Sáng hôm sau, bốn người như thể đã thỏa thuận, gặp nhau là tránh đi, coi như không biết. Trong cung mời đoàn kịch và đoàn ca vũ về, dựng một đài cao, Đường Mật cùng Bạch Chỉ Vi đến từng nơi, tìm xem Trương Úy và Hoàn Lan có ở đó không. Dù biết không có nhưng nó vẫn bất an, điệu múa đẹp thế nào cũng không để tâm, tiếng ca ngọt ngào cũng như dao cắt vào tai, không ngồi được lâu là lại kéo Bạch Chỉ Vi sang chỗ khác.

Bạch Chỉ Vi cũng không yên lòng, bị Đường Mật kéo đi lung tung một lúc, lòng càng nóng nảy, liền giật tay áo nó: “Chúng ta kiếm chỗ nào ngồi nghỉ.”

Cả hai vào một gian điện vắng người, lò lửa trong điện còn chưa tắt, giường vẫn vương hơi ấm, tựa hồ mới có người rời đi. Cánh cửa điện dày dặn vừa khép lại, ồn ào bên ngoài bị cách tuyệt, hai cô nhìn nhau ngồi lên giường.

“Chỉ Vi, đang phiền não gì hả?” Đường Mật lên tiếng trước.

“Không rõ, nếu nói rõ được thì không phiền não nữa.” Bạch Chỉ Vi đáp: “Ta thấy bộ dạng của đầu to là lại phiền lòng, hận không thể cho y một gậy vào đầu, dù ta biết lúc đó nên giúp y trút bỏ nỗi lòng mới đúng. Còn ngươi, sao rồi?”

Đường Mật nói: “Ta hi vọng tất cả đều ở cạnh mình bạn bè, nhưng tối qua mới phát hiện không thể.”

“Vì sao?”

“Vì sẽ có người muốn được nhiều hơn.”

“Phải làm sao?”

Đường Mật thở dài, vùi mặt vào tay áo: “Không biết, nhưng tối qua ta xử lý không tốt. Ừ, mất hết tiêu chuẩn.”

Giờ y hồi tưởng lại vẫn không hiểu nên làm thế nào mới đúng. Lúc đó nó đáp nhẹ tênh: “Đa tạ bất quá ta không đẹp như Linh Lung phu nhân.” Rồi đi thêm mấy bước, giả bộ hào hứng xem hoa đăng, đoạn cùng Hoàn Lan giải đố xem mỹ nữ, không để y có thêm cơ hội mở miệng.

“Có người đến.” Bạch Chỉ Vi nhảy bật lên, kéo Đường Mật vào sau màn.

Cửa điện kèn kẹt mở ra, một nội thị thò đầu vào, thấy không có ai mới vào hẳn, đi đi lại lại trong điện, liên tục nhìn ra ngoài như đang đợi ai.

Chừng một tuần trà sau, một nữ tử ăn vận theo lối cung nữ đi vào, nội thị bước tới hỏi: “Có dặn dò gì không?”

Cung nữ đưa một cái vòng trắng nhỏ xíu, hạ giọng: “Nhớ rõ hình dáng chưa?”

“Cô nương yên tâm.”

“Được rồi, không hiểu hôm nay y có đến không, phu nhân đã dặn công tử nhà ta đến.”

“Mong cô nương báo lại với phu nhân, chỉ cần y đến, tiểu nhân nhất định không thất thủ.”

Đợi khi trong điện chỉ còn lại Đường Mật và Bạch Chỉ Vi, Bạch Chỉ Vi hỏi: “Tựa hồ là âm mưu gì đó ở hậu cung, chúng ta có nhúng vào không?”

“Tất nhiên mặc kệ, ai biết trong đó có những ân oán gì?” Đường Mật đáp: “Vũng nước đục giữa một toán nữ nhân và một nam nhân, chúng ta không nên nhúng vào.”

Cả hai rời khỏi gian điện, mặt trời đã lên quá đỉnh đầu, bụng cũng đói rồi, bèn đi đến chỗ yến tịch. Yến tịch dành cho tân khách được bày theo thân phận mỗi người, hai cô đến tất sẽ gặp Hoàn Lan và Trương Úy, tránh cũng không được. Đường Mật đang không hiểu phải xử lý thế nào, thì một bóng người màu lam ung dung lướt tới, cười bảo nó: “Tại hạ về rồi.”

Đường Mật xưa nay chưa từng thấy ai mà vui thế, lòng thầm hoan hô: Đại cứu tinh đến rồi, chỉ hận không thể lên ôm y, ngoài mặt nó vẫn cố giữ nụ cười khắc chế: “Tốt quá, Mộ Dung Phỉ, ngươi đến đúng bữa.”

Đường Mật cho rằng hôm đó Mộ Dung Phỉ tuyệt đối đóng vai trò Chúa cứu thế. Nó không biết y có nhận ra bầu không khí thay đổi không, nhưng y vẫn cười nói, kể lại tình hình trên đường, bình phẩm mọi thứ, khiến tình cảnh vốn có thể trở nên khó xử tiêu tan vô hình. Dần dần, khi tất cả bình thường lại như trước, y mới tìm thời cơ thích hợp, kể lại kết quả điều tra.

Y cân nhắc dùng từ, nói với Đường Mật: “Ta điều tra một vòng ở nước Triệu, như lời Trương Úy về Sử Thụy thì thân thế của y không vấn đề gì, y và hành vi của người nhà cũng hợp lý. Chỉ có điều xa phu bỏ đi nửa chừng đó đã chết, ngay ngày các ngươi rời huyện An Hưng, chết trên đường về nhà, quan phủ cho rằng gặp cướp phỉ. Bất quá, việc này có vấn đề, con đường đó chưa từng có cướp phỉ, hà huống, phỉ đạo đời nào cướp một cái xe không, chỉ có xa phu. Ta đã hỏi người nhà xa phu đó, họ không biết hôm đó y quay về, cũng không viết thư gọi y về. Nên khẳng định rằng xa phu bảo gia đình có việc là gạt các vị. Việc này, để hợp lý, chỉ có một cách giải thích.”

Y nói đến đây, nhìn chúng nhân, nói với vẻ khẳng định: “Xa phu nhất định bị diệt khẩu rồi.”

Đường Mật nghe được nửa đã đoán ra, nên không kinh ngạc tí nào: “Còn tình hình ở thôn đầu cầu thì sao?”

“Điều tra rồi, căn phòng các ngươi ở hôm đó và cả thôn đều bị đốt rụi, ngươi ở thôn trấn cạnh đó đều không biết xảy ra việc gì, vì nơi ấy từ lâu không có người ở.” Mộ Dung Phỉ nói đoạn, phát giác thần tình mọi người đều trầm xuống, biết rằng không cần giải thích gì, quay sang hỏi Đường Mật: “Thủ pháp này khiến người ta nghĩ tới Ma cung.”

Đường Mật gật đầu: “Đúng, người Ma cung chắc là vẫn biết hành tung của ta, bằng không chẳng vài lần đến bắt. Hơn nữa, di phụ của Bạch Chỉ Vi xuất hiện ở thôn đó vì truy theo ký hiệu liên lạc của người Ma cung. Chỉ là nếu thật sự do người Ma cung gây ra thì bỏ qua mọi việc, tại sao kẻ chủ mưu hiểu được việc lúc nhỏ của Mục điện giám như thế? Nên biết, hình vẽ trên giấy, thậm chí lúc đồ thôn cố ý hạ thủ nặng tay với con chó đều để lại manh mối khiến ta hoài nghi Mục điện giám. Nhưng hiểu được những thứ đó thì tất phải là người biết rõ huynh đệ Mục điện giám, đúng không?”

“Chưa biết chừng là nội ngoại câu kết.” Bạch Chỉ Vi nói.

Đường Mật đột nhiên nghĩ đến cách dùng từ của Mộ Dung Phỉ, nhắc đến Sử Thụy thì nói “y và hành vi của người nhà cũng hợp lý”. Nó biết Mộ Dung Phỉ cẩn thận, không bao giờ ước đoán hoặc nói lung tung, hiển nhiên câu này có thâm ý khác, bèn hỏi: “Hành vi của Sử Thụy và người nhà sao lại hợp lý, ý ngươi là còn phương thức khác giải thích hành vi của họ?”

