thiếu hiệp bỏ mặt gói hành lý của tiểu đệ cho bọn chúng cướp đi, đừng quan tâm đến việc đó nữa kẻo hỏng việc lớn.
Kim Ngang Tiêu chưa kịp đáp, Chu Uyển Thanh đã hướng về phía hai hòa thượng Bắc Thiếu Lâm nói lớn :
- Hai vị đại sư mau tiếp nhận lấy hai gói hành lý đó, nhưng hai vị không được ngăn cản Kim thiếu hiệp truy nã kẻ thù. Còn các vị khác muốn tranh đoạt hai di vật của phái Côn Luân, xin hãy hỏi hai vị sư phụ chùa Bắc Thiếu Lâm. Riêng Kim thiếu hiệp không liên quan gì đến việc này nữa.
Lời của Chu Uyển Thanh rõ ràng là muốn gỡ nguy cho Kim Ngang Tiêu. Chu Uyển Thanh sẵn sàng hy sinh báu vật của mình đề đáp lại ơn tái ngộ của chàng, khiến Kim Ngang Tiêu không khỏi cảm động, nhìn chàng thiếu niên mặt mũi lem luốc đó như muốn cảm ơn nhưng trong lòng chàng thì lại phân vân chưa quyết định, không biết có nên làm theo những lời của Chu Uyển Thanh không.
Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo cười hô hố :
- Bây giờ thì di vật của phái Côn Luân không quan trọng nữa rồi. Bất luận thế nào thì tên tiểu tử họ Kim kia không được rời khỏi nơi đây.
Trong khi bọn cao thủ đó đứng ồn ào lên tiếng tỏ vẻ tán thành, thì giọng nói như tiếng chuông của Tuệ Giác thiền sư lại vang lên :
- Chu tiểu thí có chủ ý trao di vật của phái Côn Luân cho bần tăng, bần tăng xin hoan hỉ nhận lãnh. Nhưng Kim thí chủ thì... vẫn phải ở lại đây, để bần tăng có việc muốn hỏi.
Châm ngôn Kim Cương chưởng
Kim Ngang Tiêu nghe nói nóng lòng chàng chỉ sợ Câu Hồn bang chủ ở trên cây tẩu thoát đi mất. Lúc này tiếng cười của Câu Hồn bang chủ trên cây đã dứt hẳn, không thấy động tĩnh gì, khiến chàng vừa sợ vừa tức, quát lớn :
- Các vị không được cưỡng ý người như thế.
Muốn gì thì cũng để tại hạ truy nã tên Câu Hồn bang chủ cho xong đã.
Nói chưa dứt lời, chàng đã nhún mình định phi thân đi ngay. Nhưng thân hình chàng vừa rời khỏi mặt đất, một bóng người đã phi nhanh như điện xẹt, đồng thời người đó giơ tay tấn công chàng một chưởng.
Kim Ngang Tiêu bất đắc dĩ phải giơ tay mặt lên gạt đỡ.
Hai chưởng tiếp giao nhau chỉ nghe một tiếng “bộp” một tiếng khô khan, nhưng chàng đã bị đẩy lùi trở lại một bước, còn người vừa nhảy tới đã bị lộn đi một vòng, song y đã giở thân pháp tuyệt diệu, hai chân đáp xuống bãi tuyết người đứng vững như bàn thạch. Cả hai cùng trố mắt nhìn nhau kinh ngạc về võ công của nhau.
Thì ra người vừa nhảy tới chính là Tuệ Hải thiền sư, nhân vật thứ sáu của Mâu Ni đường, sư đệ của Tuệ Giác thiền sư. Kim Ngang Tiêu vừa rồi trong lúc vội vàng chỉ vận có sáu thành công lực vào cánh tay nên bị đẩy lùi một bước. Cũng may chàng đã vận Cự Linh thần công hộ thể toàn thân, nên không bị hạ phong ngay vì chưởng Kim Cương thuần dương khí của Tuệ Hải thiền sư.
Kim Ngang Tiêu vừa bị đẩy một bước thì Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo đã giở Âm Phong chưởng với tiếng gió rít như tiếng quỷ hú, xông lại tấn công chàng Kim Ngang Tiêu đã chấn định tinh thần, chàng biết trận đầu này nguy hiểm lắm, không thể dùng lực chọi lực làm phí sức với bọn ma đầu, bởi vậy chàng giở Tu Di thân pháp, thân hình nhẹ nhàng huyền ảo, thoát ngay ra ngoài luồng chưởng phong của Độc Thủ Ma Vương.
Không ngờ Kim Ngang Tiêu vừa né người ra phía ngoài thì đã có ánh đao thấp thoáng chém bổ xuống đầu chàng. Trong lúc quá cấp bách, Kim Ngang Tiêu không kịp né tránh, nhưng chân chàng thuận thế phóng lên một ngọn Phi Long Diệu Cước. Chỉ nghe “bốp” một tiếng, cả người cả đao của kẻ tấn công bị bắn tung ra xa đến năm trượng, và một tiếng thét hộc lên rồi im hẳn.
Bỗng có một tiếng quát lớn hằn học nổi lên :
- Tiểu tử, ngươi phải thường mạng tử đệ của lão phu.
Một lão già cầm một cây trượng “Giáng Ma” bằng thép coi rất nặng nề đã nhảy xổ tới tấn công Kim Ngang Tiêu, để báo thù cho người em lão vừa rồi bị Kim Ngang Tiêu đá chết.
Kim Ngang Tiêu không biết tên tuổi ông già này, chỉ biết y đứng trong các nhân vật võ lâm kéo đến bao vây tửu điếm ở phía ngoài.
Cây trượng “giáng ma” trong tay lão linh động lạ thường, bay vùn vụt như chớp nhoáng, tạo thành một luồng áp lực ghê người.
Kim Ngang Tiêu không dám coi thường, vội giở thân pháp tuyệt học ra né tránh. Nhưng chàng vừa tới góc bên kia, liền bị ngay mấy cao thủ ở đó xúm lại tấn công. Thành thử trong chớp mắt Kim Ngang Tiêu đã bị vây chặt vào giữa.
Thực ra lúc đầu Kim Ngang Tiêu không có ý muốn ra tay sát thủ với bọn người này nhưng bây giờ chàng thấy nguy nan vô cùng. Lại thêm Câu Hồn bang chủ từ nãy giờ thấy im hơi lặng tiếng, Kim Ngang Tiêu lại càng sốt ruột muốn chấm dứt ngay trận đấu để đuổi theo Câu Hồn bang chủ.
Chàng liền quát lên một tiếng, vận mười hai thành hỏa hầu Cự Linh thần công đồng thời giở Tu Di thân pháp, xuyên đi xuyên lại trong đám cao thủ như điện chớp. Chỉ trong khoảnh khắc đã có hai người kêu rú lên, ngã lăn ra chết.
Nhưng với bọn cao thủ ghê gớm này, Kim Ngang Tiêu làm sao có thể thắng nổi dễ dàng như thắng Câu Hồn bang trước đây?
Kim Ngang Tiêu chưa kịp bứt đi thì đã thấy Tuệ Giác và Tuệ Hải thiền sư đứng sát bên nhau, bốn chưởng từ từ giơ lên, đồng thời cả hai ê a niệm châm ngôn quái dị như niệm chú :
- Án hô lô ni ta hà ba!
Kim Ngang Tiêu cả kinh, biết ngay rằng đó là châm ngôn tâm niệm của cuốn kinh Kim Cương nhà Phật, cốt để tập trung thần trí “bát nhã ba la mật” và người tu luyện Kim Cương chưởng pháp khi niệm đến châm ngôn là vận dụng toàn thể mười hai thành công lực của Kim Cương chưởng.
Quả nhiên uy lực của bốn chưởng Kim Cương do hai nhà sư đánh ra dũng mãnh không thể tưởng tượng. Tất cả những cao thủ đang tấn công xung quanh Kim Ngang Tiêu, kể cả Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo, bị chưởng lực đẩy giật ra ngoài, có người phải lùi đến bảy, tám bước mới đứng vững lại được.
Còn Kim Ngang Tiêu đứng giữa luồng chưởng phong, trái lại thấy một luồng áp lực đè xuống, ghìm chặt tay chân ở một nơi không cho thoát đi đâu. Áp lực càng ngày càng tăng.
Từ khi ra khỏi Địa huyệt Dã Nhân lãnh, chưa bao giờ Kim Ngang Tiêu gặp địch thủ nguy hiểm như thế này. Chàng vội buông bọc hành lý của Chu Uyển Thanh, vận dụng đến thức tám mươi mốt của Cự Linh thần công, tức là mức cuối cùng của môn võ học thượng thừa này. Sự thật nếu không nhờ Thiên Niên Tuyết Sâm và hai hoàn thuốc Hà Thủ Ô bách dược thì Kim Ngang Tiêu dù có học được Cự Linh thần công, cũng chết vì bốn chưởng Kim Cương này.
Chàng vận dụng sức lực bình sinh, nhắm mắt, dùng cả hai cánh tay đánh thốt ra ngoài, ngăn chặn Kim Cương chưởng lực đang bay đến.
“Bùng... bùng” những tiếng nổ nhưng tiếng sét vang ra, không khí bị chưởng lực dồn ép phát nổ, xông mùi khét lẹt. Cây cối xung quanh gãy đổ rào rào, trong khi đám cao thủ xung quanh rú lên kinh hãi. Chu Uyển Thanh và Chu Đức Ân đứng xa cũng bị ngã ngồi xuống bão tuyết.
Kim Ngang Tiêu bị đẩy liền đến bảy tám thước lùi lại phía sau ngã ngồi xuống đất, mắt mũi tối sầm, khí huyết trong người đảo lộn, đồng thời lợm giọng chỉ muốn thổ huyết. Chàng kinh hãi quá chừng, vội điều động chân khí, thấy chân khí chuyển vận tự do, mới biết không bị nội thương, song sức lực suy giảm rất nhiều.
Tuy nhiên sức phản kháng của Cự Linh thần công không phải tầm thường. Tuệ Giác và Tuệ Hải thiền sư chẳng những bị đẩy lùi đến mười bước, mà sắc mặt hai người đều nhợt nhạt, hai mắt nhắm nghiền. Xét ra hai nhà sư đã bị Cự Linh thần công phản kích, gây thành nội thương trong ngũ tạng rồi.
Cả hai vị hòa thượng đó đều đứng vào hàng đệ nhất cao thủ của Bắc Thiếu Lâm, nên tuy đã bị nội thương, cả hai đã bế ngay được huyệt đạo, đứng phắt ngay lên.
Song Tuệ Giác cũng như Tuệ Hải thiền sư đều trố mắt nhìn Kim Ngang Tiêu, sắc mặt cực kỳ kinh hãi, vì không hiểu tại sao một thanh niên tuổi trẻ như Kim Ngang Tiêu lại có công phu tu luyện kinh người đến mức như vậy. Chẳng những chàng không bị thương vì Kim Cương chưởng liên hợp đạt tới mức tối đa, mà còn đủ lực phản kích, làm cho hai người bị nội thương. Trên đời này chằng mấy cao thủ có thể đạt tới mức nội lực thâm hậu đến mức đó, nếu không phải trải qua tên bốn chục năm khổ luyện.
Trận giao chưởng ghê gớm đó khiến tất cả những cao thủ chứng kiến phải kinh hồn thất sắc. Tuy nhiên đối với những kẻ ở ngoại cuộc, sự hơn thua không thể nào biết được, họ chỉ thấy Kim Ngang Tiêu bị ngã ngồi phệt xuống đất nên họ cho rằng chàng đã bị thua, chớ không biết chính hai nhà sư đã bị nội thương vì phản ứng của Cự Linh thần công. Dẫu sao cả bọn cũng ngây người ra chưa kịp nghĩ đến việc tranh đoạt bọc hành lý, bị Kim Ngang Tiêu bỏ lăn trên mặt đất tuyết phủ trắng xóa.
Kim Ngang Tiêu đang ngồi vận công điều thức để điều hòa chân khí thì đột nhiên tai chàng nghe có tiếng người nhẹ bước đến gần và tiếng nói đầy vẻ lo lắng :
- Kim Ngang thiếu hiệp có làm sao không?
Kim Ngang Tiêu ngẩng đầu lên nhìn, thấy người đến hỏi chính là chàng thiếu niên mặt mũi lem luốc tên gọi là Chu Uyển Thanh. Lúc này Chu Uyển Thanh cặp mắt lóng lánh sáng quắc, nhìn chàng đầy vẻ quan hoài.
Kim Ngang Tiêu cười, nhảy vụt đứng lên nói :
- Tiểu đệ không làm sao hết, Chu huynh chớ lo ngại :
Chàng vừa nói dứt lời, bỗng nhiên có tiếng cười lanh lảnh rất quái dị. Chỉ trong chớp mắt tiếng cười đã đến gần và một bóng người thân pháp mau lẹ như một luồng khói đã xuyên qua đám cao thủ, rồi một bóng người mặt toàn đồ đen đã xuất hiện trước mặt mọi người.
Không hiểu người đó có thân pháp quái dị như thế nào mà tất cả các võ lâm cao thủ đứng đó chỉ thấy hoa mắt một cái, người đó ở trước mặt, đồng thời trên tay người đó đã có bọc hành lý của Chu Uyển Thanh rồi.
Sự việc xảy ra quá đột ngột và kinh dị khiến mọi người quên cả phản ứng chỉ đứng ngây người ra nhìn, khi thấy rõ hình dáng người đó, tất cả lại càng kinh dị, há hốc mồm ra nhìn.
Người mới đến là một thiếu phụ mặt mũi rất xinh đẹp, nước da trắng nõn đôi má ửng hồng vì trời lạnh, cặp mắt đen láy rất sắc sảo. Thiếu phụ đó mặt toàn đồ đen nhất là tiếng cười vừa rồi của thiếu phụ khiến người ta đoán ngay rằng nàng chính là người vừa đứng trên mái nhà của tửu điếm, khi mái nhà này bị chưởng phong đánh bật tung lên.