Mộ Dung Phỉ nhìn nó, cảm giác giữa hai người có thể hiểu nhau không cần nói ra, niềm vi diệu này chỉ mình nó nhận ra, y bèn nói: “Đúng, hàng xóm cho biết, người nhà Sử Thụy từng tiêu pha rộng, hàng xóm hỏi thì bảo tiền do Sử Thụy cho, nhưng chỉ được vài ngày là trở lại như cũ, hàng xóm hỏi tiếp thì được đáp rằng nhi tử để lại không nhiều tiền lắm, còn phải để lại cho y cưới vợ, không thể tiêu pha bừa bãi. Việc như thế Sử Thụy cũng từng làm, hàng xóm bảo y trêu tên ngốc sống sát vách rằng tiền sinh ra tiền, cho tên ngốc đó mười đồng, nhưng sau đó tên ngốc tìm y thì y bảo tiền không sinh ra được nữa. Tại hạ nghi hoặc nên nhân lúc nhà y không có ai, lén vào tìm, phát hiện quả không có thứ gì đáng giá, là gia đình bình thường mà thôi. Nên đúng như Sử Thụy nói, chỉ là tiền thắng bạc thôi mà. Nhưng…”

Mộ Dung Phỉ hơi ngừng lời: “Nhưng nếu có người cho Sử Thụy một món tiền lớn thì việc này có thể giải thích như sau. Ban đầu họ thấy tiền thì hưng phấn quá nên mới tiêu nhiều, sau đó được cảnh cáo không được để ai chú ý nên mới thu liễm, ngay cả gia đình cũng không mua thêm vật gì. Còn một cách giải thích hợp lý là có người cho Sử Thụy một món tiền lớn nhưng ứng trước một phần, còn lại đợi khi y hoàn thành công việc mới trả, còn người nhà y đã nhận được rồi.”

Đường Mật gật đầu lia lịa, nó để Mộ Dung Phỉ đi điều tra việc Sử Thụy vì chỉ y là người không dễ để cảm tình xen vào phán đoán, đồng thời lại chu toàn mọi sự, xem ra hiện giờ bản thân y cũng cho rằng Sử Thụy khó lòng trong sạch.

Trương Úy nhíu mày, nhưng thấy cả Bạch Chỉ Vi và Hoàn Lan đều tỏ vẻ đồng ý, Đường Mật và Mộ Dung Phỉ đều giỏi ăn nói, gã muốn biện giải cho Sử Thụy vài câu cũng không lấy đâu ra chứng cớ, đành nhẫn nại đợi xem sao.

Đường Mật nói: “Giờ cần đến nước Triệu một chuyến trước khi về Thục Sơn, một là cần hồn thú của Hoàn Lan lấy tin ở chỗ Ngạn Thượng, nghe nói nàng ta thường xuất hiện ở nước Triệu. Thứ hai, Ngụy vương nói năm xưa ba nước đánh vào vương cung nước Triệu chỉ đoạt tài bảo mỹ nữ, nhiều thư tín của Hoa Tuyền vẫn còn tùy tiện vứt trong cung, nhờ cơ duyên mà Ngụy vương đã đọc qua một ít, xem ra còn lại vẫn chưa bị hủy, chúng ta mà tìm được, chưa biết chừng sẽ lần ra manh mối vì sao hồn thú không tiêu vong. Còn nữa, nước Triệu là sào huyệt của Ma cung, ta đang nghĩ ra một kế sách, đến lúc thì chúng ta cứ theo thế hành sự, may ra tóm được kẻ chủ mưu.”

Buổi trưa là lúc chơi mã cầu, năm nào Hoàn Lan cũng là chủ tướng, năm nay thấy Mộ Dung Phỉ, Bạch Chỉ Vi và Trương Úy vừa hay tổ thành một đội liền kéo họ đi cùng.

Bốn người đổi sang trang phục cưỡi ngựa màu trắng, dắt ngựa đến sát sân đấu, hai bên tụ tập không ít khán giả, chỉ riêng đài dành cho Ngụy vương và vương hậu là còn trống. Đường Mật đứng bên ngoài, trang phục đỏ rực của kiếm đồng nổi bật trong rừng áo hoa hòe của các cung nữ, lớn tiếng hô: “Các đồng chí cố lên.”

Bốn đồng bạn cùng bật cười, Mộ Dung Phỉ bảo: “Cũng may người khác không hiểu, bằng không mất mặt lắm.”

“Đường Mật nói gì vậy?” Sau lưng họ chợt vang lên giọng nói.

Bốn người ngoái nhìn, Tư Đồ Thận và ba thiếu niên khác dắt ngựa, cầm gậy đánh đứng đó, mỗi người đều mặt áo đen, chính là trang phục đối thủ của bọn Mộ Dung Phỉ.

Thấy Tư Đồ Thận, thần sắc Trương Úy ảm đạm hẳn, Bạch Chỉ Vi liếc gã, ghé sát tai: “Đầu to, vốn ta định dùng gậy gõ vào đầu ngươi nhưng giờ đổi ý.”

Mộ Dung Phỉ không hiểu việc xảy ra đêm qua: “Chỉ là những từ trợ uy mà Đường Mật tự nghĩ ra. Ngươi cũng ở đây hả, xảo hợp quá.”

Tư Đồ Thận có vẻ kiêu ngạo: “Đúng, ta đến thăm huynh trưởng, à, Quân Nam Phù cũng đến xem.” Đoạn chỉ ra ngoài, quả nhiên thấy Quân Nam Phù đứng cách Đường Mật không xa, y phục màu trắng nổi bật hẳn lên.

Tỷ thí bắt đầu khá hấp dẫn, các thiếu niên đều là cao thủ, đội của Tư Đồ Thận hiển nhiên có tập luyện trước, phối hợp cực kỳ nhuần nhuyễn. Nhưng bốn người đội Hoàn Lan đều xuất sắc, đặc biệt là kỹ nghệ cưỡi ngựa của Trương Úy như được sinh ra trên yên ngựa, khiến chúng nhân khen ngợi mãi.

Rồi đội Hoàn Lan dẫn trước, đội Tư Đồ Thận bắt đầu cuống lên, mùi “thuốc súng” lan khắp toàn trường. Bạch Chỉ Vi nắm lấy cơ hội ngăn chặn Tư Đồ Thận, vung gậy đánh đập vào quả cầu da mà Tư Đồ Thận đang điều khiển, thật ra cô uốn cổ tay đập cho y một đòn. Tư Đồ Thận nổi giận, vung gậy trả đòn, Trương Úy đang lướt tới trông thấy, liền giật cương giơ gậy ngăn lại.

Bạch Chỉ Vi đoạt lấy quả cầu, chuyền cho Mộ Dung Phỉ. Tư Đồ Thận tưởng rằng hai người đối phương đã tính trước phương pháp hạ lưu này, càng thêm giận, lại tấn công Bạch Chỉ Vi. Cô quay đầu ngựa, sau lưng hoàn toàn lộ ra, không còn năng lực phòng bị, Trương Úy lại đến cứu, không ngờ Tư Đồ Thận đã liệu trước dã hành động thế nên thu gậy ở lưng chừng không. Trọng tâm của gã đã rướn tới quá nhiều, không kịp thu lại, ngã luôn xuống ngựa.

Khán đài hô lên kinh ngạc, cho rằng gã ngã xuống, ai ngờ lớp bụi tan đi, một chân gã vẫn móc lấy bàn đạp, treo lơ lửng trên yên. Gã uốn bụng thẳng người lại, định quay về yên ngựa, không ngờ con ngựa chợt nhảy lên không hí vang rồi đáp xuống đất, bắt đầu phát cuồng đá loạn xạ.

Cũng may Trương Úy chưa bò lên lưng ngựa, cách mặt đất rất gần, cộng thêm quả cầu được Bạch Chỉ Vi chuyền đi, chung quanh không bị thớt ngựa nào quấy nhiễu, gã nhắm chuẩn cơ hội lăn xuống đất, tránh khỏi thớt ngựa phát cuồng.

Đường Mật đứng ngoài cũng đầm đìa mồ hôi, biết nếu lúc đó mà có kỵ thủ khác ở gần thì Trương Úy tất đã bị giẫm nát. Nó định chạy đến thì thấy Quân Nam Phù đã chạy trước, lập tức kéo đối phương lại: “Đừng đến đó, nguy hiểm.”

Quân Nam Phù hất tay, không ngờ bị giữ chặt, liền bảo: “Ta đến xem thử, lẽ nào ngươi không lo.”

“Lo chứ, bất quá ngươi đến thì ta càng lo.” Đường Mật đáp, thấy cung nhân và Bạch Chỉ Vi đưa Trương Úy đi, nó mới thở phào.

Không lâu sau Bạch Chỉ Vi thần sắc ngưng trọng đến trước mặt. Đường Mật tưởng Trương Úy xảy ra việc gì, hỏi: “Đầu to sao rồi?”