Nhưng mọi người ngạc nhiên nhất là thấy thiếu phụ khinh công trác tuyệt, có thể nói ở trên cả những cao thủ có mặt ở đó, cứ xem thân pháp của thiếu phụ khi nhảy ra khỏi mái nhà và khi đến đây cướp bọc hành lý thì đủ rõ. Với thân pháp tuyệt diệu đó, thiếu phụ phải một tay nội công thượng thừa nhất lưu cao thủ võ lâm.
Song mọi người vẫn không hiểu thiếu phụ là ai, mà xét trong võ lâm không có người đàn bà nào trẻ đẹp mà võ công cao siêu đến như vậy. Riêng tuổi của thiếu phụ thì lại càng khó đoán, mới thoạt trông ai cũng tưởng thiếu phụ chưa đến ba mươi tuổi, nhưng đến khi ngắm kỹ, người ta có thể cho là thiếu phụ đã lớn tuổi, đến ngoài bốn mươi cũng chưa biết chừng.
Mọi người còn chưng hửng thì Độc Thủ Ma Vương đã cất tiếng như lệnh vỡ quát mắng :
- Yêu phụ! Ngươi là người thế nào mà dám đến đây ra tay cướp đoạt bảo vật?
Thiếu phụ cất tiếng cười khanh khách :
- Hạng tiểu bối ma đầu như ngươi làm sao biết được lão nương. Hà hà... Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo, nhà ngươi hãy tự cho là vận hội may mắn lắm rồi đi. Lần này tái xuất giang hồ, tâm tính của lão nương cũng nguội đi quá nửa rồi, mối uất hận nung nấu tâm can năm xưa cũng qua năm tháng mà tiêu tan bớt đi nhiều, nếu không chỉ một câu hỏi vô lễ đó cũng đủ đưa ngươi hồn du địa phủ. Ha ha...
Chẳng cứ gì Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo mà hết thảy các nhân vật võ lâm đứng đó đều lạnh toát xương sống vì câu đe dọa có vẻ rất thông thường đó. Sự thật khẩu khí ghê gớm của thiếu phụ không làm mọi người kinh sợ bằng việc thiếu phụ này gọi Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo là tiểu bối.
Lúc này Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo trang tác thành một lão nông phu, nhưng y không thể nào giấu nổi tuổi tác, với đầu tóc và bộ râu đã hoa râm. Vả lại trong khắp chốn giang hồ, ai không biết là Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo đã ngoài năm chục tuổi.
Thiếu phụ mặc áo đen kia tuy thật khó đoán tuổi tác, nhưng người tinh mắt và linh duyệt giang hồ rất nhiều đi nữa, cũng chỉ có thể đoán thiếu phụ này trạc ngoài tứ tuần là cùng, không khéo còn trẻ hơn nữa, nếu xét thân hình yểu điệu và vẻ mặt kiều diễm tuyệt đẹp như con gái.
Người trong võ lâm Trung Quốc dù mắc chứng khoe khoang hợm hĩnh hay khoác lác lừa bịp đến mức nào, cũng phải tôn trọng một nguyên tắc bất di bất dịch là về tuổi tác không được phép trịch thượng chơi trèo bao giờ, mà phải tỏ ra trên ra trên, dưới ra dưới.
Thiếu phụ này võ công cái thế, làm sao không biết quy luật đó? Vậy mà y thị dám gọi Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo là tiểu bối! Thiếu phụ là nhân vật thế nào mà ghê gớm như vậy?
Hắc Cốt Ma Nương
Thiếu phụ thấy các nhân vật võ lâm kinh dị, lại cười lanh lảnh một hồi, tiếng cười không hiểu sao nghe rùng rợn ma quái vô cùng, đó không phải là tiếng cười mà là một thứ tiếng ma kêu quỷ hú, bất cứ ai nghe thấy cũng rùng mình rợn tóc gáy.
Chuỗi cười đột nhiên đứt đoạn, thiếu phụ vung tay, một vật gì loang loáng bay ra khỏi tay áo y thị cắm phập xuống trước mặt Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo và bọn võ lâm cao thủ, đồng thời thiếu phụ lên tiếng :
- Ta đã nói là các ngươi may mắn lắm mới gặp ta vào lúc này: bởi ta cũng phá lệ năm xưa cho các ngươi biết ta là ai.
Mọi người chú ý nhìn vật vừa bay tới cắm trước mặt họ. Thì ra đó là một lá cờ nhỏ, cán bằng sắt trông như một que đũa, còn lá cờ to bằng bàn tay, sắc đỏ thắm, trên có vẽ một đầu lâu người trơ xương và hai xương ống bắt tréo nhau, toàn màu đen tuyền, trông quái dị.
Vừa thoáng trông thấy lá cờ đỏ và bộ xương người màu đen, anh em Cô Lâu song sát bị thương từ đầu, lúc này vận công đã bớt, đột nhiên rên lên một tiếng hãi hùng :
- Hắc Cốt Ma Nương!
Trừ những người còn ít tuổi như Kim Ngang Tiêu và Chu Uyển Thanh không kể, còn tất cả những nhân vật tiền bối đứng đó khi nghe thấy bốn tiếng “Hắc Cốt Ma Nương” đều kêu lên một tiếng hãi hùng, mặt tái nhợt, lùi lại một bước, mắt trợn trừng tưởng đến rách mí, nhìn thiếu phụ như thể nhìn một bóng ma vừa hiện hồn.
Hai vị hòa thượng Bắc Thiếu Lâm cũng tỏ vẻ kinh hãi. Tuệ Giác thiền sư sững sờ lẩm bẩm nói :
- Hắc Cốt Ma Nương! Không có lý...
Hai đạo sĩ Cô Lâu song sát đứng lên chắp tay vái chào :
- Anh em bần đạo sơ suất, không biết có Tiên nương giáng lâm, xin Tiên nương lượng thứ.
Cô Lâu song sát tỏ thái độ rất kính cẩn như vậy là vì họ là những người võ học uyên thâm, đã hiểu ngay lai lịch ghê gớm của vị Hắc Cốt Ma Nương này.
Sáu chục năm trước đây, cái tên Hắc Cốt Ma Nương với ngọn cờ hồng đã làm vỗ lâm khiếp đảm kinh hồn và đã gây ra biết bao cơn phong ba bão táp, máu thịt tơi bời.
Nguyên Hắc Cốt Ma Nương tên thực là Lý Phụng Chỉ, xuất thân là một nữ hiệp dung nhan tuyệt đẹp, môn đồ của Độc Tý Thần Cô, một vị đạo cô của phái Bắc Thiên sơn thời đó vẫn được coi là một trong Bắc Phương song kỳ, võ công có thể nói vào bậc nhất thiên hạ.
Lý Phụng Chỉ là ái đồ của bà Độc Tý Thần Cô, được võ công chân truyền của sư phụ, nên hai mươi tuổi nàng đã trở thành một nữ hiệp trứ danh, bôn tẩu giang hồ, cứu khốn phò nguy. Hơn nữa Lý Phụng Chỉ nhan sắc cực kỳ diễm lệ cho nên người thời đó thường gọi nàng là Hắc Y Tiên Nương, vì nàng hay mặc những bộ áo quần màu đen tuyền.
Cuộc đời của Hắc Y Tiên Nương Lý Phụng Chỉ tưởng như sẽ vô cùng tốt đẹp và hạnh phúc, không ngờ sau khi hành hiệp giang hồ được hai năm thì nàng mắc phải lưới tình và yêu phải một gã sở khanh tán tận lương tâm.
Sự thật người yêu của Lý Phụng Chỉ cũng là một tay kiếm khách kỳ tài, lại thêm bộ mặt rất anh tuấn, dáng điệu rất phong lưu tiêu sái.
Nhưng đó cũng là một tay ong bướm đào hoa, đối với võ lâm đạo nghĩa thì thật là bậc anh tài, nhưng đối với đường tình thì lại là một kẻ phản bội hèn hạ vô cùng. Y mê say Lý Phụng Chỉ, rồi cùng nàng thề non hẹn biển, hẹn sẽ gá nghĩa trăm năm với nàng, nhưng chỉ được ít lâu sau y gặp một người yêu nữ thuộc một tà giáo ở miền nam, chẳng những có những nhan sắc tuyệt vời mà còn có võ công rất cao hơn hẳn Lý Phụng Chỉ.
Dĩ nhiên nhan sắc của yêu nữ không thể nào hơn được Lý Phụng Chỉ, nhưng không hiểu tại sao chàng kiếm khách nọ mê say yêu nữ đến độ bỏ rơi luôn Lý Phụng Chỉ, không đoái hoài gì đến nàng nữa. Thời đó võ lâm đồn đại rằng yêu nữ có ma thuật, quyến rũ chàng kiếm khách. Nhưng sự thật có lẽ là nhan sắc của yêu nữ là một thứ nhan sắc ma quái, khiêu khích nhục dục, hợp với tính tình ong bướm của chàng kiếm khách hơn là thứ nhan sắc đoan trang, thầm kín của Lý Phụng Chỉ.
Một cuộc xung đột ghê gớm xảy ra giữa yêu nữ và Lý Phụng Chỉ, nhưng vì kém tài hơn, Lý Phụng Chỉ thất bại. Bị nhục nhã nhất là uất hận về thái độ của chàng kiếm khách, chẳng những không đoái hoài hay bênh vực nàng mà còn về hùa với yêu nữ, định sát hại nàng, Lý Phụng Chỉ gần như hóa điên cuồng quay về núi quỳ lạy khóc than trước mặt sư phụ là Độc Tý Thần Cô.
Độc Tý Thần Cô nguyên cũng là một người đàn bà thất tình rồi mới chán nản sự đời đi học đạo trở thành một đạo cô, nên rất thương nữ đồ đệ, bà liền đem hết bổn môn công phu truyền lại cho Lý Phụng Chỉ, đồng thời còn đem công lực trên ba mươi năm tu luyện của mình truyền sang nội thể của Lý Phụng Chỉ, để nàng trở thành một đệ nhất cao thủ đương thời. Nhưng bà cũng bắt Lý Phụng Chỉ phát trọng thệ là nếu không cắt tóc làm đạo cô thì một đời nàng cũng không được kết bạn với đàn ông và còn phải căm thù nam giới nữa.
Thất bại và đau khổ về đường tình, Lý Phụng Chỉ lại được may mắn về đường võ. Sau hai năm học hết bí quyết võ công của Độc Tý Thần Cô, nàng bái lạy sư phụ xuống núi để tìm kẻ thù, nhưng cặp kiếm khách và yêu nữ nọ cũng tuyệt tích giang hồ. Trong khi đó tìm kiếm kẻ thù ở khắp chân trời góc bể, tình cờ Lý Phụng Chỉ lại lạc ra một hoang đảo ở Bắc Hải tên gọi là Hoàng Hạc đảo. Chủ nhân của Hoàng Hạc đảo là một dị nhân trên một trăm tuổi, sống một cuộc đời nửa tiên nửa tục, không bao giờ đặt chân vào đến Trung Nguyên, nhưng võ công đã đến bực nhập hóa rồi.
Dị nhân này có mối duyên kỳ ngộ với Lý Phụng Chỉ, nên chẳng những đã truyền thụ võ công quái dị cho nàng, khác hẳn võ công Trung Nguyên, mà lại còn cho nàng uống một bình nước dãi hoàng hạc sống ngàn năm. Sở dĩ hòn đảo này có tên là Hoàng Hạc đảo là vì quanh năm suốt tháng có hàng ngàn hàng vạn con hạc lông màu vàng đến làm tổ và trú ngụ, chịu dưới quyền sai khiến của dị nhân.
Mặc dầu có hàng vạn con hạc ở đó, nước dãi hạc ngàn năm đâu có thể mới chốc mà kiếm được. Nước dãi hạc này vô cùng quý giá chỉ cần uống một chén cũng đủ tăng gia nội lực bằng mười năm tu luyện nội công. Lý Phụng Chỉ đã được Độc Tý Thần Cô truyền nội lực lại được uống cả một bình nước dãi hạc ngàn năm, nên võ công nội lực của nàng tinh tiến đến mức tuyệt đỉnh, có thể nói là đệ nhất thế gian vào thời đó.
Sau khi gặp được kỳ ngộ này, Lý Phụng Chỉ bái biệt dị nhân trở về Trung Nguyên. Xa Trung Nguyên thì không sao về đất cố thổ, Lý Phụng Chỉ lại đau khổ về mối hận tình năm xưa. Nàng liền đi tìm đôi dâm phu dâm phụ, quyết chặt đầu chúng, trả mối thù cũ.
Từ đó võ lâm trải qua một cơn tai biến kinh khủng. Hắc Y Tiên Nữ Lý Phụng Chỉ tái xuất giang hồ, vẫn với bộ mặt kiều diễm như xưa, nhưng lần này tâm tính nàng thay đổi hẳn.
Võ công càng cao, hận tình càng nung nấu vì kiếm mãi không gặp kẻ thù. Hắc Y Tiên Nữ trở thành một sát tinh của giang hồ.
Chẳng những nàng giết kẻ ác, mà gặp bất cứ thanh niên nam nữ nào đang vướng phải lưới tình, nàng cũng ra tay hạ sát thủ.
Biết bao các môn đệ của các danh môn chính phía chết oan về tay nàng. Càng giết Lý Phụng Chỉ càng say máu, gần trở nên điên cuồng đến nỗi ở trong hang động riêng của nàng, Lý Phụng Chỉ chất toàn hài cốt và đầu lâu nạn nhân của nàng.