“Không sao, chỉ bị thương ngoài da.” Bạch Chỉ Vi kéo nó đến chỗ không người, xòe tay cho nó xem.

Tay cô phủ một lớp dầu mỏng, Đường Mật không hiểu: “Tay ngươi có dầu, sao thế?”

“Ta phát hiện thứ này dưới yên ngựa của đầu to.” Bạch Chỉ Vi nói: “Hiện giờ là mùa đông, nếu dùng dầu mỡ đông lại bọc lấy độc châm rồi nhét xuống yên ngựa, khi ngựa chạy nóng lên, dầu mỡ tan ra, độc châm sẽ cắm vào lưng ngực. Đường Mật, ngươi còn nhớ trưa qua chúng ta thấy nội thị đó không, ta gặp hắn ở chuồng ngựa, hóa ra chuyên môn trông nom nơi đó.”

Đường Mật hít sâu một hơi khí lạnh: “Xem ra chúng ta phải đến nước Triệu rồi.”

Bạch giang chảy xiết từ tây sang đông xuyên qua vùng đất này, bờ nam con sông là nước Triệu.

Toán Đường Mật dừng chân ở bên đò bờ bắc, thấy một con thuyền chở khác từ từ trôi đến, đầu thuyền có một thiếu niên áo lam, thân hình cao ráo, chính là Lý Lý ăn vận nam trang.

Không đợi thuyền đỗ hẳn, Lý Lý đã điểm chân xuống lướt về phía bọn Đường Mật, cười hỏi: “Ta không đến muộn.”

Đường Mật cũng vui vẻ: “Không đến muộn, kỳ thật ta không lo về ngươi, chỉ lo lắng về tốc độ đưa tin của Hành Trì.”

Lý Lý móc Hành Trì vẫn ngủ say tít trong tay áo ra đưa cho Đường Mật: “Việc ngươi nhờ nghe ngóng, ta ghi cả trong này.” Đoạn lại móc một mảnh lụa trắng đầy chữ đưa cho nó: “Nên nhớ ở nước Triệu không được tùy tiện nhắc đến Ma vương. Đấy là nhà của Ma vương, ở đấy chia thành hai phái, một cực kỳ sùng bái vì dưới thời nàng ta trị vì, nước Triệu có cương thổ rộng nhất, Hàm Đan là đô thành tối phồn hoa dưới gầm trời này, cũng là năm tháng vinh diệu nhất của người Triệu. Một phái cực kỳ ghét nàng ta, bởi ma tướng và ma binh thủ hạ của nàng ta giết người như ngóe, phong bế mọi tự miếu, sau cùng mới khiến ba nước liên quân, tạo thành cục diện hiện thời của nước Triệu.”

Cục diện hiện này của nước Triệu thì chúng nhân đều biết sơ qua, tuy cương thổ nước Triệu đứng đầu bốn nước nhưng từ hơn trăm trước đã bị ba nước phân chia mất không ít thành bang. Đối với nước Triệu, mất lãnh thổ không gây tổn thương nguyên khí nhiều nhất mà sau khi Hoa Tuyền chết, quân vương được ba nước dựng lên cực kỳ yếu đuối, chính lệnh của vương quốc không được địa phương chấp hành, quân đội cũng không duy trì nổi trị an. Ban đầu, các đại địa chủ có thực lực để tự bảo vệ đầu thành lập bảo an đoàn riêng, những bảo an đoàn này mạnh dần, tiếp quản trị an từng nơi, còn các đại địa chủ biến thành quân phiệt một phương, trên danh nghĩa vẫn trung thành với Triệu vương nhưng thực ra có thể chế thu thuế và quản lý độc lập, gần như là một nước riêng trong vương quốc. Di phụ Lục Triệt của Bạch Chỉ Vi là một quân phiệt rất có thực lực.

Vì nguyên nhân này, đi lại trong nước Triệu khá phiền phức, từ thành trấn này sang thành trấn khác cần đổi thông điệp, cũng may Côn Bằng bang của ông ngoại Lý Lý là địa đầu xà ở Bạch giang, có cô đi cùng, chúng nhân đi lại dễ dàng trên sông, chuyển sang nhánh lớn nhất của Bạch giang là Hàm giang, mất ba ngày là đến được Hàm Đan.

Lý Lý chia tay bọn Đường Mật ở bến đò, lúc đi còn móc ra một khối thạch bài làm từ đá trứng ngỗng ở ven Bạch giang, điêu khắc một con cá một con chim, chính thị tiêu ký của Côn Bằng bang.

“Giữ cho kỹ, chỉ cần ở Bạch giang hoặc sông nhánh, đưa cho bất kỳ thuyền nhân nào đều được giúp đỡ. Các ngươi cẩn thận, gặp lại ở Thục Sơn.” Lý Lý nói đoạn, vòng tay ôm quyền với các nam hài, nhảy lại thuyền, từ từ đi xa.

Hàm Đan thành tựa theo thế núi, phân thành ba phần, lão bách tính phổ thông đều cư trú trên đồng bằng dọc bờ Hàm giang, tường thành cũng không xây theo lối mở, dưới chân núi được tường thành xám xịt hợp lại, men theo sườn núi là vương thành, nơi ở của quý tộc và quan lại. Lưng chừng núi là tường đỏ rực vây lấy cung thành của quân vương. Cả nhóm đứng ở bến đò, loáng thoáng thấy được bức tường đỏ sậm, hòa cùng điện vũi rải rác phía trong, nóc điện thếp vàng, ánh lên màu vàng chanh rực rỡ dưới ánh nắng, phản chiếu vào màn sương chưa tan hết trong núi, tạo thành vầng ráng hoặc đậm hoặc nhạt, như nơi thiên thần cao cao tại thượng cư trú.

Đường Mật cảm thán: “Quả nhiên, phong thủy thành này không lợi cho quân vương.”

Mộ Dung Phỉ lấy làm lạ: “Sao lại thế? Theo phong thủy, thành này giáp núi giáp sông, là địa thế thượng thừa, cộng thêm lưu vực Bạch giang tấp nập vận chuyển, dù là xưa hay nay đều cực kỳ giàu có. Nên biết, nếu không có thuế thu từ Hàm Đan thành, Triệu vương hiện nay khó lòng duy trì cục diện.”

Đường Mật đáp: “Ta nói thế vì vương giả ở trên cao cùng mây, nếu mỗi ngày đều nhìn xuống đô thành của mình, dần dà sẽ dễ dàng quên mất mình chỉ là quân vương tục thế mà ngộ nhận mình trở thành thần phật vạn năng. Thân là quân vương mà nghĩ thế thì e rằng hỏng bét.”

“Đúng, coi như là một loại ảo ảnh.” Trương Úy tán đồng.

oOo

Ca vũ phường Bảo Hương lâu.

Cả toán nghỉ lại tại khách sạn gần chân núi nhất, đêm xuống liền theo lời Lý Lý chỉ dần đến một ca vũ phường mang tên Bảo Hương lâu. Đường Mật đưa thạch bài cho tạp dịch gác cửa, không lâu sau thì một người đàn bà dáng vẻ tinh nhanh ra đón. Người này biết nhìn người, thấy cả nhóm tuy ăn vận tầm thường nhưng đều khí độ bất phàm, liền mỉm cười: “Mời các vị quý khách, nô gia là Hoa nhị nương, Lý cô nương có dặn rồi, xin hãy theo nô gia.”

Cả toán theo Hoa nhị nương đến hậu viện, vào một gian sương phòng, chỉ thấy trên ghế bày năm, sáu bộ trang phục nữ. Hoa nhị nương chỉ vào y phục: “Các vị thay đi, không hợp thì nô gia gọi người chuẩn bị.”

Trương Úy ngẩn ra: “Nam tử cũng mặc hả?”

“Tất nhiên. Bên trong bức tường xám, vào đêm rồi chỉ có ca vũ cơ và người thu dọn đồ mới vào được, thiếu hiệp muốn giả là ca vũ cơ hay người dọn rác?” Hoa nhị nương hỏi.

Trương Úy cúi đấu lí nhí: “Dọn rác.” Bất quá gã biết Đường Mật và Bạch Chỉ Vi thà bị kề kiếm vào cổ cũng không chịu đi dọn rác, đấy chỉ là ảo vọng của gã mà thôi.

Đường Mật và Bạch Chỉ Vi hưng phấn vô cùng, nhanh chóng lấy vũ y màu vàng và lam nhạt mặc vào, lúc xong xuôi thì thấy ba thiếu niên vẫn đang lúng túng với mớ vũ y đủ màu xanh đỏ, liền nhìn nhau cười ha hả, bất chấp ba gã phản đối, mặc cho mỗi người một bộ.

Hoàn Lan bị khoác lên tấm áo màu xanh đậm, Mộ Dung Phỉ bị mặc váy lụa màu thạch lựu. Đường Mật và Bạch Chỉ Vi vẫn còn hào hứng, lại hớn hở tô son trát phấn, cài thoa giắt lược, sau một phen tô lục chuốt hồng thì hai gã biến thành mỹ nữ đẹp hơn hoa nở, mặt mũi đỏ bừng đứng lóng ngóng một chỗ, nhìn cũng có phong vận yêu kiều riêng.

Đến lượt Trương Úy thì khó hơn, Đường Mật và Bạch Chỉ Vi trang điểm thế nào cũng không đạt. Vốn khung xương của gã thô, mặt mũi cứng cỏi, thân thể lại cao, tuy cục hầu chưa lộ rõ hẳn nhưng đã hiện rõ đường nét nam tử, giả trang thành vũ cơ mặc áo sa mỏng, nhìn thế nào cũng thấy quai quái.

Đường Mật vỗ trán, ra khỏi nhà ôm về một mớ y phục, ăn vận lạ cho Trương Úy, biến gã thành một nha hoàn. Lúc đó nó mới hài lòng gật đầu: “Đầu to, bộ này không tệ, ngươi tên Như Hoa, là nha hoàn ôm đàn cho ta.” Đoạn chỉ vào hai ‘mỹ nữ’ một lục một hồng đang ngẩng đầu nhìn trời ở góc tường: “Hai ngươi tên Tiểu Thúy và Tiểu Hồng.”

Trương Úy quen với việc tiếp nhận vận mệnh bi thảm rồi, nên ngoan ngoãn ôm hộp đàn lên. Hoàn Lan và Mộ Dung Phỉ dở khóc dở cười, Mộ Dung Phỉ hỏi: “Hai vị tên gì?”

“Ta tên Oanh nhi, đây là Yến nhi, thế nào, khả ái lắm hả?” Đường Mật đáp, nở nụ cười tinh ranh.

Xe của ca vũ phường thuận lời lọt vào vòng tường màu xám thứ nhất, dừng ở cửa ngách một tòa phủ đệ. Cả toán theo các vũ cơ khác vào đình viện, đợi một chốc trong gian sương phòng liền có gia nô trong phủ gọi đi. Chúng vũ cơ và nhạc sư theo gia nô vào sâu trong đình viện. Nhóm Đường Mật đi cuối, nhân lúc không ai để ý, lén tách khỏi.

Năm người đi qua hoa viên, chuẩn bị quay về gian sương phong thay đồ dạ hành thì chợt sau lưng vang lên giọng nam tử: “Các ngươi định đi đâu.”

Đường Mật quay người lại nhìn, một nam tử ăn vận kiểu võ nhân dẫn năm sáu binh tốt đứng ngay sau lưng, nó vội dẫn chúng nhân hành lễ: “Nô gia là vũ cơ Bảo Hương lâu, đến múa hát chúc rượu các vị đại gia.”

Nam tử đó tướng mạo anh vĩ, sắc mặt ngăm đen, ánh mắt hơi lờ đờ, cơ ngồ ngà ngà say, nhìn mấy thiếu nữ một lúc, tỏ vẻ kinh ngạc: “Các ngươi tên gì? Sao trước đây ta không gặp?”

“Thưa đại gia, nô gia tên Oanh nhi, đây là Yến nhi, Tiểu Thúy và Tiểu Hồng.” Đường Mật đáp.

Nam tử thấy Tiểu Thúy và Tiểu Hồng đều cúi đầu xấu hổ, bất giác động lòng: “Các ngươi theo ta.”

Cả toán được đưa đến một ngôi thủy tạ bày sẵn rượu nóng và thức ăn, nam tử đó ngồi lên ghế chỉ vào Hoàn Lan và Mộ Dung Phỉ: “Tiểu Thúy cùng Tiểu Hồng đến bồi rượu.” Lại chỉ vào Đường Mật và Bạch Chỉ Vi: “Hai ngươi đánh đàn múa hát cho ta xem.”

Đường Mật biết Hoàn Lan và Mộ Dung Phỉ mới vỡ giọng nhưng không thể giả thành giọng thiếu nữ được, liền bảo: “Đại gia, hai người này đều câm, nhưng múa rất đẹp, chi bằng để nô gia và Yến nhi bồi rượu đại gia, còn họ múa cho đại gia giải sầu.”

Hoàn Lan và Mộ Dung Phỉ thấy Đường Mật và Bạch Chỉ Vi sắp bị ôm ấp thì cuống lên, không ngờ nam tử đó phất tay: “Cô nương này láu táu quá, đàn cho đại gia nghe, không được lên tiếng nữa, Yến nhi vào hát, Tiểu Thúy Tiểu Hồng hầu rượu.”

Đường Mật vận kình chuẩn bị xuất thủ, nhưng thấy tòa thủy tạ trống trải, binh sĩ ngoài xa đều nhìn vào được, nên cả nhóm nhìn nhau, ngoan ngoãn tuân lời.

Đường Mật vốn không biết đánh đàn, cũng may trong năm đầu tiên ở Ngự Kiếm đường có học môn này, thành thử nó cũng biết đôi chút thô thiển, gắng gượng cũng đánh được một hai khúc. Bạch Chỉ Vi lại là cao thủ ngũ âm bất toàn, mở miệng tất nhiên sẽ lộ, Đường Mật nghĩ vậy liền vắt óc tìm đối sách.

Nam tử thấy Đường Mật khẽ so dây đàn, đàn một khúc cực kỳ bình thường Quan thư, thân là võ nhân như y tất nhiên rất quen, sau khúc dạo thì người hát sẽ ngân lên: “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu, yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu.” Bèn giơ tay, nhìn Yến nhi đứng yêu kiều giữa thủy tạ, chuẩn bị khi cô hát lên là gõ phách hòa cùng.

Không ngờ cánh tay giơ lên rồi không hạ xuống được, Đường Mật đàn xong khúc dạo liền chuyển sang khúc khác. Y định hỏi thì Tiểu Hồng đã đưa chén rượu tới môi, y nhìn nụ cười của ‘Tiểu Hồng’, liền uống cạn, quay đầu định gõ phách thì tiếng đàn của Đường Mật lại chuyển sang khúc dạo thứ ba. Y giật mình, định hỏi tại sao, Hoàn Lan xuất thủ điểm vào thụy huyệt của y, Mộ Dung Phỉ cũng nhảy bổ vào theo tư thế ngả vào ngực, hất y ngã xuống.

Cả toán thở phào nhưng không dám bật cười, đợi thêm một chốc mới đứng dậy, lúc đi qua nhóm binh sĩ, Đường Mật còn cố tỏ ra quan tâm: “Vị đại gia đó say rồi, các vị nên đưa vào phòng, ngoài trời gió lạnh.”

Đến khi năm người thay đồ dạ hành xong, ra khỏi phủ đệ, lướt nhanh trên nóc nhà nhấp nhô, mới buông tiếng cười vang. Di hại duy nhất là từ đó, Bạch Chỉ Vi và Đường Mật thích gọi Trương Úy, Hoàn Lan, Mộ Dung Phỉ là Như Hoa, Tiểu Thúy cùng Tiểu Hồng.

Theo Ngụy vương Hoàn Thương, lúc trẻ y làm sứ thần ở Triệu vương cung, nhàn rỗi vô liêu nên vô tình lọt vào lầu gác chứa sách của Hoa Tuyền, giờ chỉ nhớ được là trong ngôi điện vắng vẻ trên núi.

Năm đứa căn cứ vào manh mối duy nhất đó, cố gắng tìm mọi nơi vắng vẻ, mới nhận ra rất nhiều điện đường trống trơn, lâu năm chưa được tu sửa, sơn bong loang lổ, cỏ dại mọc đầy, mạng nhện giăng tứ phía, đâu còn khí phái hoa lệ đường hoàng như xưa.

Đường Mật càng đi càng nghi hoặc, hình như cảnh tượng này từng thấy ở đâu, chỉ là trong ký ức không đến nỗi hoang tàn thế này. Nó hồi tưởng lại, chợt sáng bừng lên trong lòng, là cung điện từng thấy trong ảo ảnh.

Cung điện này cũng như mê cung.

Trương Úy cũng nhận ra cảnh tượng rất quen, Bạch Chỉ Vi khẽ nói: “Ai thấy địa phương quỷ quái này chưa? Vốn là mê cung mà.”

Trương Úy lập tức nhớ ra trong ảo ảnh của Đường Mật, gã từng thấy một nơi như thế này, cũng đình đài lầu các tương tự.