Tuyệt kỹ của Lý Phụng Chỉ được dị nhân ở Hoàng Hạc đảo truyền cho là Hỏa Diệm chưởng một thứ chưởng lực ghê gớm, địch thủ bị trúng chưởng lực này thân hình cháy đen, chỉ còn một bộ xương khô đen tuyền. Bởi vậy những hài cốt nàng chất trong động đều là hài cốt màu đen hết.
Do đó cái tên hiệu đẹp đẽ Hắc Y Tiên Nương biến đi để thay thế bằng một tước hiệu khác. Người đời bây giờ gọi nàng là Hắc Cốt Ma Nương. Gọi là Ma Nương bởi vì nàng là một tên đại ma đầu, nhưng lại là một cô gái đẹp như Tiên nương.
Cái tên Hắc Cốt Ma Nương thời đó gieo rắc kinh hoàng trong võ lâm như thế nào, các bậc tiền bối loại năm sáu chục năm trước đều biết rõ.
Hắc Cốt Ma Nương tàn ác và sát hại võ lâm mỗi ngày một tăng và ngày càng trở nên điên cuồng, bởi vì hai kẻ thù chính vẫn mất tăm, không thấy đâu. Nàng không tin họ đã chết nên nàng tìm kiếm và kiếm không thấy càng nổi điên và tàn sát. Lúc đó sư phụ nàng, Độc Tý Thần Cô đã chết, vị dị nhân Hoàng Hạc đảo không bao giờ bước chân lên Trung Nguyên. Hắc Cốt Ma Nương trên đầu chẳng biết có ai, chỉ biết phóng tay gieo khủng khiếp và tang tóc để thỏa mối hận tình của nàng.
Về sau các đại môn phái phải họp đại hội các Chưởng môn nhân cùng các cao thủ của các đại môn phái đó đã tổ chức vây đánh Hắc Cốt Ma Nương. Nhưng thời bấy giờ có ai địch nổi nàng? Dĩ nhiên các cao thủ có quá nhiều và toàn là những tay đệ nhất võ công thiên hạ hợp lực tấn công, Hắc Cốt Ma Nương không thể nào thủ thắng. Nhưng muốn giết nàng đâu phải là chuyện dễ? Sau mấy lần vây công của các đại môn phái Hắc Cốt Ma Nương rút cuộc vẫn thoát thân và mỗi lần tấn công như vậy là mỗi lần lại có cao thủ của các môn phái, bị hóa thành đống xương đen vì Hỏa Diệm chưởng.
Lâu dần các đại môn phái cũng bó tay chịu thua không nghĩ đến việc cử binh đi truy nã Hắc Cốt Ma Nương nữa mà chỉ dặn các môn đồ đệ tử phải tránh xa con người đó. Được có điểm may là Hắc Cốt Ma Nương dung mạo tuyệt đẹp, mặc dầu mấy năm bôn ba vì hận tình nung nấu, nàng chẳng hề già đi chút nào và nhan sắc vẫy y nguyên như cũ, bởi vậy nàng đi đến đâu là có người biết ngay.
Hơn nữa Hắc Cốt Ma Nương ngay từ lúc đó đã lấy hiệu kỳ màu hồng, trên có vẽ bộ xương người đen, mỗi khi thi hành xong một thủ đoạn tàn sát, nàng lại để lại lá cờ màu đỏ đó. Vì thế lá cờ đỏ bộ xương đen (Hồng Kỳ Hắc Cốt) đã trở thành một biểu hiện của sự khủng bố của võ lâm giang hồ, bất luận lá cờ đó xuất hiện ở đâu, thì khách giang hồ, ngay cả những bậc võ lâm tiền bối, cũng phải e ngại tìm cách lánh xa để tránh họa lây.
Hắc Cốt Ma Nương làm mưa làm gió trong võ lâm như vậy khoảng năm năm thì đến một dạo bẵng đi không ai thấy lá cờ hồng đâu nữa và hình bóng Hắc Cốt Ma Nương cũng bặt tăm. Võ lâm kinh lạ, nhưng cũng không dám mong là nữ ma đầu ghê gớm đó đã biệt tích hẳn.
Nhưng về sau, các nhân vật võ lâm tình cờ kiếm được thấy một hai hang động của Hắc Cốt Ma Nương bỏ không, chỉ có những đống hài cốt đen nhánh bỏ lại, người ta mới bắt đầu tin là Hắc Cốt Ma Nương quả đã gặp một sự gì bất trắc. Nhân cơ hội các đại môn phái lại triệu tập hội nghị và chia người đi tìm kiếm để nếu gặp Hắc Cốt Ma Nương ở đâu liền hợp lực trừ diệt nàng cho tuyệt hậu họa.
Những võ lâm cao thủ thời đó đã nghi rằng Hắc Cốt Ma Nương gặp cường địch nên bị thương và trốn tránh ở nơi nào. Nhưng tìm mãi không thấy nàng ở đâu, trái lại chỉ thấy thêm những hang động bí mật chứa đầu lâu người cháy đen.
Đến lúc đó người ta mới tin rằng Hắc Cốt Ma Nương đã chết hẳn rồi. Cũng có người cho rằng Hắc Cốt Ma Nương đã tìm thấy hai kẻ gian phu dâm phụ và đã hạ sát được họ nên đã nguôi mối hận tình và mối hận vì việc đã làm nàng phong kiếm ẩn tu ở một nơi hoang địa nào. Lại có người cho rằng nàng đã tự tận ở ngoài Đông Hải nên chết mất xác. Mỗi người nói một cách không ai biết sự thực ra sao cả?
Chỉ mấy năm sau, chuyện Hắc Cốt Ma Nương đã chìm vào quên lãng rồi không ai nói đến tên Hắc Cốt Ma Nương nữa. Giang hồ biến đổi, vật đổi sao dời, chuyện Hắc Cốt Ma Nương tưởng đến đó là chấm dứt.
Nào ngờ, sáu chục năm sau, cái tên Hắc Cốt Ma Nương và lá cờ hồng xương đen lại đột nhiên xuất hiện trước mắt một đám võ lâm cao thủ ở một thị trấn hẻo lánh này, thì hỏi làm sao mọi người không ngạc nhiên?
Nhưng kinh dị hơn hết là trước mắt mọi người, Hắc Cốt Ma Nương chỉ là một thiếu phụ tuyệt đẹp tuổi ngoài ba mươi. Nếu không, những nhân vật giang hồ trí cao thức quảng, và không mê tín dị đoan, mọi người chắc hẳn phải cho đó là ma quỷ hiện hình. Bởi vì tính tuổi, nếu thực Hắc Cốt Ma Nương còn sống, thì ít ra nàng cũng phải là một lão bà ngoài tám mươi tuổi chớ tại sao nàng lại còn trẻ như vậy? Chẳng lẽ nàng có phép tiên?
Sự thật, tất cả các võ lâm cao thủ đứng đó, kể cả những người lớn tuổi, phần lớn đều không biết Hắc Cốt Ma Nương, lúc thiếu thời họ chỉ được nghe thấy các bậc tiền bối của họ kể lại, vì khi họ lớn khôn thì Hắc Cốt Ma Nương đã tuyệt tích giang hồ rồi.
Tuy nhiên trong số các nhân vật đến vào lúc sau này, có một ông già tuổi ngoài bảy mươi, tên gọi Bạch Thái Tuế Hồng Kỳ Ngu, là một trong ba ông già võ lâm nổi danh ở núi Thạch Bích, thường được giới giang hồ gọi là Thạch Bích Sơn tam lão.
Khi thiếu phụ mặc áo đen tự xưng là Hắc Cốt Ma Nương xuất hiện, Hồng Kỳ Ngu đã giật nẩy người, tưởng là mình hoa mắt. Nhưng đến khi lá cờ Hồng Kỳ Hắc Cốt tung ra, Hồng Kỳ Ngu run bắn cả toàn thân, lùi lại luôn mấy bước.
Trong số những người đứng đó, Bạch Thái Tuế Hồng Kỳ Ngu là người duy nhất đã được trông thấy Hắc Cốt Ma Nương khoảng sáu mươi năm trước. Thời đó Hồng Kỳ Ngu mới là một thiếu niên theo cha làm nghề bảo tiêu, tình cờ gặp Hắc Cốt Ma Nương ra tay tàn sát một đám phiêu sư.
Chỉ nhờ may mắn cho con Hồng Kỳ Ngu mới ẩn nấp vào rừng tránh thoát được cuộc tàn sát, bởi vậy ấn tượng Hắc Cốt Ma Nương đối với y quá sâu đậm.
Lần này gặp Hắc Cốt Ma Nương, Bạch Thái Tuế Hồng Kỳ Ngu tuy đã trở thành một nhân vật tiền bối võ lâm, nổi danh trong Thạch Bích Sơn tam lão, nhưng cũng kinh hoàng thất thố, đến nỗi quên cả thân phận của mình.
Bạch Thái Tuế Hồng Kỳ Ngu vừa lùi bước, vừa run rẩy lẩm bẩm :
- Đúng... đúng rồi... quả là... Hắc Cốt Ma Nương.
Tức thì chuỗi cười lanh lảnh như tiếng chuông khánh va chạm Hắc Cốt Ma Nương lại nổi lên :
- Té ra cũng có kẻ được biết đến ta mà chưa chết, khả hỉ, khả hỉ! Lão nương này trên sáu chục năm xa lánh hồng trần, tưởng không bao giờ trở lại nhìn mặt người đời nữa. Vậy mà... vậy mà... hừ... Nhưng thôi các ngươi đã biết tới ta, âu đó cũng là chuyện hay, ta chẳng cần phải nói nhiều lời nữa. Các ngươi hãy nghe ta phân phó đây. Di vật của phái Côn Luân đối với ta vô nghĩa, nhưng vì có một chuyện riêng ta cần phải có mấy thứ đó. Nay ta đến thu di vật này, các ngươi khỏi tranh giành làm chi cho phí công. Cũng vì lần tái xuất giang hồ này, tâm tính ta đã thay đổi hẳn, nên các ngươi đã được may mắn lắm đó. Bây giờ các ngươi hãy giải tán đi, ta tha chết cho hết thảy.
Cao thủ như vân
Hắc Cốt Ma Nương vừa nói dứt lời cả bãi tuyết trắng im phăng phắc. Những cặp mắt sáng quắc của bọn võ lâm cao thủ đứng đó đột nhiên lại thấy bốc lên mấy tia lửa căm phẫn và hung tàn.
Sự thật danh tiếng của Hắc Cốt Ma Nương có hung dữ thật, nhưng đó là thuộc về quá khứ. Những nhân vật võ lâm hiện có mặt, trừ một mình Hồng lão, còn đều là những người nghe ác danh của Hắc Cốt Ma Nương do những người đời trước thuật lại, dĩ nhiên hiệu quả chỉ có một phần nào.
Đến nay, qua lúc kinh hãi đột ngột một lúc ban đầu, mọi người đã bình tĩnh trở lại. Nhất là đến lúc thấy báu vật bị đoạt tay trên, ai nấy đều sôi máu căm hờn.
Võ học cũng như các ngành học khác, thường có cái tự kiêu của những kẻ hậu thế. Họ tin rằng họ giỏi hơn đời trước và dù sao nếu chưa thử sức, ít người đã cam chịu thất bại ngay.
Hơn nữa, Hắc Cốt Ma Nương ác danh ghê gớm, nhưng người đứng trước mặt họ đây chỉ là một thiếu phụ yểu điệu, thử hỏi làm sao họ khuất phục ngay được?
Hắc Cốt Ma Nương vừa nói dứt lời thì Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo đã sa sầm nét mặt :
- Hắc Cốt Ma Nương... hừ, ví thử bà có thật là vị tiền bối năm xưa, chúng tôi sẵn lòng lấy lễ hậu bối tương kính. Nhưng nếu bà lại đòi lấy mấy thứ báu vật của phái Côn Luân thì điều đó... quả là không được!
Hắc Cốt Ma Nương cười :
- Nhà ngươi có phải là kẻ vẫn tự xưng là Độc Thủ Ma Vương đó không? Hà... hà khá lắm, võ lâm ngày nay chẳng kém vẻ ương ngạnh như thời nào. Nhà ngươi bảo không được, nhưng lão nương vẫn muốn lấy đi, xem ngươi làm sao được nào?
Tuệ Giác thiền sư lúc này đã vận công xong, đứng lên nói :
- A di đà Phật! Anh em bần tăng cũng không biết Hắc Cốt Ma Nương là ai hết. Nữ thí chủ muốn cướp đoạt báu vật cũng được, nhưng trước hết cần phải tỏ ra có tài làm được như vậy. Anh em bần tăng chỉ mong nữ thí chủ chỉ giáo cho mấy đường tuyệt chiêu mà thôi.
Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo cũng quát lớn :
- Phải lắm, lão hòa thượng nói rất đúng ý của Hắc mỗ. Anh em võ lâm đồng đạo, chúng ta cả thảy gần hai chục nhân vật chẳng ra gì cũng có chút tên tuổi trong chốn giang hồ, chẳng lẽ lại vì mấy lời nói mà sợ cả một danh tiếng năm xưa đã phai mờ rồi hay sao?
Độc Thủ Ma Vương vừa nói dứt lời, bọn võ lâm cao thủ đã ứng tiếng đồng tình, tất cả đều có vẻ không chịu khuất phục Hắc Cốt Ma Nương. Ngay cả Bạch Thái Tuế Hồng Kỳ Ngu vừa rồi kinh sợ là thế, này hùng tính nổi dậy, cũng lăm le ứng chiến.
Trong bọn cao thủ đứng ngoài, có một nhân vật thấp nhỏ, tuổi đã quá ngũ tuần, nhưng cặp mắt điên đảo sắc bén vô cùng, lại thêm chiếc mồm chuột chù, trông rõ là một tay hết sức giảo hoạt. Người đó chính là một nhân vật thứ ba trong bang “Tam Điểm” một bang hội chuyên về nghề ăn trộm, đào tường khoét vách, tên y là Xuyên Sơn Thử Dư Tam, võ công khá cao, nhưng lắm mưu nhiều kế, trí trá khôn cùng.
Từ nãy giờ y vẫn đứng im, đột nhiên Xuyên Sơn Thử Dư Tam cất tiếng cười hi hi, nói trống không :
- Giang hồ bây giờ thật quỷ quái, các ngón đại bịp chẳng thiếu gì. Chẳng lẽ chỉ mạo nhận một vài ác danh năm xưa cũng đủ làm người ta khiếp đảm, u mê cả trí óc hay sao?
Lời nói của Dư Tam rất lợi hại. Giữa lúc bọn võ lâm cao thủ đã sẵn có ý nghi ngờ về lai lịch của thiếu phụ xưng tên là Hắc Cốt Ma Nương, lời nói của y đã thổi phồng sự nghi ngờ đó lên, khiến cả bọn đột nhiên thấy phấn khích hết sức, cùng quát to lên một tiếng, vây quanh Hắc Cốt Ma Nương, vũ khí sắc bén tua tủa chĩa thẳng vào mặt nàng, sẵn sàng tấn công.
Hắc Cốt Ma Nương lại cười ròn tan, dáng điệu nàng vẫn ung dung nhàn hạ, chẳng lộ vẻ hoảng hốt chút nào, còn bọc hành lý của Chu Uyển Thanh vẫn còn ở trên tay nàng.
Hắc Cốt Ma Nương đưa cặp mắt phượng sáng quắc như hai vì sao, nhìn quanh mình một lượt rồi cười nói :
- Hay lắm, lão nương mấy chục năm ẩn cư không dùng đến võ công, nay cũng là dịp hay để thao dượt lại đôi chút. Các ngươi khỏi khách khí gì hết, hãy nhất tề xông cả lên một lượt đi.
Lời nói tuy tầm thường, nhưng chứa ẩn một sự thách thức ghê gớm. Phải nói đối với gần hai mươi cao thủ võ lâm và ma đầu giang hồ này, ngay như Kim Ngang Tiêu võ công cái thế, vừa rồi cũng không tránh khỏi hạ phong, vậy mà Hắc Cốt Ma Nương dám thách cả bọn cùng xông lên tấn công một lượt, đủ hiểu y tự tin ở tài nghệ như thế nào.
Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo quát to :
- Chư vị võ lâm đồng đạo, mau xông cả lại trừ khử yêu phục có tà thuật này đi!
“Tà thuật”! Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo đã nói lên ý nghĩ của mọi người lúc bấy giờ. Cả bọn đều cho rằng nếu thiếu phụ không phải là kẻ xảo trá lường bịp thì cũng là một thứ yêu đạo tà giáo, nên không ai bảo ai cùng thét lên một tiếng, xông lại tấn công liền.
Ngay cả hai hòa thượng Bắc Thiếu Lâm là Tuệ Giác và Tuệ Hải thiền sư cũng vận dụng Kim Cương chưởng pháp hai chưởng phát kình phong ào ào, nhằm Hắc Cốt Ma Nương tấn công tới.
Mọi người đều vận dụng tận lực hỏa hầu vì cho rằng sức phản kháng của thiếu phụ chắc hẳn phải ghê gớm lắm. Ai ngờ chỉ thấy Hắc Cốt Ma Nương cười khanh khách thân hình lả lướt như luồng khói luồng qua các luồng chưởng phong và các lằn hào quang của đao, kiếm, trượng, giản... dễ dàng như bỡn.
Bên ngoài chỉ còn ba người không tham dự trận chiến là Kim Ngang Tiêu và hai ông cháu Lâm Tuyền kiếm khách Chu Đức Ân và Chu Uyển Thanh.
Kim Ngang Tiêu thấy thân pháp của Hắc Cốt Ma Nương vô cùng linh động, liền giật mình đứng im. Chàng bỗng ngây người ra vì thân pháp của Hắc Cốt Ma Nương chính là Tu Di thân pháp môn tuyệt học thất truyền trong võ lâm mà chính chàng đã học được khi xuống Địa huyệt Dã Nhân lãnh.
Sau một lúc kinh ngạc, Kim Ngang Tiêu bắt đầu thấy nóng lòng sốt ruột, liền quay lại bảo Chu Uyển Thanh :
- Chu huynh hãy đứng trông nom Chu lão bá, để tiểu đệ vào lấy lại bọc hành lý và di vật của Chu gia cho huynh đài.
Không ngờ Chu Uyển Thanh đã đưa tay ra cản chàng và khẽ nói :
- Không cần, Kim thiếu hiệp hãy đi truy nã kẻ thù đi, cái đó không cần thiết nữa.
Kim Ngang Tiêu nhìn lên ngọn cổ thụ ở gần đó ngần ngại :
- Câu Hồn bang chủ đã đi xa rồi, chắc không còn ở đây nữa đâu. Việc cần bây giờ là phải lấy lại bọc hành lý cho Chu huynh.
Chu Uyển Thanh liền giậm chân, tỏ vẻ hờn dỗi :
- Đã bảo không cần mà... Sao thiếu hiệp thật thà thế, mấy bộ quần áo cũ đó có giá trị gì đâu.
Kim Ngang Tiêu chợt hiểu, nhưng chàng không khỏi tức cười vì thái độ nhõng nhẽo như con gái của chàng thiếu niên này, Kim Ngang Tiêu còn ngơ ngẩn thì Chu Uyển Thanh lại giậm chân :
- Mau đi kiếm tên Bang chủ đó đi, nếu không thấy nó, ta còn phải đi khỏi nơi này chớ đứng đây xem họ đánh nhau hay sao?
Chu Đức Ân cũng lên tiếng :
- Kim thiếu hiệp hãy đi kiếm kẻ thù đi, chúng tôi cũng nhân cơ hội này phải rời khỏi nơi đây ngay.
Kim Ngang Tiêu gật đầu nhảy vút lên cây cổ thụ vừa rồi có tiếng nói của Câu Hồn bang chủ. Quả như lời chàng đã đoán phỏng, trên ngọn cây không có bóng người nào cả. Chàng cũng chuyền luôn qua mấy cây bên cạnh, nhưng không thấy gì.
Trong khi đó hai ông cháu Chu Đức Ân cũng lẹ làng đi lẩn về phía cây um tùm để tìm đường kín đáo ra khỏi nơi này. Chu Đức Ân tuy bị trọng thương, nhưng vẫn cố gắng gượng giở khinh công, cùng Chu Uyển Thanh thoắt bước đi.
Không ngờ hai ông cháu Chu Đức Ân vừa đi được mấy bước, đã nghe một tiếng quát lanh lảnh :
- Hai người họ Chu kia, phải ở đây cho lão nương hỏi chuyện, không được chạy trốn như vậy.
Người thét tiếng đó chính là Hắc Cốt Ma Nương. Trong lúc đang bị quần hào vây đánh rất gắt gao, không hiểu y thị dùng cách nào, chỉ thấy vút một tiếng như lụa xé, hình bóng của Hắc Cốt Ma Nương đã phi ngay đến gần hai ông cháu Chu Đức Ân, đồng thời tay mặt y thị vươn ra, năm đầu ngón tay khum khum như móng chim ưng, nhắm đúng bả vai Chu Uyển Thanh vồ tới, mau lẹ tuyệt luân.
Kim Ngang Tiêu ở trên cây cao giật mình, tình thế quá cấp bách, chàng ở trên cây chỉ kịp nhào xuống; hai chưởng cũng đẩy ra nhắm Hắc Cốt Ma Nương đang phi tới. Kim Ngang Tiêu đã biết mụ ma đầu này võ công lợi hại vô cùng, nên chàng không dám khinh thường, đã vận xuất chiêu thứ mười hai của Cự Linh thần chưởng tên gọi Song Yến Phi Vân. Hơn nữa chàng lại từ trên cao bổ xuống, nên uy lực dũng mãnh không thể tả.
Hắc Cốt Ma Nương đang nhảy tới, đột nhiên thấy từ trên đầu có kình phong ào ào ập xuống, như ngọn núi Thái Sơn, đè trên vai, y thị bất giác giật mình, bàn tay đang vồ Chu Uyển Thanh lập tức rụt lại, biến thành chưởng giơ lên gạt phía trên đầu.
“Bột!”.. “Bùng”... Hai luồng chưởng lực giao nhau phát ra tiếng nổ dữ dội, bụi tuyết trắng bắn tung tóe, cây cối ở xung quanh lay động.
Hắc Cốt Ma Nương quả là không hổ danh đệ nhất ma đầu năm xưa. Chưởng lực của y thị mới vận đến sáu thành công lực và tay chỉ đưa lên gạt nhẹ một chút.
Vậy mà đã tạo ra phản lực ghê gớm, làm thân hình Kim Ngang Tiêu đang lao xuống, bỗng bị đẩy bật ngược trở lại, bay bút lên cao đến hai trượng rồi mới rớt xuống.
Kim Ngang Tiêu thấy nghẹn thở, ù tai, đôi mắt tối sầm, lồng ngực nóng rang. Cũng may chàng vẫn còn tỉnh táo, vội giở bộ pháp độc đáo, thân hình lộn một vòng, hai chân đã chạm xuống đất vững vàng.
Tuy nhiên chàng kinh hoảng vô cùng. Từ khi ra khỏi Địa huyệt Dã Nhân lãnh, hôm nay lần đầu tiên chàng gặp mấy tay kình địch lợi hại. Vừa rồi Kim Cương chưởng của hai hòa thượng Bắc Thiếu Lâm đã đẩy lui chàng luôn mấy bước, khí huyết đảo lộn, đến nay chàng lại gặp Hắc Cốt Ma Nương không biết y thị dùng chưởng lực gì mà chàng thấy nóng như lửa, Kim Ngang Tiêu có biết đâu rằng chưởng lực của Hắc Cốt Ma Nương chính là Hỏa Diệm chưởng năm xưa đã làm giang hồ táng đởm kinh hồn.
Thế mới biết giang hồ cao thủ như vậy, người tài không phải có ít. Người đã giỏi lại gặp người giỏi hơn, trời đã cao, ra ngoài lại gặp trời cao hơn nữa.
Về phía Hắc Cốt Ma Nương sự kinh dị cũng chẳng kém. Hắc Cốt Ma Nương lúc đó đang phi thân như chớp, vậy mà nàng lại bị Cự Linh thần chưởng thức thứ mười hai chận đứng ngay lại không những thế Hắc Cốt Ma Nương còn bị đẩy lùi lại hai bước đồng thời cánh tay hơi đau nhức.
Trong cuộc đời độc bá giang hồ của y thị, ít khi Hắc Cốt Ma Nương gặp phải trường hợp này.
Nhưng Hắc Cốt Ma Nương kinh ngạc hơn hết là thấy đối phương chỉ bị bắn tung lên rồi rớt xuống vẫn đứng được như thường và thần thái y vẫn như không, chỉ thấy mặt đối phương đỏ bừng lên một chút, chứng tỏ khí huyết trong người bị đảo lộn mà thôi.
Phải biết vừa rồi Hắc Cốt Ma Nương chỉ giở có sáu thành công lực của Hỏa Diệm chưởng, đó là vì nàng đã thuần tính không muốn giết hại nhân mạng bừa bãi như trước.
Tuy nhiên với sáu thành công lực Hỏa Diệm chưởng cũng đủ sức nóng làm cho huyệt đạo trong người đối phương bị phong bế hết và dù không chết đối phương cũng phải chết giấc vì nội thương, không ngờ thiếu niên còn trẻ mà có công lực chịu đựng nổi Hỏa Diệm chưởng, đó là điều thật hiếm có. Hắc Cốt Ma Nương càng nghĩ càng lấy làm lạ.
Hắc Cốt Ma Nương có biết đâu rằng sở dĩ Kim Ngang Tiêu chịu đựng nổi Hỏa Diệm chưởng của nàng là vì chàng đã có Cự Linh thần chưởng hộ thể, Cự Linh thần công là thứ huyền môn thượng thừa thần công do chính Đạt Ma sư tổ tu luyện năm xưa nên có uy lực chống lại bất cứ chưởng lực nào.
Sau một cuộc đối chưởng dữ dội, cả hai đối thủ cùng kinh dị ngây người ra nhìn nhau khoảnh khắc.
Bọn võ lâm cao thủ đã biết Kim Ngang Tiêu là tay lợi hại như thế nào, nên lúc này thấy Hắc Cốt Ma Nương ngây người ra kinh ngạc, họ liền cho rằng nữ ma đầu này đã bị thất thế. Đang lúc tức giận vì đánh mãi không trúng đối phương, cả bọn từ Tuệ Giác, Tuệ Hải, Độc Thủ Ma Vương Hắc Tôn Hạo cho đến bọ Dư Tam, Hồng Kỳ Ngu, tất cả gần hai chục người lại nhảy xồ đến bao vây Hắc Cốt Ma Nương luôn, thành thử Hắc Cốt Ma Nương chưa kịp tiếp tục giao đấu với Kim Ngang Tiêu, đã bị vây chặt vào giữa.
Nhân cơ hội đó, Kim Ngang Tiêu liền giắt tay Chu Đức Ân và Chu Uyển Thanh, chạy như bay khỏi nơi đó.
Chu Đức Ân là một bậc tiền bối kiếm khách, đệ tử của phái Côn Luân, công lực khá cao, nhưng vì đã bị trọng thương từ tối hôm trước, nên lúc này không thể chạy nhanh được. Hơn nữa nội thương hình như đã đến lúc phát tác, lão hiệp ngất ngư, chân bước loạng choạng, mặt nhợt nhạt, hơi thở khò khè như muốn đứt đoạn.