Gã đến bên Đường Mật khẽ nói: “Đường Mật, lần trước tại Đào hoa chướng, ngươi sa vào một nơi giống hệt thế này.”

Đường Mật thoáng nghĩ rồi hỏi: “Sao ngươi biết, chẳng phải Cố tông chủ vào ư?”

“Ta cũng vào nhưng không đưa ngươi ra được.” Trương Úy ngượng ngùng: “Lúc đó ngươi khóc ghê lắm, nói là xin tha thứ gì đó…”

Đường Mật kêu “A” một tiếng, những người khác đều quay nhìn. Nó vội xua tay: “Không, không sao, ta thấy một con mèo luồn qua.”

Đoạn Trương Úy thấy nó buông ra một câu không đầu không đuôi: “Đầu to, đa tạ ngươi.”

Gã nghi hoặc ngoái lại nhìn nó, gương mặt bình thường vẫn cười ranh mãnh giờ đượm nụ cười dịu dàng. Nụ cười đó như làn sóng khẽ gợn lên trong mặt ao yên tĩnh, không hiểu sao khiến lòng gã cảm động, nhớ lại những lời nói với nó trong ảo ảnh, nói khẽ: “Ta nói thật mà.”

“Ta hiểu, đa tạ ngươi.”

Tối đó, cả nhóm không nhớ đã tìm qua bao nhiêu gian phòng, sau cùng ở một gian lầu không người, tìm thấy thứ cần tìm.

Gian tiểu lâu hai tầng đó không lớn, qua lớp bụi bày cũng mạng nhện cằng chịt thì thấy tựa hồ lâu lắm không ai ghé qua, cầu thang dẫn lên tầng hai xiêu vẹo chực sụp đổ, đặt chân lên phát ra tiếng kẽo kẹt. Thấy một nơi tàn tạ thế nào trong vương cung khiến các thiếu niên từng được chứng kiến khí phái ở Ngụy quốc vương cung cảm thán không ngớt.

Đến tầng hai, mỗi người phát ra một dải ảo hỏa trên đầu ngón tay, cả gian phòng lấp lánh màu sắc. Trước mặt họ là thư các cùng vô số sách và thư từ chất đống dưới đất, tuy chưa từng đọc nhưng đều cảm giác được là di vật của Hoa Tuyền.

Khác với văn thư kiểu tấu chương, đây đều là thư do chính Hoa Tuyền viết. Cả nhóm liếc qua, thảo luận vài câu, không thể biết được năm xưa khi Triệu vương cung bị cướp, ai đã cứu số sách vở chuyển đến nơi này. Tất nhiên người đó rất vội vàng, mọi thứ đều xếp chất đống, nhiều cuốn vẫn vương dấu bị thiêu, may mà chất giấy và lụa đều chế tác cẩn thận, trừ phần bị thiêu ra, tuy qua trăm năm mà vẫn còn tốt.

Lúc đầu năm đứa chỉ lật qua qua, muốn nhanh chóng tìm ra manh mối hữu dụng nhưng dần dần, qua những di vật cổ xưa, các thiếu niên hình dung ra được đôi nét về nữ vương hắc ám trong truyền thuyết, bất giác dần nhập mê.

Thư tín đa phần người khác viết cho Hoa Tuyền nên không rõ nàng ta viết gì cho họ, nhưng căn cứ vào nội dung thư tín cũng đoán được phần nào Hoa Tuyền viết những gì. Vì vậy sự kiện này ngày càng thú vị, cả nhóm vừa đọc vừa đoán xem năm xưa xảy ra chuyện gì, như thể giải câu đố, dần dần lật ra từng mảng quá khứ được giấu kín.

Cả nhóm chú ý đến quan chức ghi trên lạc khoản thư tín ở những năm đầu, phần lớn là quan viên tướng lĩnh chức vị thấp, ngôn từ họ viết tương đối kịch liệt, đả phá chế độ thừa tập quan tước và thuế khóa bất hợp lý. Xem ra lời lẽ của họ được Hoa Tuyền cổ vũ nên thư từ viết về sao không hề có ý thu liễm.

“Truyền thống của Đại Chu được bốn nước thừa tập, chỉ khi không còn nam tử kế thừa thuộc vương gia trực hệ thì mới đến lượt nữ tử kế thừa vương vị. Nhưng thực tế mỗi lần xảy ra chuyện này, cục diện đều phức tạp. Hoa Tuyền lên ngôi năm mười sáu tuổi, kết quả của triều thần đấu tranh với nhau, còn nàng ta khi đủ lông đủ cánh cũng muốn thoát khỏi cái ách của quyền thần, tất phải tập hợp những thần tử trẻ tuổi làm lực lượng cho mình.” Mộ Dung Phỉ bình luận.

Quả nhiên, cùng với thời gian, quan chức được ghi vào tăng dần, đi cùng là những sự kiện lịch sử thường được hậu nhân nhắc tới như phong đất, hạn chế thế tập, thay đổi thuế.

“Thật ra chế độ thuế và thế tập không quá ba đời hiện nay ở bốn nước là mô phỏng theo thời Hoa Tuyền, nhưng ngươi cũng thấy bây giờ mọi thứ loạn hết lên.” Hoàn Lan cầm một phong thư đưa cho mấy đồng bạn.

Những bức thư này hiển nhiên là do Hoa Tuyền tự viết, trực tiếp điểm lại ngôn từ và hành vi của những người phản đối chế định mới. Lúc đó Hoa Tuyền có lẽ đã nắm vững quyền hành, hơn mười người bị nàng ta điểm danh đều đã bị “đuổi đi” hoặc ‘diệt tộc.’

Đường Mật thấy hai chữ ‘diệt tộc’, mí mắt giật giật: “Đấy là dấu hiệu của máu chảy thành sông.”

“Nhưng cũng mười năm sau, nước Triệu trở thành quốc gia mạnh nhất.” Bạch Chỉ Vi nói. Trời sáng dần, chúng nhân nhận ra mới đọc được một phần nhỏ, đành tạm rời đi, đợi trời tối lại đến tiếp.

Hôm sau, cả nhóm đọc lá thư của một tướng lĩnh cấp thấp tên Bùi Khánh Chi. Khi Hoa Tuyền mới lên ngôi, y đề xuất ý kiến thanh toán cả ba nước, thành lập một đế quốc thống nhất như Đại Chu. Trong những bức thư sau, kế hoạch này dần hoàn thiện, sau cùng, qua mười mấy năm, Hoa Tuyền theo kế hoạch này mà phát động chiến tranh khuếch trương lãnh thổ.

Năm đứa đều được học binh pháp, không khỏi chắc lưỡi với kế hoạch của Bùi Khánh Chi, phảng phất nhìn thấy tướng lĩnh trẻ tuổi đứng trước nữ vương mà y thề chết trung thành, lời lẽ khảng khái miêu tả kế hoạch giành lấy thiên hạ. Hùng tâm tráng chí đưa tay ra là chạm vào ấy khiến các thiếu niên sôi trào.

“Xem cái này đi.” Đường Mật đưa một bức thư lên: “Y thỉnh cầu đồ thành.”

Trong bức thư, Bùi Khánh Chi xin được đồ thành, nguyên nhân là tấn công thành Trì của người tộc Việt ở phía tây nam mà chưa hạ được, để phủ an binh sĩ, y thỉnh cầu Hoa Tuyền đồng ý phá thành rồi sẽ đồ thành. Sau hai bức thư như thế, đến bức thứ ba, y tuân theo lệnh của Hoa Tuyền “dạy dỗ những kẻ thức thời, giết sạch những kẻ cứng đầu.”

Đường Mật thở dài: “Quả nhiên, bắt đầu đi về phía bóng tối.”

Mộ Dung Phỉ nhíu mày, tựa hồ nghĩ ra một việc: “Hình như ta đọc được ở đâu đó ma tướng Thi vương tên thật là Bùi gì gì đó, có phải y không?”

“Mặc kệ là ai, y thiên về bạo lực như thế thì sa vào ma đạo là báo ứng.” Trương Úy phẫn hận, vỗ mạnh lên bức thư, bụi bay mù mịt.

Đường Mật dự liệu không sai, khi quyền lực của Hoa Tuyền dần ổn định, máu tươi đọng trong đó cũng nhiều lên. Dù những thư từ đó đều do thần tử trung thành nhất viết ra, lời lẽ đầy ngợi ca thì các thiếu niên vẫn như nhìn thấy hình ảnh phản chiếu dưới nước nữ tử ở đầu kia ảo ảnh đã rũ bỏ mọi lo sợ, ngượng ngùng, bất an khi mới lên ngôi, dần biến thành vương giả mạnh mẽ quả quyết, đồng thời ngày càng tàn khốc. Sau đó, Bạch Chỉ Vi tìm được một vài bức thư thú vị khuyên Hoa Tuyền mau chóng lấy chồng, lúc đó các thiếu niên mới nhớ ra cả đời nàng ta không lấy ai, quả thật cuộc đời lắm nỗi éo le.