Lâm Tuyền kiếm khách Chu Đức Ân liền giựt tay ra khỏi tay Kim Ngang Tiêu, mệt nhọc nói :
- Kim thiếu hiệp, mau đem Thanh nhi thoát khỏi nơi đây, đừng quan tâm tới lão phu nữa, kẻo cường địch đuổi tới nơi bây giờ, Thanh nhi con hãy đi theo Kim thiếu hiệp... công công sẽ theo sau.
Chu Uyển Thanh chỉ thốt ra được mấy tiếng :
- Công công! Không thể được.
Nói rồi nghẹn ngào không tiếp được nữa.
Kim Ngang Tiêu chẳng nói chẳng rằng, ghé lưng vào cõng Chu Đức Ân lên rồi một tay dắt Chu Uyển Thanh, trổ thuật khinh công, đi mau như gió.
Mặc dầu phải mang nặng một người trên lưng, Kim Ngang Tiêu vẫn phi thân đi nhanh như mũi tên xuyên qua mưa tuyết, Chu Uyển Thanh đã vận dụng hết công lực, nhưng vẫn không đi kịp Kim Ngang Tiêu, thành thử về sao tay Kim Ngang Tiêu kéo Chu Uyển Thanh đi vùn vụt, nhiều lúc Chu Uyển Thanh tưởng như thân hình mình bay lướt trên mặt đất tuyết phủ trắng xóa. Như vậy đủ hiểu nội lực của Kim Ngang Tiêu thâm hậu như thế nào.
Song, chạy được trên mười dặm, Kim Ngang Tiêu bỗng phát giác phía sau có mấy bóng người đuổi theo. Chàng giật mình quay lại, nhưng yên lòng ngay vì thấy kẻ đuổi theo không phải là Hắc Cốt Ma Nương. Tên đi đầu chính là Xuyên Sơn Thử Dư Tam, còn hai tên nữa chạy theo sau mấy trượng là hai nhân vật võ lâm nhưng chàng không biết tên.
Nguyên lúc bọn Kim Ngang Tiêu bỏ chạy, Hắc Cốt Ma Nương đã trông thấy, nhưng vì bọn võ lâm cao thủ nhất tề nhảy lại vây chặt, nên y thị không thể bước đi được ngay. Còn bọn cao thủ đang mãi vây Hắc Cốt Ma Nương, nên không nghĩ đến việc đuổi theo, bởi vậy Kim Ngang Tiêu mới đi thoát.
Tuy nhiên trong bọn cao thủ có mấy tên quỷ quyệt, liền bỏ luôn trận đánh đuổi theo Kim Ngang Tiêu. Trong ba tên đuổi theo chỉ có Xuyên Sơn Thử Dư Tam là khinh công cao hơn hết, bởi vậy chạy được một quãng đường nữa thì hai tên nọ bị bỏ xa về phía sau, lâu dần mất hút. Khinh công của Xuyên Sơn Thử Dư Tam dĩ nhiên không bằng Kim Ngang Tiêu, nhưng vì lúc này Kim Ngang Tiêu phải cõng một người và dắt tay một người, nên chạy vào khoảng trên ba chục dặm thì Dư Tam đã đuổi theo sát gót, Kim Ngang Tiêu bực mình, dừng bước quay lại, miệng thét lớn :
- Ngươi muốn chết hay sao mà đuổi theo hoài?
Dứt lời chàng không kịp đặt Chu Đức Ân xuống, tay mặt vận Cự Linh thần công, đánh ra một chưởng về phía sau.
Chưởng phong ào ào phóng tới người Dư Tam làm y kinh hoảng, vội nhảy vọt lên cao né tránh, Xuyên Sơn Thử Dư Tam có tài khinh công độc đáo nên mới tránh thoát chưởng lực đó, tuy nhiên mấy cổ thụ ở bên đường đã bị đánh bật rễ đổ xuống ầm ầm.
Đánh xong chưởng đó Kim Ngang Tiêu lại dắt tay Chu Uyển Thanh đi luôn.
Xuyên Sơn Thử Dư Tam tuy thoát ngọn chưởng vừa rồi, nhưng đã toát mồ hôi kinh hoảng về công lực của Kim Ngang Tiêu. Thật ra vừa rồi, y tưởng Kim Ngang Tiêu đã bị thương vì ngọn chưởng của Hắc Cốt Ma Nương, nên y mới đuổi theo chàng gắt gao như vậy. Y tự biết võ công của y còn kém xa Kim Ngang Tiêu nhưng hy vọng có thể uy hiếp được chàng giữa lúc chàng bị trọng thương để đoạt báu vật.
Không ngờ Kim Ngang Tiêu không hề bị thương và còn làm y suýt mất mạng vì ngọn chưởng ghê gớm vừa rồi, Xuyên Sơn Thử Dư Tam kinh hãi, không dám đuổi theo nữa.
Thế là Kim Ngang Tiêu đem hai ông cháu họ Chu đi thẳng một mạch, không gặp sự gì cản trở nữa. Kim Ngang Tiêu vẫn sợ Hắc Cốt Ma Nương đuổi theo, nên chàng luôn không dám dừng chân để nghỉ, và cố ý đi xuyên qua những vùng rừng rậm, đường lối ngoắc nghéo để đánh lạc hướng kẻ thù.
Vừa chạy Kim Ngang Tiêu vừa nghĩ lại trận đấu vừa qua và không khỏi giật mình.
Từ khi học được võ công của Vô Danh Khách dưới địa huyệt Kim Ngang Tiêu đã tự tin ở võ công của mình. Nhất là sau khi thắng dễ dàng các cao thủ như Hổ Ma Phạm Hống và Tam Ma Tôn Giả, chàng đã mừng thầm, hy vọng có thể tiến đến mức thượng thừa cảnh giới hạ được Câu Hồn bang chủ để báo thù.
Không ngờ hôm nay gặp mấy tay kình địch, Kim Ngang Tiêu phải nhận thấy võ học thật bao la, người giỏi không sao kể xiết. Đối với hai nhà sư Bắc Thiếu Lâm, Kim Ngang Tiêu có thể thắng được, nhưng đối với Hắc Cốt Ma Nương chàng còn kém một bậc. Nếu Hắc Cốt Ma Nương đứng ra đối đầu với chàng hay y thị giúp Câu Hồn bang reo rắc khủng bố trong võ lâm thì quả là khó khăn cho chàng vô cùng. Kim Ngang Tiêu đã học được Cự Linh thần công và các bí quyết võ công của Vô Danh Khách, nhưng chàng còn phải có đủ thời giờ để tu luyện thêm mới mong tiến đến địa vị đệ nhất võ lâm.
Vừa đi vừa mãi suy nghĩ, Kim Ngang Tiêu đã chạy một mạch trên một trăm dặm lúc nào không biết. Chỉ thương hại cho Chu Uyển Thanh bị chàng kéo chạy như bay, lúc đầu còn khả trợ, về sau Chu Uyển Thanh mệt quá muốn đứt hơi mà Kim Ngang Tiêu vẫn đi nhanh vùn vụt.
Chu Uyển Thanh thấy nét mặt Kim Ngang Tiêu lầm lì, có lúc như tức giận, có lúc lại có vẻ đăm chiêu, nên cũng không dám lên tiếng nhắc bảo chàng dừng bước.
Đến khi Chu Uyển Thanh chịu không nổi, thở rốc lên và lảo đảo muốn ngã, Kim Ngang Tiêu giật mình dừng bước, tự trách mình vô ý làm người bạn mới quen biết phải quá đỗi mệt nhọc, Kim Ngang Tiêu dừng bước, buông tay Chu Uyển Thanh và mỉm cười nói :
- Chu huynh tha lỗi cho tiểu đệ, vì mãi suy nghĩ đã làm Chu huynh phải chạy mệt nhọc. Chúng ta đã chạy xa cường địch rồi, có thể tạm nghĩ ở đây mà không sợ chúng đuổi tới.
Chu Uyển Thanh chẳng nói chẳng rằng, ngồi phịch ngay xuống đất thở rốc, không hiểu vì quá mệt hay giận dỗi mà Chu Uyển Thanh có cử chỉ như vậy. Kim Ngang Tiêu thấy chàng ta hay hờn giận như đàn bà nên cũng mỉm cười, không nói gì thêm nữa.
Nhưng đến khi Kim Ngang Tiêu ngồi xuống để Chu Đức Ân xuống đất, chàng bất giác kêu lên một tiếng kinh hoảng vì lão hiệp đã hôn mê bất tỉnh. Chu Uyển Thanh cuống cuồng, kêu gọi “công công” luôn mồm, trong khi nước mắt chảy vòng quanh.
Kim Ngang Tiêu vội để Chu Đức Ân ngồi xuống gốc cây và hỏi Chu Uyển Thanh :
- Lão bá bị thương ra sao, Chu huynh?
Chu Uyển Thanh lúc này có vẻ hết giận, nét mặt rầu rĩ đáp :
- Đêm hôm qua, hai ông cháu chúng tôi gặp một lũ cường địch bao vây cướp di vật. Trong số cường địch phần đông là những tay võ công bình thường, nhưng có mấy tay cao thủ, nhất là một lão quái đầu đà đã đánh trúng một chưởng rất nặng, khiến ông tôi bị thổ huyết mấy lần.
Kim Ngang Tiêu chợt nhớ vừa rồi trong tửu điếm, bọn Bàn Xủng tứ hung có nói Chu hiệp bị trúng một ngọn Thiết Tâm chưởng, chàng biết thứ chưởng này thuộc loại tà độc vô cùng nguy hiểm.
Kim Ngang Tiêu vội bắt mạch Chu Đức Ân, thấy mạch chạy rất yếu, mà lại rất quái dị là nhanh chậm thất thường, động mạch thỉnh thoảng lại giật liên hồi, đồng thời hơi thở khò khè, chứng tỏ phổi đã bị nội thương.
Kim Ngang Tiêu vội cởi áo Chu Đức Ân, thấy trên lưng lão hiệp in hẳn một chưởng đủ hình năm ngón tay, vết tím bầm.
Trong lúc còn ở Kim gia trang với phụ thân, Kim Ngang Tiêu hay nghiên cứu sách thuốc nên đã biết về y lý. Đến lúc chàng bị hãm dưới địa huyệt Dã Nhân lãnh, thu được cuốn Y kinh của Vô Danh Khách để lại, cho nên y thuật của chàng tinh tiến vô cùng. Cuốn Y kinh của Vô Danh Khách lại đặc biệt ghi chỗ những thương tích cùng những phép châm kim đả huyệt, rất quý giá về y thuật.
Trông thấy thương tích của Chu Đức Ân, Chu Uyển Thanh kinh hãi cuống cuồng :
- Kim thiếu hiệp làm thế nào bây giờ?
Kim Ngang Tiêu vội an ủi :
- Chu huynh hãy bình tâm. Chu lão bị trúng nội thương rất nặng, nhưng chưa đến nỗi tuyệt vọng.
Nói đoạn chàng giơ ngón tay trỏ, điểm lên mười tám huyệt đạo ở ngực và lưng Chu Đức Ân, chàng vừa điểm huyệt xong thì hơi thở Chu Đức Ân liền bớt hẳn tiếng khò khè, tuy nhiên nét mặt lão hiệp vẫn nhợt nhạt và người vẫn hôn mê.
Chu Uyển Thanh thấy Kim Ngang Tiêu bắt mạch và điểm huyệt một cách thành thạo như vậy, nên hết sức kính phục, cặp mắt sáng lóng lánh đầy vẻ ngưỡng mộ nhìn chàng và nói :
- Không ngờ Kim thiếu hiệp chẳng những võ công cao cường mà còn tinh thông cả y thuật nữa. Thiếu hiệp còn trẻ tuổi mà tài ba quán thế như vậy, tiểu đệ rất bội phục.
Kim Ngang Tiêu hơi đỏ mặt ngượng nghịu nói :
- Chu huynh đừng quá khen như vậy. Chẳng qua là tiểu đệ may mắn, được dị nhân truyền lại cho một cuốn Y kinh nên mới biết chút đỉnh, thực tài chẳng đáng kể là bao.
Chu Uyển Thanh lại lo lắng hỏi :
- Kim thiếu hiệp thấy thương tích của công công tiểu đệ có nguy lắm không, liệu có hy vọng chữa khỏi không? Tại sao công công vẫn hôn mê như vậy?
Kim Ngang Tiêu đáp :
- Chu lão bá trúng một ngọn “Thiết Tâm chưởng” nên nội lực chẳng những hao tổn mà còn bị nhiễm độc nữa, vì Thiết Tâm chưởng là một thứ võ công tà đạo, có luyện thêm độc tính. Cũng may Chu lão hiệp nội công cao cường đã tự phong bế các huyệt đạo, không cho chất độc xâm nhập tâm tạng. Vừa rồi tiểu đệ đã điểm thêm mấy yếu huyệt, tạm thời kềm giữ chất độc không cho chúng phát tác, nên tính mạng lão bá không còn sợ nguy nữa. Muốn chữa chạy phải có một nơi nào tĩnh dưỡng, ở đây giữa đường không tiện chút nào.
Lúc đó mưa tuyết đã tạnh hẳn, nhưng khí trời lạnh lẽo vô cùng. Hơn nữa, nơi Kim Ngang Tiêu dừng bước lại là ở bên sườn núi trơ trọi mấy thân cây xơ xác, còn ngoài ra không chỗ nào trú ẩn được cả.
Chu Đức Ân vẫn hôn mê tựa lưng vào một gốc cây, một bên có Chu Uyển Thanh đỡ. Mặc dầu đã được yên lòng vì mấy lời nói của Kim Ngang Tiêu. Chu Uyển Thanh vẫn băng khoăn vì thấy ông nội vẫn hôn mê không tỉnh.
Chu Uyển Thanh nhìn Kim Ngang Tiêu với cặp mắt năn nỉ :
- Kim thiếu hiệp... không có cách nào cứu tỉnh công công của tiểu đệ hay sao?
Kim Ngang Tiêu đã định đem Chu Đức Ân tới nơi nào kín đáo rồi mới ra tay chữa chạy, nhưng chàng nhận thấy Chu lão hiệp cứ bất tỉnh như thế này thì lúc đem đến những nơi đông đúc rất bất tiện và không tránh khỏi những cặp mắt tò mò. Vả lại lúc ấy thấy Chu Uyển Thanh quá lo lắng khổ sở, không hiểu tại sao chàng thấy bất nhẫn hết sức.
Kim Ngang Tiêu đưa mắt nhìn quanh, chợt thấy ở bên sườn đá có nơi hỏm vào như một cái mái nhà nhỏ, có thể tạm thời tránh gió rét. Chàng liền xốc Chu Đức Ân lên vai và nói :
- Chu huynh hãy theo tiểu đệ đến chỗ kia, để tiểu đệ tìm cách tạm thời cứu tỉnh cho Chu lão bá.
Tới nơi hốc đá, Kim Ngang Tiêu liền bảo Chu Uyển Thanh vun đám lá cây khô, tạm làm chỗ nằm rồi đặt Chu Đức Ân xuống. Chàng lại bảo Chu Uyển Thanh vun một đống lá cây và củi rồi đánh đá lửa đốt lên.
Sau đó Kim Ngang Tiêu mới cởi áo ngoài của Chu Đức Ân, đặt hai tay lên yếu huyệt ở sau lưng lão hiệp và vận dụng chân khí bản thân truyền sang người lão hiệp.
Trong khi Kim Ngang Tiêu hành động chữa thương, Chu Uyển Thanh nét mặt lo lắng, nhưng cặp mắt đầy vẻ thán phục và kính mến nhìn Kim Ngang Tiêu.
Vì phải nhắm mắt tận dụng chân lực, Kim Ngang Tiêu không nhìn thấy nét mặt của Chu Uyển Thanh lúc bấy giờ. Nhưng nếu chàng nhìn thấy, chàng cũng phải ngạc nhiên vô cùng. Vì mặc dầu những vết nhọ nhem đã che lấp phần nào, khuôn mặt của Chu Uyển Thanh lúc đó là khuôn mặt thơ ngây tuyệt đẹp của một thiếu nữ đến tuổi dậy thì chớ không phải vẻ mặt của một anh chàng con trai.
Tai biến tại Chu gia
Kim Ngang Tiêu vận toàn thân chân khí đẩy vào yếu huyệt ở lưng Chu Đức Ân khiến nội lực người chàng truyền vào người lão hiệp.
Chàng hành công được khoảng hai tuần trà thì trên đầu chàng đã thấy bốc lên một luồng khói trắng. Đó là lúc công lực trong người chàng đã phát triển đến tuyệt độ. Mặc dầu khi trời giá lạnh, trên mặt Kim Ngang Tiêu đã thấy lấm tấm mấy giọt mồ hôi, vì cách truyền nội lực này hao tổn chân khí rất nhiều.
Ngay sau đó bỗng thấy Chu Đức Ân ho lên mấy tiếng và thổ ra một đống máu tím bầm. Chu lão hiệp thở dài và bừng mắt tỉnh dậy.
Chu Uyển Thanh reo lên một tiếng vui mừng :
- Công công! Công công đã tỉnh, may mắn quá. Đó là Kim thiếu hiệp đã cứu chúng ta khỏi tay bọn cường địch. Thiếu hiệp còn ra tay cứu chữa thương tích cho công công đó.
Chu Đức Ân mở mắt ra thấy cháu vẫn an toàn, lại nhìn thấy Kim Ngang Tiêu ngồi sắp chân bằng tròn bên cạnh, lúc này đã ngừng truyền nội lực, chỉ còn ngồi để vận công lấy lại sức lực đã hao hụt, nên lão hiệp đã hiểu ngay rằng thiếu niên hiệp sẽ đã cứu mình thoát chết.
Lúc đó Chu Đức Ân cảm thấy tỉnh táo vô cùng, trong cơ thể một luồng chân khí ôn hòa đang chạy khắp các yếu huyệt, người nóng rang lên, sức lực đã hồi phục ngay quá nửa.
Lão hiệp cảm động, ngồi ngay lên, chắp tay hướng về Kim Ngang Tiêu nói :
- Ân công đã ra tay cứu mạng cho ông cháu lão phu, lại cam chịu hao tổn chân lực chữa thương, ân đức này ông cháu lão phu nguyện suốt đời ghi tạc.
Kim Ngang Tiêu mở mắt, thấy Chu Đức Ân chắp tay vái mình, chàng giật mình vội né tránh sang một bên nói :
- Xin lão đại hiệp đừng gọi tiểu bối như thế. Một chút việc nhỏ mọn đó chẳng đáng gọi là công lao. Người trong võ lâm bất cứ thấy chuyện bất bình nào cũng có bổn phận phải ra tay trợ giúp. Gia dĩ lão đại hiệp một lòng duy trì chánh đạo, gặp lúc cô thế nguy vong cũng chẳng chịu khuất phục bạo tàn, tiểu bối rất cảm phục.
Chu Đức Ân thấy chàng võ công tối cao mà lại khiêm nhường như vậy, trong lòng lại càng mến yêu. Còn Chu Uyển Thanh chỉ mở tròn xoe mắt nhìn chàng mấy lần ngập ngừng muốn nói nhưng rồi lại thôi.
Kim Ngang Tiêu mỉm cười :
- Chu huynh có điều gì muốn chỉ giáo, xin cứ nói ra ngay, đừng e ngại gì cả.
Chu Uyển Thanh luống cuống đỏ mặt :
- Không... không... không điều gì...
Chu Đức Ân bỗng cất tiếng cười :
- Thanh nhi có điều gì muốn nói với Kim thiếu hiệp thì lúc này là lúc nên nói đó.
Chu Uyển Thanh kêu lên :
- Công công!...
Đoạn Chu Uyển Thanh nói lảng :
- À Kim thiếu hiệp, như vậy công công đã khỏi hẳn chưa?
Kim Ngang Tiêu bỗng cảm thấy nghi ngờ, hình như ông cháu Chu Đức Ân có điều gì đó muốn giấu chàng, thấy Chu Uyển Thanh hỏi thế chàng liền chau mày đáp :
- Chưa khỏi đâu, Chu lão bá đã bị trúng một ngọn chưởng tà độc, độc tính cực mạnh, vừa rổi tiểu đệ mới dùng nội lực tạm chữa nội thương cho Chu lão bá, còn chất độc trong người vẫn y nguyên chưa khử trừ hết được. Muốn trừ độc ngay, phải có Khử Độc Linh Đan của phái Nga Mi, hay Thanh Tâm hoàn của phái Hoa Sơn. Tiếc thay lúc này không kiếm đâu ra những linh dược đó, bởi vậy muốn chữa cho tuyệt nọc độc phải mất nhiều công phu lắm.
Kim Ngang Tiêu nhìn ra ngoài trời rồi nói tiếp :
- Lúc này đã xế chiều gần tối, tuyết lại xuống nhiều, đi lại bất tiện vô cùng. Tiện có hốc núi này có thể tạm trú được chúng ta hãy nghĩ lại ở đây qua đêm nay, để đến mai lên đường tìm đến một thị trấn nào rồi nghỉ ở khách điếm. Một mặt tiểu đệ sẽ đi tìm mấy hiệu thuốc, mua những vị thuốc cần thiết, chữa chạy cho Chu lão bá khỏi chất độc trong người.
Chu Đức Ân thấy chàng nói thế liền gật đầu khen phải, còn Chu Uyển Thanh nghe nói lưu lại ở hốc núi này suốt đêm nay lại có vẻ mãn nguyện vô cùng, vỗ tay reo cười như đứa trẻ.
Kim Ngang Tiêu cười nói :
- Chu huynh tính tình hồn nhiên chất phác thật đáng quý vô cùng. Bây giờ trời đã gần tối rồi, Chu huynh hãy ngồi đây trông chừng lão bá để tiểu đệ đi quanh đây tìm kiếm thêm tí lá cây khô đem về đây làm giường cho chúng ta ngủ đỡ đêm nay.
Không ngờ Kim Ngang Tiêu vừa nói xong câu đó, Chu Uyển Thanh giật nẩy người đứng vụt lên như bị ong châm. Trời mùa đông mau tối nên Kim Ngang Tiêu không nhận thấy sắc mặt đỏ như gấc của Chu Uyển Thanh lúc bấy giờ.
Kim Ngang Tiêu vô tình lại nói tiếp :
- Tiểu đệ với Chu huynh thật có duyên kỳ ngộ, mới gặp nhau lần đầu mà tưởng như bạn lâu năm rồi, Chu huynh đừng e ngại gì hết tiểu đệ gặp cảnh nhà tan cửa nát vì Câu Hồn bang một thân trôi nổi giang hồ bao lâu nay gặp được bạn như Chu huynh là quý lắm rồi. Đêm nay tiểu đệ sẽ nằm bên Chu huynh thuật lại bước đường gian truân của tiểu đệ cho Chu huynh nghe.
Kim Ngang Tiêu không nói câu đó còn khá, nhưng một khi vô tình nói ra rồi, thái độ của Chu Uyển Thanh tức cười vô cùng.
Chu Uyển Thanh giậm chân hít hà cuống quít, khiến Chu lão hiệp phải cười lên tiếng :
- Kim thiếu hiệp, Thanh nhi có tánh e thẹn như...
Chu Uyển Thanh vội vàng quay ra ngoài nói lớn :
- Mấy người ở đây, để tôi chạy đi lấy lá giùm cho.
Kim Ngang Tiêu còn ngơ ngác thì Chu Đức Ân nói :
- Để thủng thẳng rồi lão phu sẽ thuật lại gia thế cho Kim thiếu hiệp nghe. Nhưng trước đây chưa gặp thiếu hiệp, lão phu đã nghe thấy danh tiếng “Bạch Diện thư sinh” chống Câu Hồn bang rồi.
Kim Ngang Tiêu ngạc nhiên hỏi :
- Bạch Diện thư sinh?
Chu Đức Ân mỉm cười :
- Kim thiếu hiệp chưa biết giang hồ đã bắt đầu cho thiếu hiệp cái mỹ hiệu là Bạch Diện thư sinh hay sao? Giang hồ võ lâm ngày nay điên đảo vì Câu Hồn bang, vậy mà có nhân vật nào dám ngang nhiên chống lại Câu Hồn bang đâu? Lão phu nghe nói mấy vị cao thủ thuộc hàng “Tam Phật Tứ Chân” mới đây do Bách Trượng thiền sư, Chưởng môn nhân phái Nga Mi lãnh đạo, đã đến tấn công Câu Hồn bang một lần nhưng rút cuộc vẫn bị thất bại. Xưa nay chưa có nhân vật nào diệt trừ được mười tên thủ hạ Câu Hồn bang một lúc, chỉ có Kim thiếu hiệp mới ra đời mà đơn phương độc mã đã làm Câu Hồn bang phải kinh hoảng tán loạn. Thiếu hiệp quả là con rồng trong loài người vậy, các danh nhân chính phái đặt nhiều hy vọng vào thiếu hiệp.
Kim Ngang Tiêu gượng cười :
- Chu lão hiệp quá khen tiểu bối, thật tiểu bối thẹn thùng vô cùng. Nguyên Câu Hồn bang có mối thù giết hại toàn gia tiểu bối, nên tiểu bối đã lập thệ quyết diệt trừ cho được bọn tàn bạo đó. Nhưng lúc đầu tiểu bối võ công non nớt đã bị khốn đốn, nhiều lần suýt bị giết hại, về sau tình cờ xuống được địa huyệt ở Dã Nhân lãnh, thu được những sách võ học của một vị dị nhân gọi là Vô Danh Khách để lại, nên mới có chút lực lượng đương cự với Câu Hồn bang.
Lúc đó Chu Uyển Thanh đã ôm một đống cành lá về hốc núi, dọn dẹp thành một nơi tạm nghỉ. Kim Ngang Tiêu liền nhân cơ hội thuật lại thân thế của chàng cho hai người nghe.
Chu Đức Ân đã nghe phong phanh câu chuyện Kim gia trang bị tàn phá, nên không ngạc nhiên lắm. Chỉ có Chu Uyển Thanh ngồi bó gối bên đống lửa, mở to đôi mắt đen láy, vừa nhìn vừa nghe Kim Ngang Tiêu nói chuyện, tưởng như quên cả trời đất ở bên ngoài.
Kim Ngang Tiêu thuật chuyện chàng xong liền hỏi :
- Chu lão tiền bối, vừa rồi tại tửu điếm các nhân vật võ lâm không biết vì lẽ gì lại biết lão tiền bối và Chu huynh đem di vật của phái Côn Luân, mà đuổi theo cướp đoạt như vậy? Tại sao bỗng dưng có biết bao cao thủ kéo lại nơi đó để tranh giành nhau? Tiểu bối thấy có cả Câu Hồn bang chủ xuất hiện nên thắc mắc vô cùng.
Chu Đức Ân thở dài nói :
- Việc này chẳng qua là vì cái họa phát sinh ngay từ trong nhà họ Chu chúng tôi mà ra. Các cao thủ võ lâm bảo nhau đuổi theo ông cháu lão phu là vì có kẻ manh tâm ám hại nên mách bảo cho họ biết truy nã. Còn việc Câu Hồn bang chủ tại sao xuất hiện vào lúc đó thì quả lão phu không hay biết gì hết. Để lão phu thuật lại từ đầu câu chuyện cho Kim thiếu hiệp nghe.