Trong mộc góc, Đường Mật tìm được một chồng thư, lạc khoản đề chữ “Lẫm”, chữ người đó viết cũng lả lướt nhưng toát lên vẻ tiêu sái, nội dung bàn về đủ thứ, từ võ công, pháp thuật đến phật học, thậm chí ăn uống và phong cảnh.

“Đây là thư của Đọa Thiên đại nhân.” Đường Mật nói. Những người khác đều cho rằng đó là thư trả lời Thanh Nguyên tự, vội đến xem, hóa ra nội dung ghi lại ngày tháng sau khi xảy ra việc ở Thanh Nguyên tự, nên ai cũng thất vọng, nhưng đọc kỹ mới thấy còn nhắc nhiều đến võ học và pháp thuật, khiến ai nấy như được đề hồ quán đỉnh. Vừa đọc vừa cảm nhận, vô tình đến trời sáng, cả nhóm đành tiếp tục rời khỏi.

Ngày thứ ba, năm người tiếp tục đọc chồng thư, phát hiện ra ý kiến của một người tên Anh mà họ nhiều lần thảo luận. Bạch Chỉ Vi dựa vào ngày tháng trong thư đoán rằng: “Thư này do Hoa Anh khi mười tám tuổi đến nước Sở viết cho Đọa Thiên đại nhân.” Nội dung thư cho thấy có lúc kiến giải của Hoa Anh khá độc đáo, nàng ta cũng là người cực kỳ thông minh nhưng thân thể yếu đuối khiến người ta lo lắng.

Mấy thiếu niên không khỏi hiếu kỳ với mỗi quan hệ tay ba này, có điều những bức thư còn nguyên không hề để lộ nhi nữ tư tình. Cả nhóm tìm kỹ một lượt, sau cùng tìm thấy trong góc một mảnh thư bị đốt cháy gần hết, chữ viết lả lướt gọn gàng, cực kỳ giống bút pháp của Đọa Thiên đại nhân: “Đêm rằm, ánh trăng vằng vặc, đứng một mình giữa đêm vắng, nhớ lại ngày xưa, lòng buồn bã, nước mắt vô tình rơi xuống.”

Cả toán đọc đi đọc lại bức thư cháy dở không đầu không đuôi, im lặng hồi lâu, chợt cuồng phong dấy lên ngoài cửa sổ, thổi tan song cửa già nua, gió đêm mùa đông ở Giang Nam lạnh lẽo, cuốn tờ giấy trên tay Đường Mật vào bóng tối.

Đường Mật nhìn mớ mảnh vụn tan biến vào trời đêm, đột nhiên cảm thấy bi thương, thì thầm: “Từ rày trở đi, không còn ai biết việc này nữa.”

Kỳ thật, còn tìm được một ít thư trao đổi giữa Hoa Tuyền và Vương Lẫm, chỉ là lạc khoản đề rất rõ ràng hai chữ Vương Lẫm, nội dung cũng chính thức hơn, tỷ như khuyên Hoa Tuyền đừng động võ với ba nước, ngôn từ càng về sau càng nghiêm túc, thậm chí kịch liệt, không còn bóng dáng thoải mái như lúc còn trẻ nữa.

Nếu không có bức thư cháy dở, mấy thiếu niên đọc được bức thư thế này e rằng cũng không thấy có gì lạ. Hiện giờ hoải tưởng lại hai nhân vật từng có một đoạn quá vãng với nhau, tuy năm thiếu niên chưa từng trải nghiệm những thương tang biến thiên của cõi đời nhưng lòng cũng cảm thán, buồn bã vô cùng.

“Kỳ quái, vì sao không thấy thư giữa Hoa Tuyền và Hoa Anh?” Bạch Chỉ Vi đột nhiên nghĩ ra: “Dù trước đó hai người sống cùng nhau, sau đó Hoa Anh xuất giá thì cũng phải có thư trao đổi mới đúng.”

Mấy đứa cũng thấy rằng quả thật không có nửa chữ nào trao đổi giữa hai chị em, nên cùng tìm kỹ nhưng không thấy gì.

Mộ Dung Phỉ chú ý thấy có một tờ thư cách mặt đất chừng nửa thước mà không rơi xuống, chỗ đó y đã tìm, không hề đặt thứ gì, liền cho rằng thư bị gió cuốn lên mắc vào mạng nhện, bèn đến nơi cầm lên xem, té ra không hề có mạng nhện. Y lấy làm kỳ quái, thò tay vào góc tường trống trơn, đột nhiên sờ thấy một vật cứng.

“Các vị xem là gì này?” Y gọi.

Bốn người còn lại đến xem, đưa tay sờ vào đều xác định chỗ thoạt trông không có gì đó lại có một cái hộp vuông cao chừng nửa thước.

Hoàn Lan nói: “E rằng đây là yêu quái ẩn tàng bí mật trong truyền thuyết.”

Chúng nhân lần đầu tiên nghe thấy điều này, cùng hiếu kỳ nhìn y. Hoàn Lan giải thích: “Ta cũng chỉ nghe các lão nhân trong cung kể. Yếu quái loại này hiếm có lắm, hình dạng như cái hộp, trừ chủ nhân ra thì không ai nhìn thấy. Chủ nhân đặt thứ muốn giấu vào trong, nếu không có mật ngữ của chủ nhân đặt ra thì cái hộp sẽ không mờ, tựa hồ Ngụy vương xưa kia từng có yêu quái kiểu này.”

“Nếu thật thế thì phiền rồi, ai đoán được mật ngữ là gì, có thể là một câu tùy ý kiểu ngươi ăn gì.” Đường Mật nói.

Mấy thiếu niên khác đều khó nghĩ, hiện giờ vẫn chưa tìm thấy mục tiêu thật sự của chuyến đột nhập vào Triệu vương cung, ví như manh mối vì sao hồn thú của Hoa Tuyền không tan biến, giờ thấy cái hộp ẩn hình này, mỗi người đều hiểu rằng nếu còn phát hiện được gì thì tất nằm trong đó.

Đường Mật vừa suy nghĩ vừa cúi đầu đi đi lại lại trong phòng, đặt chân lên nền nhà dày bụi, thỉnh thoảng lại tung lên một lớp bụi mờ, phát ra tiếng loạt xoạt cực kỳ nhẹ. Nó đột nhiên đứng lại, nhìn sững xuống dấu chân xám xịt, lẩm bẩm: “Có khi chúng ta suy nghĩ sai rồi.”

“Ngươi nói gì?” Bạch Chỉ Vi hỏi.

“Ta cho rằng chúng ta vẫn nghĩ có ai đó cứu mớ thư tín này từ trong chiến hỏa vào chất ở đây. Nhưng sự thật có thể là trước khi xảy ra chiến đấu đã có người chất những thứ này vào đây. Nên người đó mới có thời gian thiêu hủy những thứ cho rằng nên hủy, vì thế mà tro tàn của thư tín mới xuất hiện tại đây.” Đường Mật đáp, đoạn quay sang khẳng định với mất đồng bạn: “Nếu ta đoán không sai, có khả năng người đó là chính Hoa Tuyền..”

Chúng nhân không đáp, lặng lẽ đợi nó tiếp tục phân tích. “Hoa Tuyền là thống soái tối cao của chiến tranh, chắc phải dự liệu được vận mệnh tất bại của mình, nên có đủ thời gian chuẩn bị cho khi thất bại. Hiện tại ta vẫn không giải thích được vì sao những bức thư này không bị hủy, có thể nàng ta cố ý lưu lại cho hậu nhân, hoặc còn nguyên nhân nào khác nữa. Nhưng nhất định nàng ta đã hủy đi những bức thư trọng yếu, cũng vì nguyên nhân nào đó mà không muốn cho người ta biết nội dung những bức thư này. Do đó nội dung mà chúng ta muốn tìm, vĩnh viễn không tìm được nữa.”

Nó bước nhanh đến góc tường, đặt tay lên cái hộp: “Nếu Hoa Tuyền có đủ thời gian thiếu hủy thư tín thì bức thư cháy dở không phải nàng ta quên không hủy mà không nỡ hủy, giật lại từ ngọn lửa.” Nó thở dài, thử đọc: “Đêm rằm, ánh trăng vằng vặc, đứng một mình giữa đêm vắng, nhớ lại ngày xưa, lòng buồn bã, nước mắt vô tình rơi xuống.”

Đường Mật chưa dứt lời, trong bóng tối, dưới ánh ảo hỏa lập lòe, góc thoạt nhìn trống trơn đó đột nhiên xuất hiện mấy phong thư. Nó cầm lêm thấy ở góc có hình mẫu đơn được sáu viên minh châu vây quanh, lòng máy động, nhớ lại hình trên cái lược tinh thiết: “Đây là tiêu ký riêng, chắc là thư của họ.”

Cả nhóm mở thư ra đọc kỳ, phát giác những bức thư này khác hẳn, thứ nhất là không ít bức do Hoa Tuyền viết từ lúc chưa lên ngôi, còn lại là sau khi đã ngồi lên ngai vàng. Thứ hai, trong đó cả thư Hoa Anh viết cho tỷ tỷ và Hoa Tuyền viết cho muội muội. Từ thời gian thì thư Hoa Tuyền viết cho Hoa Anh đều trước khi Hoa Anh lấy chồng ở nước Sở, đại khái khi Hoa Anh rời nước Triệu không mang theo, để lại cho Hoa Tuyền bảo quản.

Cả nhóm biết được rằng hóa ra khi Hoa Anh bằng tuổi họ, vì cầu y mà rời vương cung, nên trong thư có viết về những kiến văn ở ngoài cung đình, Hoa Anh gặp được một thiếu niên đặc biệt, tài học khiến nàng ta kính phục.

Sau đó, tại một bức thư, Hoa Tuyền nói với Hoa Anh rằng lúc du lịch Thục Sơn, nàng ta có gặp thiếu niên mà muội muội đề cập tới, vì lúc ấy thiếu niên tưởng nàng ta là Hoa Anh, còn nàng ta muốn hí lộng thiếu niên kiêu ngạo này nên không nói thật.

Những bức thư này còn đề cập đến một vài môn võ công và pháp thuật, Hoa Tuyền trẻ tuổi vẫn oán hận vì vướng nhiều tục sự, không thể chuyên tâm tu luyện. Hoa Anh liền viết rằng tuy thân thể mình không khỏe để tu luyện những môn đó nhưng vì tỷ tỷ mà đọc hết mọi loại sách, tìm lối tắt để tập luyện nhanh hơn. Trong thư, hai người thường bàn luận vấn đề này, nhiều lúc khác hẳn với phương pháp của Thục Sơn. Chúng nhân đọc được mà kinh hãi, biết rằng vô tình đã chạm đến tinh túy võ công và pháp thuật của Ma cung. Thư của Hoa Anh nhiều lần nhắc đến lục đạo toàn thư, đọc xong thì Hoa Anh còn viết một bản thông yếu để đọc và lý giải nhanh hơn. Đường Mật và Bạch Chỉ Vi nhìn nhau, cùng nghĩ đến Lục đạo toàn thư thông yếu ở phòng mình.

Trương Úy tỏ vẻ không hiểu: “Vì sao họ cũng như Đọa Thiên đại nhân đều thích bàn luận về luân hồi chuyển thế nhỉ?”

Đích xác, bất luận là thư giữa Hoa Tuyền và Hoa Anh hay Vương Lẫm, thì cách nhìn sau cùng của Vương Lẫm về vấn đề này là: Đã không xác định được việc gì có tồn tại hay không thì thà ta cứ tin là nó tồn tại. Còn quan điểm của Hoa Tuyền là: Vì không xác định được nó có tồn tại không thì ta chọn cách tin là nó không tồn tại.

Trương Úy hỏi Mộ Dung Phỉ về vấn đề đó vì nước Tề của y được coi là phật quốc, cũng là quốc gia thế lực phật gia tối cường thịnh trong bốn nước. Nhưng Mộ Dung Phỉ còn trẻ, chưa từng thật tâm học phật pháp, cũng không nghĩ thông được nên đáp: “Ta cũng không hiểu. Bất quá, danh hiệu Ma vương liên quan đến việc nàng ta phong bế mọi tự miếu ở nước Triệu. Có thể nàng ta là người thích đối chọi với tín ngưỡng của đại đa số người khác.”

Đường Mật giải thích: “Kỳ thật, đó không chỉ là vấn đề liên quan đến luân hồi mà là thế giới quan.” Nó chợt nhớ ra mình dùng từ các đồng bạn không hiểu, quả thật khó giải thích rõ ràng, liền bảo: “Nếu một người tin rằng sinh mệnh mãi mãi không ngừng tuần hoàn, còn người khác tin rằng sinh mệnh là khoảnh khắc xán lạn trong sát na rồi vĩnh viễn tan biến thì phương thức, thái độ và hành vi xử sự với nhân sinh của họ cũng khác nhau, hiểu không?” Các thiếu niên gật đầu nửa hiểu nửa không, trong một đêm họ tiếp xúc với quá nhiều thứ, dù thông minh cũng không thể lập tức thông triệt. Đường Mật tự hỏi, chẳng lẽ mình đã nghĩ thông mọi sự?

Pháp thuật mà Hoa Tuyền và Hoa Anh thảo luận qua thư sau đó ngày càng hắc ám, vấn đề tập trung sau cùng là cách kéo dài sức mạnh mãi mãi. Đọc đến đây các thiếu niên đều biết đã tìm được thứ cần tìm.

Những bức thư này là sau khi Hoa Tuyền lên ngôi mười năm, toàn là thư Hoa Anh hồi đáp, qua đó, các thiếu niên thấy được phương diện lo lắng của nữ vương ngự trị vương quốc mạnh nhất cõi đời. Thân thể Hoa Tuyền tựa hồ ngày càng suy nhược, xuất hiện chứng bệnh như muội muội song sinh, nhưng nàng ta vẫn chưa thấy ai có được tư chất đủ để kế thừa, lo rằng sau khi mình chết, vương triều sẽ tan rã, biết rằng chưa phải thời cơ tốt nhất để thống nhất thiên hạ nhưng vẫn quyết định hành động.

Còn Hoa Anh lo lắng tìm biện pháp duy trì sức mạnh vĩnh hằng cho Hoa Tuyền, dần dần đề cập đến khía cạnh đen tối của pháp thuật, lần đầu tiên các thiếu niên đọc được những từ “chế tạo Thích quỷ”, hiển nhiên hai tỷ muội đã dùng đủ phương pháp để đạt được bất diệt.

Trong bức thư sau cùng, các thiếu niên lần đầu tiên nhìn thấy pháp thuật liên quan đến “ma huyết”, Hoa Anh nói: “Vạn bất đắc dĩ, duy cách này hữu dụng.”

“Hóa ra nguồn gốc ma huyết là đây. Hủy thân thể mình để huyết dịch thấm vào vạn người rồi qua họ đời đời truyền thừa, chỉ cần người mang ma huyết còn tồn tại, sức mạnh sẽ theo một cách nào đó được duy trì.” Đường Mật suy đoán.

Những thiếu niên khác tuy thấy thư tín không nói rõ, bất quá đại khái giống như vậy. Trương Úy có phần không hiểu, ngẫm nghĩ một lúc mới lên tiếng hỏi: “Hiện giờ thì hình như mỗi người đều có thể mang trong mình ma huyết. Có nghĩa trên mình ngươi có thể có, ta cũng thế, kỳ thật trên mình ai thì có gì khác nhau? Hai tỷ muội thông minh đến thế, sao lại trở nên hồ đồ vào lúc quan trọng nhỉ?”

Lần đầu tiên Đường Mật cảm thấy đồng chí đầu to không hề ngốc, lại nhìn thấu sự tình theo cách đó. Những người khác đều tỏ vẻ kinh ngạc, Bạch Chỉ Vi cười: “Vậy đầu to, nếu ngươi biết mình kế thừa ma huyết thì định làm gì?”

“Ta không vì thế mà sát nhân phóng hỏa.” Trương Úy thản nhiên đáp.

“Còn ngươi?” Đường Mật hỏi Bạch Chỉ Vi.

“Tất nhiên là mặc kệ, thứ hoặc có hoặc không này thì mặc kệ nó.” Bạch Chỉ Vi đáp.

Các thiếu niên cùng cười, tuy tiếng cười thật nhỏ nhưng Đường Mật vẫn cảm nhận được tiếng được đó xua tan hết bóng tối đang vây quanh.

Trước khi lê minh đến, cả toán đọc xong bức thư cuối cùng của Hoa Anh. Trong thư, Hoa Anh cho Hoa Tuyền biết mình phát hiện một tảng vẫn thạch lớn ở nước Sở, tựa hồ có tác dụng ổn định pháp thuật, nhưng không hiểu có ổn định được ma thuật không, định đưa về địa cung thử nghiệm, nếu phát hiện tác dụng khác thì sẽ đưa đến cho Hoa Tuyền.

“Hóa ra ảo ảnh bảo vệ Ma cung bất diệt liên quan đến vẫn thạch này.” Mộ Dung Phỉ nói.

Bạch Chỉ Vi nhìn ngày tháng trong thứ, phát giác không xa ngày Triệu vương cung trứ danh bị phá, bất giác cảm thán: “Tiếc là Hoa Tuyền sau rốt không đợi được.”

Xem xong thư, cả nhóm thương nghị với nhau, cho rằng nội dung ghi chép trong thư quá tối tăm, để lại cho hậu nhân cũng không ích gì, nếu kẻ tâm thuật bất chính đọc được thì thậm chí còn tạo thành tai họa, trước khi đi liền châm lửa đốt sạch tòa tiểu lâu.

Về đến khách sạn, chúng nhân ngủ vùi, Đường Mật đang say giấc nồng chợt nghe tiếng gõ cửa, mở ra thì thấy Hoa nhị nương ủ rũ đứng đó.

Hoa nhị nương lách vào hỏi: “Đường cô nương, việc này thì nô gia không xử lý được, mau cho nô gia biết ai là Tiểu Hồng cô nương?”

Đường Mật ngủ đến mụ mị đầu óc, ngẩn ra hồi lâu không hiểu chuyện gì, mai đến khi Hoa nhị nương liến láu nói xong, mới hiểu hóa ra nam tử hôm đó bị bọn nó đánh ngã tên Tôn Thành, y lại xiêu lòng với Tiểu Hồng cô nương do Mộ Dung Phỉ đóng giả, mấy lần đến Bảo Hương lâu tìm người. Hoa nhị nương lúc đầu còn dùng lời lẽ ứng phó được nhưng không ngờ Tôn Thành mặt dày, ngày nào cũng đến đòi người, Hoa nhị nương bó tay đành tìm Đường Mật xin trợ giúp.

Đường Mật bật cười hỏi: “Tôn Thành là quan lớn nào?”

Hoa nhị nương đáp: “Quan thì không lớn lắm, chỉ là Kinh kỳ úy phụ trách hộ vệ kinh thành, nhưng dù sao ở kinh thành, ai cũng phải nể y ba phần.”

Đường Mật vẫn thầm tính toán kế sách, nghe vậy thì động lòng: “Hoa nhị nương yên tâm, việc này để tiểu nữ xử lý. Nhị nương cứ nói bọn muội là vũ cơ ghé qua, gây sự với nhị nương rồi tức giận bỏ đi, nhưng bọn muội nợ tiền, nhị nương đã phái người đi tìm, có tin tức sẽ báo cho Tôn Thành.”

Hoa nhị nương đi rồi, Đường Mật gọi đồng bạn đến, hào hứng bảo: “Ta kỳ thật nghĩ ra một kế, hiện tại cứ điều tra thế này thật thái quá bị động, chúng ta nên chủ động xuất kích, giờ đọc thư của Ma vương xong, ta càng nắm chắc.”

Nó nhìn chúng nhân, hỏi: “Các ngươi nhớ không? Thần tử trung thành với Ma vương từng liên tục yêu cầu Ma vương xây lăng tẩm, bảo đảm chết rồi thì sẽ linh hồn bất diệt, chuyển thế đầu sinh. Người Ma cung thấy ta cầm Vị Sương thì cũng cho rằng ta là Ma vương chuyển thế, đủ thấy những kẻ đi theo Ma vương vẫn hi vọng nàng ta luân hồi chuyển thế.”

“Ừ, xem ra thật nực cười, những kẻ ủng hộ người không tin tưởng vào luân hồi chuyển thế, lại hy vọng chủ nhân chuyển thế.” Mộ Dung Phỉ gật đầu.

“Đã vậy, chúng ta cũng cho rằng người Ma cung liên quan đến cái chết của Mục điện giám, chi bằng ta cứ tự xưng là Ma vương chuyển thế, lọt vào nội bộ của chúng. Thứ nhất nếu Thục Sơn thật sự có gian tế của chúng thì đó là phương pháp tìm ra nhanh nhất, thứ hai là nếu chúng không liên quan đến việc này thì với sức chúng ta khó đối phó được kẻ chủ mưu, cứ dùng sức mạnh của Ma cung chế trụ địch nhân là hơn. Nên biết, vạn nhất người chúng ta dự đoán giữ vị trí cao ở Thục Sơn còn chúng ta không có bằng cớ thì với mấy chúng ta không thể xử trí được hắn, vậy thì nên tá đao sát nhân.” Nó bảo Bạch Chỉ Vi: “Ta định kéo cả Sử Thụy vào, đến thời điểm thì ta sẽ nói hai chúng ta là người Ma cung, muốn y gia nhập, xem y phản ứng thế nào, chí ít cũng biết y có thật sự thích ngươi không?”

Bốn thiếu niên đều tỏ vẻ ngạc nhiên nhìn nó mà không nói gì, trừ bị kế sách táo bạo này chấn kinh thì tà khí ẩn tàng sau mưu kế cùng cách tính toán với người và việc đó khiến họ tuy không nói ra được không chính đạo ở điểm nào nhưng đều nhận ra tâm tư Đường Mật thâm trầm hơn mình nhiều, nhìn nó mà chợt thấy lạ lẫm.

Đường Mật lại cho rằng họ đều giật mình với kế hoạch của nó, tiếp tục giải thích: “Nghe ta này, ta suy nghĩ kế sách này lâu lắm rồi, không hề nguy hiểm. Thứ nhất, từ việc người Ma cung bắt ta năm xưa thì quả thật chúng đang tìm Ma vương chuyển thế, hiển nhiên vẫn chưa tìm được, ta là đối tượng chúng hoài nghi nhất, ta nói một tiếng thì dễ khiến chúng tin ta là Ma vương chuyển thế nhất. Thứ hai, ta tất nhiên không chạy đến gõ cửa bảo: Ta là Ma vương chuyển thế, các ngươi giúp ta đi. Ta sẽ nghĩ cách khiến chúng tự đến nhận định ta là Ma vương, dù sau này phát hiện không phải cũng không thể trách ta, đúng không? Thứ ba, ta giả trang thành Ma vương chuyển thế, sẽ dễ dàng tìm được nhược điểm của Ma cung, không chỉ chúng không thương tổn được ta mà chưa biết chừng ta sẽ diệt trừ chúng. Thứ tư, hiện tại ta hiểu về Ma vương còn hơn người Ma cung, không cần lo lắng bị lộ. Thứ năm, có lẽ người Ma cung hi vọng Ma vương chuyển thế có được sức mạnh kinh nhân, ta chưa có nhưng khả dĩ mượn cớ rằng sức mạnh đó chưa thức tỉnh, nên có cơ hội học lén võ công của Ma cung, đến lúc trở dáo càng dễ dàng.”

Chúng nhân không tán đồng với giải thích của nó, Trương Úy phản đối đầu tiên: “Ta không đồng ý. Ngươi toàn chiếu theo lẽ thường đoán định về người Ma cung còn hành vi của họ không thể suy đoán theo cách đó, nên ta cho rằng ngươi sẽ gặp nguy hiểm. Hơn nữa, ngươi làm vậy, Bạch Chỉ Vi bị lợi dụng đã đành, không bằng không cớ lại lôi cả Sử Thụy vào, ta hỏi ngươi, nếu Sử Thụy trong sạch mà ngươi lợi dụng tâm ý của y với Bạch Chỉ Vi, kéo y vào ma đạo thì làm cách nào mà nhìn mặt y nữa?”

“Vấn đề là y vốn không trong sạch được.” Đường Mật có phần bị kích nộ.

Việc này ủ trong lòng Trương Úy đã lâu, cơn giận bốc lên liền không nhịn được nữa, nhướng mày hỏi ngược: “Ngươi dựa vào đâu bảo y không trong sạch, Đường Mật, bình tĩnh lại tự hỏi mình xem, ngươi thấy Sử Thụy là người như thế chăng? Nhìn thấu một người là cần dùng đến cái đầu thông minh hả? Đừng quên lúc xưa nhận định Mục điện giám có vấn đề chính là cái đầu thông minh hơn tất cả bọn ta đấy.”

Nói xong, Trương Úy hối hận ngay, sao gã lại không biết đấy là nỗi đau Đường Mật vẫn ẩn giấu, vội gạt đi: “Ý ta là ta lo ngươi đi theo tà lộ…”

“Chát.” Một cái tát đích đáng giáng

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play