Kế đó Chu Đức Ân liền kể lại cho Kim Ngang Tiêu nghe những biến cố xảy ra trong nhà họ Chu từ ít lâu nay. Nguyên từ khi phái Côn Luân bị tai kiếp tan rã và phát sinh nổi loạn, Hoang Sơn Nhất kiếm Chu Đại Hải, Chưởng môn nhân phái Côn Luân thời đó, chán nản thế sự, đem vợ con về quy ẩn tại một miền thôn dã.
Hành tung của Chu Đại Hải rất bí mật, nên việc quy ẩn này võ lâm hoàn toàn không hay biết. Chỉ có một người duy nhất được biết chốn ẩn cư của vị Chưởng môn phái Côn Luân là em ruột của Chu Đại Hải, tức là Chu Đức Ân vậy.
Thời đó Chu Đức Ân còn là một thiếu niên võ sinh, vì Chu Đức Ân kém Chu Đại Hải đến trên mười tuổi, Chu Đức Ân cũng là môn đồ phái Côn Luân, nhưng nay xảy ra đại biến Chu Đức Ân lãnh sứ mạng của sư môn xuống miền Đông Hải liên lạc với một môn phái khác nên Chu Đức Ân đã thoát chết.
Khi Chu Đức Ân được tin sư môn gặp tai biến vội vã từ Sơn Hải trở về thì môn phái Côn Luân đã tan rã mất rồi. May mắn đã gặp trưởng huynh là Chu Đại Hải trên đường bôn tẩu bí mật đem gia quyến đi lánh nạn nên Chu Đức Ân cũng theo đi luôn.
Đến lúc Chu Đại hải tìm được nơi thôn dã vừa ý, cất nhà lập trại thì Chu Đức Ân cũng ở luôn với huynh trưởng để thu xếp công việc trong nhà.
Nhưng Chu Đức Ân chỉ ở lại trang trại với trưởng huynh khoảng một năm trời, để học thêm những võ công bí quyết của bổn môn. Sau đó Chu Đức Ân với bầu nhiệt huyết của chàng trai trẻ, lại lên đường cất bước giang hồ, vì nghĩa hành hiệp.
Nhờ lãnh hội được hết tinh hoa kiếm pháp của phái Côn Luân, đệ nhất kiếm phái trong thiên hạ, nhất là sở trường về Tán Hoa ngũ kiếm, Chu Đức Ân đã nổi tiếng trên chốn giang hồ với biệt hiệu là Lâm Tuyền kiếm khách. Lúc đầu vì sợ kẻ thù của môn phái theo dõi. Chu Đức Ân phải giấu hẳn tung tích của mình. Nhưng về sau đến khi về già, chuyện xưa đã phai nhạt, Chu Đức Ân mới tỏ lộ tên thật cho giang hồ biết, vì từ trước võ lâm chỉ biết tên Lâm Tuyền kiếm khách chớ không biết là ai và thuộc môn phái nào.
Trong suốt mấy chục năm hành hiệp giang hồ, thỉnh thoảng một năm một lần hay hai lần Lâm Tuyền kiếm khách lại trở về trang trại, kín đáo thăm viếng vợ chồng huynh trưởng là Chu Đại Hải.
Đến khi vợ chồng Hoàng Sơn Nhất Kiếm Chu Đại hải cởi hạc quy tiên. Chu Đức Ân vẫn theo lệ cũ thỉnh thoảng trở về thăm cháu là Chu Thiên Long, con trai duy nhất của Chu Đại Hải.
Chu Thiên Long cũng học được bảy phần võ công của cha, nhất là vì được chân truyền từ thuở nhỏ, nên võ công lại có phần trội hơn cả thúc phụ là Lâm Tuyền kiếm khách Chu Đức Ân. Tuy nhiên nối chí quy ẩn của cha, Chu Thiên Long chỉ ở nhà vui thú điền viên không bước chân ra giang hồ bao giờ nên võ lâm không biết tên tuổi của ông.
Trang trại của Chu Đại hải lập ra ở vào một miền hoang sơn, dân cư ở xung quanh chỉ có vài chục gia đình nông phu chất phác. Những người dân lành này chỉ biết gia đình họ Chu chính là một gia đình hiền lành, làm ăn cần mẫn, có chút phong phú hơn họ, chớ có biết đâu rằng vị Trang chủ họ Chu chính là dòng dõi một nhân vật võ lâm nổi tiếng.
Ngay đến Chu Đức Ân thỉnh thoảng đi về, các nông dân ở quanh cũng biết, nhưng cho là khách thương buôn bán ở xa xôi chớ không biết là một tay kiếm khách.
Cũng vì gia đình họ Chu ăn ở rất ngay thẳng tử tế, nhất là không tỏ lộ là những người biết võ công bao giờ, nên đến khi Chu Đại Hải hỏi con gái một gia đình nông phu ở gần đó, lấy về làm vợ cho Chu Thiên Long, gia đình nông phu nọ liền vui mừng gả ngay.
Người vợ của Chu Thiên Long tuy là con nhà nông, nhưng là giống người sống ở miền sơn cước nên xinh đẹp vô cùng. Khi về làm dâu họ Chu, chính người con gái này cũng không biết gia đình nhà chồng là những tay kiếm khách có võ công. Mấy năm sau khi hai vợ chồng Chu Đại Hải lần lượt từ trần, thì vợ của Chu Thiên Long sinh hạ được một người con, tức là Chu Uyển Thanh. Song đó điều đáng buồn là ngay sau khi Chu Uyển Thanh ra đời thì người vợ của Chu Thiên Long cũng bạo bệnh qua đời.
Chu Thiên Long buồn rầu vô hạn nhưng từ đó cũng không tục huyền, cam chịu cảnh gà trống nuôi con, sống một cuộc đời gần như cô độc ở trang trại với đứa con nhỏ và hơn chục gia đình đầy tớ. Trong thời gian đó Chu Đức Ân vẫn thỉnh thoảng về thăm cháu nên Chu Uyển Thanh đã quyến luyến thúc tổ ngay từ khi còn nhỏ. Mỗi lần Chu Đức Ân ở xa về thì Chu Uyển Thanh lại vỗ tay reo mừng, bám sát lấy ông chẳng hề rời nửa bước. Nhưng đến khi Chu Đức Ân ra đi tiếp tục bước đường hành hiệp giang hồ thì Chu Uyển Thanh lại khóc lóc, buồn đến cả tháng trời.
Cảnh gia đình của Chu Thiên Long tưởng như vậy là tạm yên cho đến lúc ông mãn chiều xế bóng. Nào ngờ khoảng năm sáu năm trước đây, một sự thay đổi lại xảy ra.
Năm Chu Uyển Thanh được mười ba tuổi thì có một thiếu phụ xa lạ xen vào gia đình này. Mỗi buổi sáng quen như thường lệ, Chu Thiên Long một mình ra khỏi trang trại để sang thăm mấy khu vườn trà và vườn dâu ở ngọn đồi bên cạnh. Đi khỏi cổng trang trại vài chục bước, Chu Thiên Long bỗng gặp một người con gái đó họ Lăng vốn là con của một gia đình nho lại làm tại một thị trấn ở gần kinh sư.
Viên nho lại họ Lăng đến tuổi hồi hưu, liền đem gia quyến trở về quê. Không ngờ cả gia đình về qua đến tỉnh Thiểm Tây thì một bọn cướp xông ra đánh chém, vì viên nho lại cả một đời góp nhặt cũng có một số gia tài châu báu đáng kể.
Lúc đi đường qua miền núi nguy hiểm, họ Lăng đã thuê một đoàn bảo tiêu đi hộ tống. Nhưng bọn giặc hôm đó quá đông võ nghệ lại cao cường. Chúng dần dần chém chết các tay phiêu sư, rồi sát hại luôn cả toàn thể gia quyến họ Lăng và cướp đoạt hết tài sản.
Người con gái họ Lăng này nên Huệ Lan, trong lúc đôi bên chém giết lẫn nhau, kinh hoảng quá té xuống vực sâu. Nhưng đó cũng là dịp may, vì nhờ thế mà nàng thoát nạn, không bị bọn cướp sát hại hay làm ô nhục. Đến khi Lăng Huệ Lan tỉnh dậy bò được ra khỏi vực thì bọn cướp đã đi xa từ lâu rồi, bao nhiêu của cải tiền bạc, hành trang bị cướp đoạt sạch, chỉ còn để lại những xác chết ở bên đường.
Lăng Huệ Lan thấy thi hài cha mẹ anh em bị chết thảm, đau đớn ngã lăn ra chết giấc. May về sau có một đám khách thương đi qua, thương hại nàng liền đứng lại đào huyệt chôn cất những người trong gia quyến nàng và cả những thi thể của phiêu sư hộ tống. Sau đó thân gái bơ vơ không biết làm thế nào. Lăng Huệ Lan đành theo đám khách hương đó đi ngược trở lại, vì nàng cũng không biết quê quán mình ở đâu mà về.
Nhưng hết họa này đến họa khác, đêm hôm đó dừng chân tại một khách điếm với bọn khách thương, Lăng Huệ Lan bị một tên trong bọn khách hương hồ mưu toan hãm hiếp.
Lăng Huệ Lan chống cự quyết liệt, kêu la ầm ĩ, nên tên dâm tặc phải bỏ, nhưng y cũng tức giận đánh nàng thật đau. Quá khiếp sợ, Lăng Huệ Lan liền bỏ trốn luôn.
Đi lang thang suốt một đêm, Lăng Huệ Lan quá mệt mỏi và đau khổ vì số phận bạc bẽo nên ngồi bên đường khóc lóc, tình cờ gặp Chu Thiên Long đi qua.
Chu Thiên Long tuy có võ công thật cao, nhưng không hề đặt chân ra giang hồ bao giờ, nên lịch lãm giang hồ rất ít, hầu như không có chút nào. Tuy vậy thỉnh thoảng có Chu Đức Ân trở về thăm trang trại, nói lại tình hình giang hồ xao động như thế nào nên Chu Thiên Long cũng chỉ biết đại khái những thảm cảnh của một thời ly loạn.
Nghe chuyện Lăng Huệ Lan, Chu Thiên Long liền động lòng trắc ẩn, đem nàng về Chu gia trang cứu giúp. Từ đó Chu gia trang có thêm một người đàn bà.
Lăng Huệ Lan năm đó trạc hai mươi sáu hay hai mươi bảy, tuổi nhan sắc tầm thường, nhưng cũng dễ coi, tính tình lại có vẻ hiền lành thuần thục. Trong một trang trại vắng vẻ như vậy, lửa ở gần rơm tất nhiên rồi phải bén.
Chu Thiên Long lúc ấy mới ngoài tứ tuần, lại góa vợ từ lâu nên gặp Lăng thị cho là duyên trời run rủi. Còn Lăng thị thân gái bơ vơ, lại có vẻ ưng ý Chu Thiên Long ngay từ đầu. Cuộc tình duyên như vậy thật là tốt đẹp. Mấy tháng sau, Chu Thiên Long chính thức làm lễ hợp cẩn với Lăng thị.
Thật ra Lăng thị là người khéo léo hơn là hiền thục. Nàng chiều chuộng săn sóc Chu Thiên Long rất chu đáo, đối với Chu Uyển Thanh rất dịu dàng hòa thuận, tuyệt nhiên không có vấn đề dì ghẻ con chồng. Vả lại Chu gia trang từ trước đến giờ vắng người thân thích Chu Đức Ân lâu lâu mới về một lần, nên Chu Uyển Thanh vẫn cảm thấy cô độc buồn bã, nay lại có thêm người làm sao không vui. Tuy nhiên đối với Lăng thị, Chu Uyển Thanh chỉ thân thiết đến phần nào thôi. Có lẽ vì không tránh được cảm giác là người đàn bà này đã đến thay vào chỗ mẹ ruột sớm quá cố của mình.
Còn Chu Đức Ân lão đại hiệp thì sau khi cháu là Chu Thiên Long tục huyền được nửa năm lão đại hiệp có về thăm trang trại. Thấy cháu đã lấy vợ kế, Chu Đức Ân không khỏi kinh ngạc nhưng sau thấy Lăng thị có vẻ hiền lành ngoan ngoãn, lão đại hiệp cũng yên lòng phần nào, nhất là thấy cháu mình trên mười năm trời cô độc nuôi con, nay được có bầu bạn trông nom nhà cửa, lão đại hiệp cũng được an ủi nhiều.
Lăng thị là con gái một viên nho lại ở gần kinh sư nên dĩ nhiên không biết chút võ công nào. Tuy nhiên từ khi Lăng thị về ở tại Chu gia trang thì một phần sự bí mật của cha con họ Chu bắt buộc phải tỏ lộ cho nàng thấy. Đó là việc Chu Thiên Long biết võ công. Nguyên vì hàng ngày Chu Thiên Long phải ôn luyện võ nghệ ở hoa viên riêng sau nhà, nơi các gia nhân không được tự tiện lui tới.
Ngoài ra Chu Thiên Long lại phải luyện võ công cho con là Chu Uyển Thanh, nên chỉ có thể giấu gia nhân chớ không thể giấu Lăng thị vì Lăng thị là vợ.
Lăng thị thấy chồng và con ghẻ luyện võ công cũng không có vẻ ngạc nhiên lắm, trái lại nhiều khi còn lân la hỏi chuyện võ nghệ. Nhưng đến khi Chu Thiên Long bảo nàng tập luyện cho cơ thể cứng cáp thì Lăng thị nhất định chối từ. Chu Thiên Long cũng không cưỡng ép, cho là nàng thấy những cảnh cướp bóc chém giết gia đình mình, nên không muốn học nghề võ gợi những kỷ niệm ghê gớm đó.
Mặc dầu Lăng thị thấy cha con Chu Thiên Long luyện võ, nàng cũng biết vậy chớ không biết gì thêm về lai lịch của Chu Thiên Long. Đôi khi vui câu chuyện, Lăng thị cũng hỏi chồng, nhưng Chu Thiên Long đã thấy vợ không thích học võ, nên cũng không muốn nói rõ chuyện cha mình là Chưởng môn phái Côn Luân làm gì, cho rằng dù có nói, Lăng thị cũng chẳng hiểu nào mà không có ích gì.
Khoảng một năm sau khi cưới Chu thị, Chu Thiên Long bỗng phát hiện thấy sự lạ ở Chu gia trang. Nguyên Chu gia trang từ mấy chục năm nay, kể từ đời Hoang Sơn Nhất Kiếm Chu Đại Hải vẫn hoàn toàn là một nơi yên tĩnh, ngay cả đến chuyện trộm cướp tầm thường cũng không có. Không ngờ đêm đó, Chu Thiên Long đang nằm trong phòng riêng với vợ, bỗng thấy ở bên ngoài có tiếng động rất nhẹ, như tiếng chân bước của khách dạ hành có khinh công tuyệt cao.
Chu Thiên Long giật mình khẽ mở cửa nhảy ra ngoài thăm xét, nhưng không thấy gì. Chu Thiên Long tự cho là mình đã nghe lầm. Nhưng chỉ mấy đêm sau, lại có tiếng động như vậy xảy ra và Chu Thiên Long nhảy ra ngoài vẫn không thấy gì cả.
Tuy vậy, lần này Chu Thiên Long biết là mình không nghe lầm và quả có người rình rập ở trang trại. Chu Thiên Long thắc mắc vô cùng, nghĩ thầm những kẻ thù của phụ thân tuyệt tích mấy chục năm nay hay chết cả rồi, có lẽ nào còn tìm được đến Chu gia trang? Chẳng lẽ đó là bọn giặc cướp?
Chu Thiên Long liền đem chuyện có người rình nói cho Lăng thị hay, thì Lăng thị sợ hãi vô cùng, cho rằng bọn cướp đã giết hại cha mẹ và gia đình mình, đã dò thám được tung tích của mình nên muốn tìm đến giết nàng cho tuyệt hậu hoạn.
Chu Thiên Long nghe nói cũng có lý, liền gia tăng canh phòng cẩn mật, nhất là tìm cách bảo vệ Lăng thị rất chu đáo, không cho nàng ra ngoài trại một mình bao giờ.
Nhưng rồi việc đó về sau vẫn yên luôn không thấy xảy ra sự việc gì khác nữa. Mấy năm sau đó, thỉnh thoảng Chu Thiên Long cũng có nhận thấy có tiếng chân bước của khách dạ hành, nhưng vì ông võ công cao cường, phát giác ngay và đề phòng cẩn mật nên rút cuộc vẫn không thấy gì xảy ra.
Tình trạng đó cứ kéo dài trong mấy năm trời. Có lúc Chu Đức Ân trở về, nghe cháu thuật lại nên cũng lo ngại, liền ở lại trang trại cả tháng trời đề phòng, nhưng tình thế vẫn yên tĩnh, Chu Đức Ân cho là bọn cướp vặt, không để ý đến nữa và lại ra đi.
Khoảng một năm gần đây thì Chu gia trang hoàn toàn êm ả, những sự rình mò cũng biến mất hẳn. Hai vợ chồng Chu Thiên Long và cả Chu Uyển Thanh thấy yên lòng không còn lo ngại gì nữa.
Không ngờ lối sáu tháng trước, Chu Thiên Long tự nhiên từ trần một cách bất ngờ.
Nguyên tại Chu gia trang có một căn phòng riêng để Chu Thiên Long tĩnh tọa luyện công. Hàng ngày Chu Thiên Long dậy sớm từ lúc trời còn tối đen, vào phòng đó luyện công, cho đến khi sáng rõ mới ra ngoài vườn. Có những thời kỳ khổ luyện Chu Thiên Long phải tham thiền tĩnh tọa cả đêm, điều đó không có gì lạ. Hôm đó Chu Thiên Long vào phòng luyện công từ nửa đêm nhưng mãi đến sáng cũng không thấy ra. Đến lúc mặt trời đã lên cao, Lăng thị vừa vào phòng đã hô hoán ầm lên.
Chu Uyển Thanh ở gần đó hoảng hốt chạy vào theo. Hai người đàn bà khóc lăn lộn trên mặt đất, vì Chu Thiên Long vẫn ngồi trên sạp gỗ theo lối tĩnh tọa, nhưng chân tay lạnh ngắt, té ra đã chết từ lâu rồi.
Chu Uyển Thanh đã khôn lớn, thấy cái chết bất ngờ của cha, sinh lòng ngờ có kẻ ám toán, nhưng sau xét người Chu Thiên Long không có chút thương tích nào cả. Thân thể Chu Thiên Long cũng không có dấu hiệu gì khác lạ như trúng độc hay bị ám khí.
Cái chết đó thật lạ lùng, vì Chu Thiên Long là người tu luyện nội công rất thâm hậu, không có bệnh tật gì, người lại khỏe mạnh. Giả thuyết có kẻ địch đếm ám toán cũng khó tin, vì chỉ một tiếng động nhỏ cũng bị Chu Thiên Long phát giác, không khi nào để kẻ địch lại gần thi hành độc kế.
Lăng thị đau đớn khổ sở, khóc ngất đi mấy lượt. Còn Chu Uyển Thanh cố nén sự đau đớn kinh dị, lặng lẽ tra xét ngầm mấy ngày, nhưng không ra manh mối gì, đành kết luận là cha đến tuổi về trời, tự nhiên cỡi hạc quy tiên. Sau đó Lăng thị và Chu Uyển Thanh làm lễ mai táng Chu Thiên Long, chôn ở ngay bãi đất sau Chu gia trang, nơi nghĩa địa nhỏ đã có một của vợ chồng Chu Đại Hải và vợ trước của Chu Thiên Long.
Đám tang được mấy ngày thì một đêm Chu Uyển Thanh giật mình thức giấc, thấy hình như có tiếng người nói nhỏ và tiếng chân bước nhẹ. Chu Uyển Thanh đã học võ công từ nhỏ nên đôi tai rất thính, võ công chân truyền của cha nên khá cao, lập tức xách kiếm nhảy ra ngoài.
Nhưng lúc Chu Uyển Thanh nhảy ra thì chỉ kịp thấy mấy bóng đen phi thân nhảy lên mái nhà nhanh như gió. Chu Uyển Thanh đuổi theo, nhưng khinh công của mấy tên đó quá cao, chớp mắt đã biến mất trong bóng tối.
Chu Uyển Thanh quay trở lại nhà, yên lòng thấy gia nhân không ai bị hãm hại, Lăng thị vẫn ngủ yên trong phòng riêng, dĩ nhiên không ai hay biết gì hết. Có điều là nhiều nơi trong phòng bị lục lọi, chứng tỏ bọn lạ mặt đến lục soát tìm kiếm vật gì.
Đến sáng hôm sau ra thăm mộ cha và ông nội, Chu Uyển Thanh càng tức giận và kinh hãi thêm, vì thấy rằng cả hai ngôi mộ đó cũng bị đào bới.
Chu Uyển Thanh sai gia nhân sửa chữa lại hai ngôi mộ, vì hai ngôi mộ làm gì có vật gì quý giá chôn giấu. Chu Uyển Thanh cũng nghi ngờ thắc mắc vô cùng: bọn gian tìm gì? Không lẽ bọn chúng tìm những di vật của phái Côn Luân, Chu Đức Ân và Chu Uyển Thanh, không có người thứ tư hay biết việc này. Cả Lăng thị cũng không biết.
Nhưng Chu Uyển Thanh rình rập chờ đợi mấy tháng liền cũng không thấy có gì.
Khoảng sáu tháng sau cái chết của Chu Thiên Long, tức là cách đây mới mấy ngày Chu Đức Ân tình cờ về thăm trang trại.
Vừa về đến nơi, Chu Đức Ân được tin cháu đã chết, ông đau đớn và kinh dị vô cùng. Nhất là nghe Chu Uyển Thanh thuật lại trường hợp chết bất ngờ của Chu Thiên Long, lão đại hiệp càng thắc mắc nghi ngại, tiếc thay Chu Tiên Long chết đã sáu tháng rồi, không còn cách nào tra cứu được nữa.
Chu Đức Ân thương xót cháu nội mồ côi, định ở luôn trang trại di dưỡng tuổi già. Không ngờ Chu lão hiệp về trang trại hôm trước, hôm sau Chu gia trang có biến.
Một bọn năm tên võ lâm cao thủ, không biết ở môn phái nào đã đến vây công Chu gia trang. Nhưng điều kinh dị hơn hết là những tên này đã yêu sách Chu Đức Ân và Chu Uyển Thanh phải đưa cho chúng hai di vật của phái Côn Luân năm xưa để lại. Chu Đức Ân thất kinh, không ngờ sự bí mật này bị tiết lộ.
Khi xưa Chu Đại Hải đem gia quyến đi lánh nạn, đã kịp đem theo cuốn kiếm phổ Âm Dương Thái Cực kiếm và thanh thần kiếm Phi Long nhuyễn kiếm, hai thứ trong năm thứ báu vật của phái Côn Luân còn ba thứ kia chẳng may bị thất lạc.
Việc này tuyệt nhiên không ai hay biết. Về sau Hoàng Sơn Nhất Kiếm Chu Đại Hải lập Chu gia trang liền cất hai thứ đó vào một nơi rất kín đáo, không phải để ở Chu gia trang mà ở một ngọn núi cách Chu gia trang trên năm chục dặm. Nơi cất giấu này chỉ có Chu Đức Ân được biết. Sau đến lượt Chu Thiên Long được cha là Chu Đại Hải dặn dò nơi cất di vật trước khi Chu Đại hải từ trần. Đến khi Chu Uyển Thanh khôn lớn, Chu Thiên Long cũng theo lệ cha truyền lại sự bí mật cho con biết.
Như vậy sau khi Chu Thiên Long đột ngột từ trần, tưởng ở trên đời này chỉ có hai người là Chu Đức Ân và Chu Uyển Thanh được biết sự bí mật đó mà thôi. Ai ngờ đến nay có bọn võ lâm cao thủ đột nhiên vây công Chu gia trang để đòi chiếm đoạt hai vật báu. Xem ra như vậy, những sự rình rập ở Chu gia trang trong mấy năm qua chính là vì hai báu vật đó.
Thấy mấy kẻ lạ mặt yêu sách đòi chiếm mấy di vật của phái Côn Luân, Chu Đức Ân tức giận khôn tả, liền quát mắng và ra tay đối địch. Lâm Tuyền kiếm khách Chu Đức Ân là môn đệ của phái Côn Luân năm xưa, lại thêm mấy chục năm hành hiệp giang hồ nên võ công của ông rất cao, một mình ung dung đối địch với năm tên lạ mặt. Lại thêm có Chu Uyển Thanh trợ lực xuất sắc, nên chỉ một lát sau là hai ông cháu Chu Đức Ân đẩy lui được địch.
Nhưng sau khi kẻ địch rút lui, Chu Đức Ân là tay lão luyện giang hồ, lấy làm lo ngại, biết rằng chúng không chịu bỏ qua mà còn kéo đến nữa. Bởi vậy ngay đêm đó ông bảo Chu Uyển Thanh và Lăng thị thu xếp hành trang, định đi một nơi khác, tạm thời lánh mặt ít lâu.
Không ngờ ba người chưa kịp ra đi thì kẻ địch lại kéo một tốp tấn công Chu gia trang. Lần này địch nhân rất đông, có tới trên một chục tên, trong số đó có vài ba người võ công rất cao cường, ngang hàng với Lâm Tuyền kiếm khách Chu Đức Ân.
Bọn chúng chia nhau, một mặt vây công hai ông cháu Chu Đức Ân, một mặt uy hiếp Lăng thị và gia nhân, lục lọi đập phá hết thảy Chu gia trang để tìm báu vật.
Quả bất địch chúng, lần này Chu Đức Ân bị thất bại. Trong lúc giao đấu, Chu Đức Ân còn bị trúng một ngọn Thiết Tâm chưởng, thương thế rất nặng, nhưng lão hiệp khách còn đủ sức thoát khỏi tay bọn địch nhân và đem theo Chu Uyển Thanh tạm thời chạy khỏi Chu gia trang.
Lát sau, hai người thấy kẻ địch đã rút lui liền quay về Chu gia trang thì thấy một cảnh rất đau lòng: Chu gia trang bị bọn địch nhân phóng hỏa đốt cháy ngùn ngụt. Có lẽ bọn họ không tìm thấy báu vật nên mới nổi nóng, phóng lửa đốt cháy. Đau lòng hơn nữa là tìm đến Lăng thị thì không thấy đâu nữa. Những tên gia nhân sống sót cho biết bọn cướp đã bắt sống Lăng thị đem đi theo chúng rồi.
Còn bọn gia đinh, kẻ chết, người bị thương nằm la liệt, bên lửa cháy ngất trời, thảm cảnh không sao tả xiết. Chu Đức Ân và Chu Uyển Thanh bèn thu xếp cho bọn gia đinh chôn cất người chết, phân chia tiền bạc cho đám người bị thương tích, nhờ mấy gia đình nông phu lân cận cho họ tạm trú. Sau đó hai ông cháu Chu Đức Ân bỏ Chu gia trang đi ngay, không dám nấn ná, vì sợ kẻ thù còn quay lại nữa. Trước khi đi, Chu Uyển Thanh đã cải trang làm một người nghèo khó lam lũ, để bọn gian nhân khỏi nhận mặt.
Ai ngờ hai ông cháu Chu Đức Ân chạy đến thị trấn nọ, vào tửu điếm nghỉ chân, liền bị bọn Bàn Xủng tứ hung và những võ lâm cao thủ khác theo dõi, gây thành chuyện xung đột ghê gớm như Kim Ngang Tiêu đã được chứng kiến.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT