Sáng hôm sau, Hoàn Lan hẹn Thạch Thiên Minh đến chẩn mạch cho Đường Mật. Tuy ai cũng bảo y thuật của Thạch Thiên Minh và Mạc Thất Thương ngang nhau nhưng thanh danh họ Thạch hơn hẳn. Mạc Thất Thương cả năm ở Thục Sơn, trừ người bản phái thì hiếm khi trị bệnh cho người khác còn Thạch Thiên Minh cư trú ở đô thành phồn hoa nhất, kết giao với toàn bộ quyền quý hào môn, danh vọng tất nhiên cao hơn.

Thạch Thiên Minh chừng trên dưới bốn mươi, tướng mạo tuấn mỹ, ngôn ngữ ôn hòa, dưới cằm là chòm râu tỉa tót công phu, dáng vẻ khác hẳn với vị đại phu khám bệnh một lần thu trăm đồng như tưởng tượng của Đường Mật. Lão chẩn mạch xong, dùng một dùi đồng nhỏ gõ khắp các đốt xương của Đường Mật, gật đầu tựa hồ mãn ý với tình hình hồi phục của nó: “Phương thuốc của Mạc tiền bối, tại hạ đã xem, cứ thế dùng là được.” Lão chợt liếc Hoàn Lan, phát hiện y nhíu mày liền bảo: “Nhưng thân thể cô nương yếu ớt, cần phải bồi bổ, sau này mỗi ngày cần dùng băng đường tổ yến, cho thêm một phần bách niên xích chi vào thang thuốc của Mạc tiền bối thì càng tốt, cho y nữ đến châm cứu xoa bóp mỗi ngày thì không cần một tháng sẽ hoàn toàn khôi phục.”

Thạch Thiên Minh liếc nhìn Hoàn Lan, thấy vị tiểu phật này có vẻ đồng ý liền mỉm cười: “Vậy để y nữ lại châm cứu cho cô nương, tại hạ tạm thời cáo từ, sau này có việc gì cứ sai người đến là được.”

Thạch Thiên Minh đứng dậy định đi, Trương Úy và Bạch Chỉ Vi vừa hay đi vào. Thạch Thiên Minh nhìn thấy Trương Úy, thân hình nhấc chân lên chuẩn bị đi chợt cứng lại, dáng vẻ thất thái đó khiến Đường Mật vốn không quen biết gì lắm với lão cũng giật mình, ho khẽ: “Thạch đại phu, đây là bằng hữu của Mật, Trương Úy và Bạch Chỉ Vi. Đều là kiếm đồng Thục Sơn.”

Thạch Thiên Minh cười gượng: “Vậy hả, vị Trương thiếu hiệp này rất giống với một cố nhân của tại hạ, lúc còn trẻ tại hạ quen thân với người đó, vừa này thấy Trương thiếu hiệp, còn tưởng xuất hiện ảo giác rằng vị bằng hữu đó tới.”

Trương Úy thấy thú vị, hỏi: “Có việc đó hả, không hiểu vị bằng hữu của Thạch đại phu tên là gì? Hiện tại ở đâu?”

Thạch Thiên Minh hình như không muốn nói nhiều: “Người đó mất sớm, không nhắc đến thì hơn. Thạch mỗ cáo từ.” Đoạn vội vàng bước đi.

Trương Úy không để tâm, đến hỏi thăm thương thế của Đường Mật. Đường Mật cho rằng có ẩn tình khác, bèn ghi nhớ trong lòng, đợi lúc thích hợp sẽ hỏi rõ ràng.

Sau đó mỗi ngày Thạch Thiên Minh đều đến chỗ Đường Mật hỏi han. Nó hỏi dò về vị bằng hữu giống Trương Úy, Thạch Thiên Minh khéo léo ứng phó, tựa hồ không muốn nói nhiều, càng khiến nó cho rằng có ẩn tình gì đó. Vốn nó vẫn hoài nghi thân thế Trương Úy, bởi nhà bình thường thì lấy đâu ra bảo vật như Trầm Địch, càng không nói đến bảo vật khiến cha con nhà họ Quân nhắm tới, giờ với thái độ của Thạch Thiên Minh thì thân thế của đầu to nhất định không đơn giản.

Một người nữa nó muốn hỏi chuyện là Ngọc Diện.

Vì mặt Ngọc Diện vằn vện nên nó không đoán được tuổi của nàng ta, mỗi lần điều tức đều trò chuyện, nó hỏi đông hỏi tây mới biết tên thật nàng ta là Lâm Uyển, từ bé đã sống ở Thục Sơn, cùng thế hệ với Tiêu Vô Cực, Mục Hiển và Tư Đồ Minh, là một trong năm trưởng sứ của Khí tông.

“Lúc nhỏ điện giám của bọn muội là người thế nào?” Nó hiếu kỳ.

Ngọc Diện xếp bằng trên giường, ngoẹo đầu nghĩ ngợi. Mỗi lần như thế, Đường Mật lại cảm giác trên mình Ngọc Diện xuất hiện khí chất ngây thơ, thầm cho rằng nàng ta đặc biệt, chắc từ bé ở Thục Sơn nên ngần này tuổi vẫn còn tính trẻ con, chỉ cần gọi nàng ta là tỷ tỷ hoặc khen xinh đẹp là nàng ta cười ha hả. Nhưng có lúc không hiểu chạm vào góc nào mà tâm tình Ngọc Diện đột ngột biến đổi thành nóng nảy.

“Mục Hiển từ bé đã nghĩ nhiều, đọc nhiều nhưng không thích nói năng gì. Tâm địa cũng tốt, ngay cả yêu vật yếu ớt cũng không nỡ thương tổn đến.” Ngọc Diện đột nhiên nhớ ra: “Đúng rồi, ta còn nhớ có lần y cứu một con Cùng Kỳ non thụ thương, lúc đó ai cũng bảo là yêu vật tà ác nhất trên đời, nhân lúc nó còn bé lại thụ thương thì mau giết đi, nhưng y không nhẫn tâm, sau đó lén ôm đi đâu đấy, ta đoán rằng y nuôi nó.”

Đường Mật sáng mắt: “Còn ai biết việc đó?”

“Lúc đó có nhiều người lắm, để ta nghĩ, có lão Mạc, Trí Mộc điện, đệ đệ của y, còn cả… Ôi, lâu quá rồi, nhớ không rõ nữa, đại khái Tiêu Vô Cực cũng có mặt.” Ngọc Diện lắc đầu, không dám khẳng định.

“Vậy Tiêu chưởng môn và Tư Đồ tông chủ là người thế nào?”

“Tư Đồ Minh từ bé đã may mắn, hiện giờ nghĩ lại chắc y có phúc nhất, con cái đầy đàn, vô dục vô cầu. Tiêu Vô Cực thì không có gì thú vị, từ bé đã nghiêm cẩn, sùng bái Đọa Thiên đại nhân cực độ, chắc từ lúc đó đã muốn làm chưởng môn Thục Sơn, ngồi lên vị trí mà đại nhân từng ngồi. Nên lúc nào y cũng luyện võ, không ngừng luyện, không hiểu Nhạc Oánh gả cho y thì thế nào.” Ngọc Diện đáp.

“Đúng rồi Ngọc Diện tỷ tỷ có tìm được người biết Ma La vũ không?”

Đường Mật hỏi câu này, thần sắc Ngọc Diện biến hẳn, dù được vô số vằn vện che giấu nhưng từ độ uốn khúc của những hoa văn đó là viết nàng ta giận thế nào. Tay Ngọc Diện nắm lấy cổ tay Đường Mật, ngón tay ấn sâu vào da nó, giọng không giấu được phẫn nộ: “Sau đó các ngươi không gặp người mặc áo xám đã dạy Ma La vũ?”

Cổ tay Đường Mật bị nắm đau nhói, kêu lên: “Tỷ tỷ, tỷ tỷ, bỏ tay ra đi, đau quá.”

Ngọc Diện không lỏng tay mà gia lực cơ hồ bóp nát cổ tay Đường Mật, quát khẽ: “Nói mau.”

Đường Mật biết việc này nhất định quan hệ trọng đại với Ngọc Diện, cho rằng không nên lừa gạt: “Tỷ tỷ, nghe muội này, kỳ thật muội không học Ma La vũ với người áo xám nào hết mà từ một cái đèn. Lúc đó muội nói thế vì chưa quen tỷ tỷ, sợ nói ra sự thật thì tỷ tỷ không tin. Tỷ tỷ, bỏ tay ra đã, có gì từ từ nói.”

Ngọc Diện từ từ buông tay, trầm mặc một lúc, tựa hồ muốn bình lặng tâm tư, hồi lâu mới nói: “Hài tử ngươi trơn tuột, không biết câu nào thật câu nào giả nữa.”

Đường Mật lập tức phát thệ: “Muội đảm bảo lần này là nói thật, nếu có nửa lời dối trá thì bị thiên lôi đánh. Không tin thì tỷ tỷ thử hỏi đồng bạn của muội xem, tất cả cùng tìm được cái đèn, cùng học Ma La vũ.”

Ngọc Diện bảo: “Tất nhiên ta sẽ hỏi, nào thế cái đèn lấy được từ đâu, trông thế nào?”

Đường Mật kể lại sơ qua quá tình lấy đèn và hình dáng: “Tỷ tỷ, cái đèn đó cũng là bảo vật, tỷ có nghe nói đến không?”

Ngọc Diện đã tin tám phần: “Ta không biết nhiều về bảo vật, bất quá Đại Lương thành là nơi thương buôn trân bảo tập trung, nổi danh nhất là Dị bảo quán ở Đông thị. Ta sẽ đến đó nghe ngóng, chưa biết chừng có thể tìm được người cần tìm.”

Đường Mật hiếu kỳ, tuy biết hỏi tiếp sẽ kích nộ Ngọc Diện nhưng vẫn thăm dò: “Người biết Ma La vũ đó là cừu nhân của Ngọc Diện tỷ tỷ”?

Ngọc Diện vỗ mạnh xuống cái ghế bên cạnh, nghiến răng: “Không sai, thù này không báo chết không nhắm mắt.”

Cái ghế gỗ hoàng lê bị một chưởng của Ngọc Diện chấn nát, tan tác dưới đất, Đường Mật thè lưỡi, không dám hỏi nữa.

Thạch Thiên Minh nói không sai, không đầy một tháng, ngay khi năm mới sắp đến, Đường Mật hoàn toàn khôi phục. Lúc đó Hoàn Lan mới bảo cả nhóm đi bái kiếm mẫu thân và ca ca y.

Bọn Đường Mật nghĩ cũng đúng, đến đây lâu thế, quấy loạn cả nhà Hoàn Lan lên mà chưa đến bái kiến chủ nhân, thật không hợp lễ số. Cuối năm là thời điểm quân chủ một nước bận nhất, trừ việc hàng ngày còn đủ loại nghi thức cần tham gia, nên họ đến bái kến mẫu thân Hoàn Lan - Linh Lung phu nhân.

Ba đứa ở Ngụy cung đã hơn tháng, được cung nhân cho biết nhiều việc về mẫu thân Hoàn Lan. Đồn rằng Linh Lung phu nhân là người dị tộc ở thảo nguyên tái ngoại, lúc còn thiếu nữ xinh đẹp vô cùng, được đưa vào lời ca tiếng hát, sau đó có người nước Ngụy đi sứ, thấy Linh Lung phu nhân rồi thì về báo lại cho Ngụy vương: Người này linh lung như ngọc, sáng rực khắp nhà, đẹp đến cực điểm, không dám nhìn thẳng vào. Nên bà ta tuy là người man tộc phương bắc nhưng được phụ vương Hoàn Lan nghênh đón cực kỳ long trọng, sai mười vạn đại quân hộ tống, phong làm phu nhân chỉ đứng sau hoàng hậu, vinh sủng vô vàn.

Nhưng Đường Mật cũng được cung nhân cho biết Linh Lung phu nhân tính tình lạnh lùng, rất khó thân cận, ngay cả đứa con duy nhất là Hoàn Lan cũng không được bà ta quan tâm, hiếm khi nói câu nào ngọt ngào. Thành ra trên đường đi gặp Linh Lung phu nhân, nó cứ thấp thỏm, không hiểu sắp gặp một mỹ nữ tính tình cổ quái thế nào.

Vừa vào cung thất liền ngủi thấy mùi thơm hoa cỏ thoang thoảng, Đường Mật hỏi Hoàn Lan: “Mùi hương gì mà thơm thế, như mùi cỏ thu phơi khô, lại khiến người ta nghĩ đến trời xanh cao vời.”

“Là cỏ Vô ưu, chỉ ở quê mẹ ta mới có.” Hoàn Lan dứt lời, rèm châu khẽ động, vòng xuyến leng keng, váy áo sột soạt, Linh Lung phu nhân đến.

Mấy thiếu niên chưa nhìn rõ dáng vẻ bà ta đã cùng quỳ xuống, cúi đầu hành lễ. Giọng nói yểu điệu cất lên: “Lan, đây là bằng hữu con nhắc đến hả?”

“Hồi bẩm mẫu thân đại nhân, đấy là Bạch Chỉ Vi và Trương Úy, đồng môn ở Thục Sơn mà Lan từng nhắc đến.” Hoàn Lan đáp, thanh âm khiêm cung lễ độ như thần tử.

“Đường Mật là ai, ngẩng lên cho ta xem.”

Đường Mật không ngờ mình là người được nhắc đến đầu tiên, ngẩng lên nhìn mỹ nhân ngồi trên ghế mềm, bất giác hít sâu một hơi. Nó cho rằng trong đời mình gặp không ít mỹ nữ, như Bạch Chỉ Vi, Quân Nam Phù đều thuộc hạng nhất nhưng dù mười Bạch Chỉ Vi hoặc Quân Nam Phù đứng cạnh Linh Lung phu nhân cũng bị che mờ, bèn than thầm: Linh Lung phu nhân quả nhiên người như danh hiệu, thật không dám nhìn thẳng vào.

Nó khẽ ổn định hơi thở, cung kính đáp: “Vâng, dân nữ Thục Sơn Đường Mật.”

Linh Lung phu nhân khẽ nhíu mày ngài, hỏi Hoàn Lan: “Tiểu cô nương này sao nói năng cứng thế, không giống nữ hài tử chút nào, giọng nói không dễ nghe như Gia Hòa.”

Hoàn Lan hơi biến sắc, vội giải thích: “Mẫu thân đại nhân, họ mới vào cung đình, không khỏi cẩn trọng quá, kỳ thật tính Đường Mật rất hoạt bát.”

Linh Lung phu nhân tựa hồ không nghe thấy lời Hoàn Lan: “Hai hài tử còn lại cũng ngẩng đầu lên đi.” Trương Úy và Bạch Chỉ Vi cùng ngẩng lên, cung kính nhìn bà ta. Ánh mắt Linh Lung phu nhân vừa thấy Trương Úy thì gương mặt lạnh lùng chợt máy động, gã cảm giác được đôi mắt đẹp cực độ nhìn mình, một lúc sau vang lên giọng nói đang khắc chế hết mức: “Hài tử này tên gì?”

Trương Úy bị nữ tử xinh đẹp như thế nhìn chăm chăm, lòng run lên, cố ý tránh ánh mắt Linh Lung phu nhân: “Thưa phu nhân, con tên Trương Úy.”

Linh Lung phu nhân tựa hồ không nhận ra mình thất thái, ngón tay mảnh mai nắm chặt tấm gấm năm sắc trên ghế mềm, dải tua rua bị nắm thành một mớ, nát vụn hỗn loạn.

“Cha ngươi tên gì, nhà ở đâu?” Bà ta hỏi tiếp.

Trương Úy định đáp thì Đường Mật nhận ra Linh Lung phu nhân hơi khác thường, định ngăn cản nhưng không biết dùng cách gì, nóng lòng quá liền đảo người giả bộ ngất xỉu.

Trương Úy không kịp đáp, vội đưa tay đỡ, Hoàn Lan cũng nắm tay nó bắt mạch, Bạch Chỉ Vi hiểu nó hơn hết vội chắp tay: “Phu nhân thứ tội, Đường Mật trọng thương mới lành, có lẽ quỳ lâu nên thể lực không chịu nổi, bọn tiểu nữ xin cáo từ, hôm khác sẽ đến thỉnh an.”

Linh Lung phu nhân hừ lạnh: “Có khác gì thiên kim tiểu thư, các ngươi lui đi.”

Về đến phòng, Đường Mật bảo những người khác lui đi, riêng Bạch Chỉ Vi ở lại, tỏ vẻ lo lắng hỏi: “Chỉ Vi, ngươi có thấy Linh Lung phu nhân khác thường không?”

Bạch Chỉ Vi thoáng nghĩ: “Từ đầu đến cuối không thấy bà ta cười, với Hoàn Lan cũng không tỏ tình cảm gì, còn nữa, ta thấy ánh mắt bà ta nhìn đầu to…” Cô nhìn Đường Mật xem nó có cùng cảm giác với mình không.

“Chứa hận ý, đúng không?”

Quả nhiên Đường Mật nói ra điều Bạch Chỉ Vi nghĩ. Cô gật đầu: “Đúng, nhưng bà ta không lý gì lại hận đầu to, mà hận người Thạch đại phu quen, vốn giống đầu to mới đúng.”

“Ta cũng nghĩ thế. Từ thái độ của Thạch đại phu và Linh Lung phu nhân, chắc Trương Úy rất giống người đó, không có quan hệ máu mủ thì khó giống nhau lắm. Chúng ta không phải vẫn nghi ngờ thân thế đầu to hả? Nên đi hỏi Thạch đại phu.” Đường Mật nói.

“Có phải ngươi nói là Thạch đại phu đang ứng phó, tựa hồ không muốn cho ngươi biết?” Bạch Chỉ Vi hỏi.

“Ta vốn cho rằng như thế nhưng hôm nay từ thái độ của Linh Lung phu nhân, ta lại nghĩ ông ta đang bảo vệ đầu to, vì đây là cung đình, ông ta không thể nói nhiều.”

Bạch Chỉ Vi cho rằng Đường Mật đoán đúng, nên quyết định xuất cung đi tìm Thạch Thiên Minh, để thuận tiện nên gọi thêm Hoàn Lan và Trương Úy. Hai gã tuy lo lắng cho Đường Mật nhưng không chịu được nó mè nheo nên đành đồng ý. Cũng may ra khỏi cửa, thấy nó sinh long hoạt hổ thì cả hai yên tâm hẳn, cùng hai thiếu nữ hào hứng bát phố khắp Đại Lương thành náo nhiệt.

Chốc sau, Đường Mật và Bạch Chỉ Vi nói là muốn đi mua son phấn, hẹn Trương Úy và Hoàn Lan gặp mặt lúc ăn trưa, rồi vội vàng đến nhà Thạch Thiên Minh ở gần đó.

Người cho hai cô biết chỗ ở của Thạch Thiên Minh bảo rằng nhà Thạch đại phu rất dễ tìm, chỉ cần thấy ở cửa có người khóc gào xin chữa bệnh là đúng. Quả nhiên, hai cô vào ngõ, nghe thấy có người khấn cầu trước một vòm cổng. Đường Mật và Bạch Chỉ Vi nhờ tạp dịch vào thông báo, thấy người đó đáng thương liền cho mấy đồng tiền, người đó gạt đi, tức giận: “Ta đến cầu đại phu chứ không xin cơm.” Đoạn nhổ toẹt vào cánh cửa đỏ rực của Thạch phủ, quay người đi ngay.

Gặp Thạch Thiên Minh, Đường Mật vẫn bất bình, nhưng vì cần hỏi nên không tiện chỉ trích mà khéo léo hỏi: “Thạch đại phu có thấy mỗi ngày những người đến cửa quấy nhiễu phiền lắm không? Ngài động đầu ngón tay là thanh tịnh ngay mà.”

Thạch Thiên Minh tất nhiên hiểu ý, cũng không tức giận mà cười đáp: “Nếu đại phu bình thường thì không cần tìm tại hạ, còn nếu không chữa được mà tại chữa được thì tất phải dùng đến dược vật quý, phương thuốc này không phải chỉ một hai thang mà xong, không có tiền chịu sao thấu? Chi bằng sớm siêu sinh luân hồi thì hơn.”

Đường Mật uất ức, nhưng không tiện tranh luận, cố nén giận hỏi: “Thạch đại phu đại khái đoán được bọn tiểu nữ đến làm gì rồi?”

“Để hỏi thăm về người giống Trương Úy, đúng không? Thạch mỗ vẫn đợi hai vị đại giá quang lâm.” Thạch Thiên Minh nhìn hoa cỏ khô héo khắp vườn: “Đường cô nương có thể cho Thạch mỗ biết thân thế Trương Úy chăng?”

Đường Mật đáp: “Cha y chỉ là bách tính bình thường, tựa hồ từng làm truyền lệnh binh dưới trướng Ngụy quốc đại tướng quân Thẩm Mục, sau đó Thẩm tướng quân bị gian thần hại, ông ta liền rời quân ngũ.”

Thạch Thiên Minh hơi giật giật mí mắt: “Cha y nói Thẩm tướng quân thị bị gian thần hại là y tin? Ừ, cha y có lẽ sống ở nơi rất hoang vắng. Tuy là việc đã hơn mười năm rồi nhưng cô nương cứ thử hỏi khắp Đại Lương thành xem người năm xưa hiệu xưng bách chiến bất bại chiến thần Thẩm Mục vì sao mà chết thì sẽ được trả lời rằng chiến bại nên hổ thẹn tự vẫn sa trường. Mười vạn đại quân gần như chết hết, Thẩm Mục mười tám tuổi làm tướng quân, trải qua hơn hai mươi trận lớn nhỏ chưa từng thất bại, sau cùng lại dùng phương thức sỉ nhục đó kết thúc sinh mệnh.” Thạch Thiên Minh ngừng lời, thu ánh mắt khỏi hoa cỏ khắp vườn, nhìn Đường Mật và Bạch Chỉ Vi: “Thẩm Mục là vị bằng hữu của tại hạ giống hệt Trương Úy.”

Đường Mật và Bạch Chỉ Vi tuy chuẩn bị nghe những tin tức bất ngờ những vẫn không giấu được thần sắc kinh ngạc. Đường Mật hỏi: “Thẩm tướng quân có con cái gì không?”

Thạch Thiên Minh lắc đầu: “Không, lúc chết y mới hai mươi nhăm, quanh năm chinh chiến, chưa từng lấy vợ, ngay cả bừng hữu tốt nhất của y là tại hạ cũng không biết y có con nên lúc tại hạ gặp Trương Úy mới lấy làm lạ, không có quan hệ máu mủ sao giống nhau đến thế. Giờ biết cha Trương Úy từng phục vụ dưới trướng Thẩm Mục, tại hạ đoán…”

Lão không nói tiếp, Đường Mật cũng hiểu ý, hỏi: “Thạch đại phu, tiểu nữ còn một việc muốn hỏi. Có phải Linh Lung phu nhân liên quan gì đó đến Thẩm tướng quân chăng?”

Thạch Thiên Minh hơi biến sắc: “Hài tử đó đã gặp Linh Lung phu nhân?”

“Mới gặp sáng nay.”

Thạch Thiên Minh thở dài, đi đi lại lại trong phòng, cân nhắc hồi lâu mới nói: “Các vị không còn nhỏ nữa, cũng nên biết có nhiều không như các vị nghe nói, về Linh Lung phu nhân cũng thế. Vốn bà ta là mỹ nữ được người Thát Đát ca ngợi trong bài hát, sau đó Thẩm Mục dẫn quân qua bộ tộc của bà ta, có duyên gặp mặt một lần. Về Đại Lương, tiên vương hỏi Linh Lung phu nhân dáng vẻ thế nào, y đáp: Người này linh lung như ngọc, sáng rực khắp nhà, đẹp đến cực điểm, không dám nhìn thẳng vào. Thẩm Mục giỏi vẽ nên tiên vương lệnh cho y vẽ một bức tranh, ai ngờ xem xong thì tiên vương nảy lòng muốn cướp đoạt, sai sứ thần đến cần thân. Lúc đó Linh Lung phu nhân đã gả cho thủ lĩnh bộ tộc nên cứng cỏi cự tuyệt, tiên vương bèn lệnh cho Thẩm Mục dẫn mười vạn đại quân tấn công, nếu bị kháng cự thì diệt bộ tộc đó để đoạt Linh Lung phu nhân.”

Thạch Thiên Minh hơi trầm ngâm: “Nếu hài tử đó là con của cố hữu thì dưỡng phụ của nó đã giấu một số việc, không muốn nó phải chịu sỉ nhục. Cũng để giúp nó tránh được một vài cừu địch. Các vị cũng biết thế nào là vinh diệu của tướng quân thường thắng đứng trên xương máu vô số người.”

Đường Mật và Bạch Chỉ Vi rời Thạch phủ, lòng đều không vui vẻ gì, trầm mặc đi một đoạn, Bạch Chỉ Vi mới lên tiếng: “Ngươi nói thử xem, việc này nên cho đầu to biết mới phải. Linh Lung phu nhân nhất định sẽ đến hỏi thân thế, y không thể trả lời thật, bằng không ngoài chuyện y gặp nguy hiểm ra thì y phải cư xử thế nào với Hoàn Lan đây?”

Đường Mật cũng cân nhắc việc này: “Kỳ thật, nếu đầu to và Hoàn Lan hiểu rõ, việc này không ảnh hưởng đến họ. Trầm tướng quân làm gì cũng là tuân theo mệnh lệnh của phụ vương Hoàn Lan, còn Linh Lung phu nhân, ôi, mỗi người có lập trường riêng, không phải chuyện chúng ta bình phẩm được.” Nói đến đây, nó nhớ ra mẫu thân Hoàn Lan có vẻ chú ý đến mình, thoáng do dự: “Nên cho đầu to biết để y biết đường phòng bị, tránh bị Linh Lung phu nhân hỏi thì không mắc hỡm, còn về Hoàn Lan thì đừng để y biết là hơn.”

Bạch Chỉ Vi cũng thấy thế thỏa đáng: “Ừ, cũng được. Hiện tại cũng đoán được đại khái cha Quân Nam Phù muốn gạt đầu to chuyện gì, chắc là di vật Thẩm tướng quân để lại.”

“Đúng vậy, Trầm Địch chắc là một di vật, vậy thì Trầm Địch bị hỏng thật đáng tiếc.” Đường Mật nói đoạn, ngẩng nhìn cửa một gian điếm trước mặt có một vũ cơ Ba Tư đang đứng, uốn éo eo múa theo tiếng địch du dương.

Ngoải cửa có một đám đông vây quanh, hứng thú xem điệu múa đẹp đẽ, Đường Mật và Bạch Chỉ Vi hòa vào, nhìn kỹ mới thất vũ cơ là một con rối. Có điều con rối được chế tạo quá ư tinh diệu, eo nhỏ tay ngọc, tóc vàng mắt xanh, tư thái quyến rũ.

“Kỳ quái, sao lúc đến không thấy nhỉ?” Đường Mật lẩm bẩm.

“Tiệm này chính ngọ hàng ngày mới để con rối ra múa.” Người qua đường đáp.

Nó quan sát kỹ gian tiệm, hóa ra là Dị bảo quán mà Ngọc Diện từng đề cập, vốn định đến đó một chuyến, thầm nhủ đã gặp rồi thì đến, liền kéo Bạch Chỉ Vi đi tới.

Cả hai đẩy cánh cửa quán khép chặt, như bước chân vào một thế giới khác.

Đó là một giam tiệm rộng rãi nhưng tối tăm, cửa sổ đóng kín, trên nóc treo một ngọn đèn cổ quái hình chim chóc, ánh lửa lập lòe, khắp phòng bày đủ loại giá cao cao thấp thấp, dưới đất ngổn ngang những thứ cổ quái. Đường Mật nhìn sơ qua, có một cái giá bày mười đế đèn đủ loại hình thù, có hình quái thú, hình nô lệ quỳ… đều phủ một lớp đồng, xem ra cực kỳ cổ kính. Một cái rương mở hờ, bên trong kim quang lấp lánh, thoáng thấy được một cái chậu vàng đáy khắc hình cá chép. Góc tường bày năm, sáu con rối gỗ tạo hình người Hồ, ánh mắt hắc bạch phân minh nhìn nó và Bạch Chỉ Vi chằm chằm, dị quãng lóe lên dưới ánh đuốc lập lòe.

Xuyên qua gian phòng chất đầy dị bảo, hai cô đến trước một quầy dài, một lão nhân người Hồ mũi cao mắt sâu, râu tóc đều bạc phơ đang sửa một sợi dây chuyền, ngẩng lên nhìn hai tiểu cô nương, hỏi: “Hai tiểu hài đến xem hay mua đồ?”

Ông chủ người Hồ có cái mũi đỏ phối hợp cùng chòm râu trắng xóa, rất giống ông già Noel, Đường Mật cho rằng lão rất dễ bắt chuyện liền cười hỏi: “Lão gia gia, tiểu nữ muốn hỏi mấy chuyện.”

Không ngờ ông chủ liếc nó bằng ánh mắt xám xịt, rồi tiếp tục cụp mắt xuống sửa sợi dây chuyền vàng, đáp: “Thấy chiêu bài không, đây là Dị bảo quán, chỗ hội tụ của đồ cổ kỳ trân khắp thiên hạ, không phải chỗ nghe ngóng tin tức.”

“Bọn tiểu nữ muốn hỏi tin tức bảo vật.” Đường Mật nói.

“Bảo vật gì?” Ông chủ không thèm nhìn, tiếp tục công việc.

“Lão bản có nghe nói đến một cái đèn làm bằng gỗ đen, đốt nến lên liền xuất hiện một nữ tử múa trong đó?” Đường Mật hỏi.

Ông chủ hơi ngừng lại, tựa hồ hồi tưởng: “Không, vật như thế thì là bảo vật gì chứ, chẳng qua do người ta dùng pháp thuật cao minh tạo ra.”

“Có lẽ không phải bảo vật nhưng cũng hơn trăm tuổi rồi, thế nào cũng là đồ cổ, lão bản không nghe nói qua?” Đường Mật hỏi với vẻ không cam lòng.

Lão nhân hừ đầy coi thường: “Trăm năm thì có là gì, chưa từng nghe.”

Thái độ muốn đuổi khách của lão nhân khiến Đường Mật nhận ra người này là thương nhân cực kỳ tinh minh, không mốn hao phí thời gian với những việc vô bổ. Nó chợt hỏi: “Bọn ta muốn mua mấy thứ, thử nói xem ở đây có bản vật gì đáng cho bản tiểu thư chú ý.”

Lão bản ngẩng lên đánh giá hai tiểu cô nương: “Đồ tốt nhiều lắm, hai vị là người Thục Sơn, thì ở kia có tinh thiết ngân ti hộ giáp, mặc vào là đao thương bất nhập, chỉ có mười vạn kim thôi. Ở kia có kim lý ngư bồn, mỗi ngày dùng rửa mặt thì giữ được dung nhan bất lão, chỉ mỗi năm mươi vạn. Còn cả…”

“Được rồi, được rồi…” Đường Mật cắt ngang, tuy biết lão bản nói ‘kim’ là chỉ tiền đồng, nhưng nó vẫn giật mình, nói thẳng luôn: “Bọn ta muốn mua một thứ, đồng thời hỏi tin một vật, nói đi, ở đây có gì hữu dụng cho bọn ta mà bọn ta mua được. Cho giá đi.”

Lão bản cười xán lạn, chỉ vào sợi dây đang sửa: “Chính là Như ý câu này, giá một nghìn đồng.” Đoạn đưa cho Đường Mật xem, nó nhận ra sợi dây dài chừng hơn mười thước, hai đầu gắn câu. Lão bản thu sợi dây vào cái đeo cổ tay màu bạc rồi ấn cơ quan, hai đầu sợi dây bắn ra, móc vào hộp gỗ đàn đặt trên cái giá sau lưng hai cô, rồi lại ấn cơ quan, sợi dây thu về, cái hộp cũng bị móc theo.

Lão bản giải thích: “Như ý câu này đúc bằng tinh thiết đúc kiếm, vừa sắc vừa bền. Nếu móc thứ gì cũng không sợ câu bị hỏng, sử dụng như ban nãy lão phu dùng. Nếu sợ câu hỏng thì lúc ấn cơn quan gạt thêm cái này, sợi dây sẽ xoay chuyển, quấn lấy sự vật, hai móc câu móc phụ trợ, giữ chặt hơn.”

Bạch Chỉ Vi hỏi: “Vật này có ích gì với bọn tiểu nữ, là đồ chơi trẻ con mà.”

“Sao lại vô dụng, lúc leo tường có thể dùng làm móc, lúc đánh nhau có thể làm ám khí, bình thường đeo ở cổ tay cũng rất đẹp, đeo chán thì đổi thành dây lưng. Đây chính là bảo vật tiện dụng bậc nhất.”

Đường Mật nghe ông chủ bịa đặt, cảm giác muốn bật cười nhưng nghĩ một lúc, hình như tương lai cần dùng đến vật này, bèn bảo: “Vậy được, mua vật này, mai trả tiền.”

Ông chủ lập tức đổi sắc mặt, cười hỏi: “Vậy hai vị hỏi thăm cái đèn đó định để mua chăng? Thế này đi, lão phu sẽ hỏi thăm hộ, không dám giấu gì, chỉ cần xuất hiện cổ vật nào là lão phu đều nghe ngóng được.”

“Tất nhiên muốn mua, có tin thì báo cho bọn tiểu nữ.” Đường Mật lại hỏi: “Còn một việc, ở đây có sửa được bảo vật bị hỏng không?”

“Có, hai vị muốn sửa vật gì?”

“Lão bản có biết Trầm Địch không? Bảo châu Trầm Địch của bằng hữu bọn tiểu nữ bị Cùng Kỳ tập kích hỏng mất, sửa được không?”

Lão bản lắc đầu, tỏ vẻ không tin: “Không thể nào, Trầm Địch là bảo vật phòng ngự mạnh nhất trên đời, chuyên môn phòng ngự pháp thuật và yêu vật, dã thú, kể cả là Cùng Kỳ cũng không thể làm hỏng được, trừ phi không phải Trầm Địch chân chính.”

Dám vẻ lão bản khiến Đường Mật sinh nghi, quyết định ngày mai đưa Trương Úy và Trầm Địch đến xem sao.

Cả hai rời Dị bảo quán, Bạch Chỉ Vi hỏi: “Ngươi thấy có manh mối gì không?”

Đường Mật gật đầu: “Dáng vẻ Mục điện giám lúc lấy cái đèn đi thì đích xác điện giám chưa thấy nó. Nhưng sau đó điện giám lấy một cái giống hệt từ trong cái hồ ở rừng Ảo hải. Mộ Dung Phỉ bảo rằng cái đèn của chúng ta là Đọa Thiên tặng Ma vương vào dịp sinh thần, có thể Hoa Anh sinh cùng ngày với Ma vương cũng nhận được một cái. Khả năng đĩa đèn trong tay Mục điện giám là cái này. Hai cái đèn này vốn không có gì, ta chỉ nghĩ Ngọc Diện đã gặp người biết Ma La vũ, giả thiết Ma La vũ chỉ được ghi lại trong hai cái đèn thì nhất định người đó từng thấy một trong hai cái đèn. Trực giác của ta cho biết, người này liên quan đến việc chúng ta đang điều tra.”

Bạch Chỉ Vi ngẫm nghĩ một lúc: “Lúc chúng ta thi triển Ma La vũ từng bị chưởng môn và phương trượng Thanh Nguyên tự nhận ra, tất võ công này từng xuất hiện trên giang hồ, hơn nữa có thể người Ma cung sử dụng. E rằng còn phải đi hỏi họ xem trừ ngọn đèn đó ra, còn sách vở gì ghi lại võ công này không.”

Việc này khiến đó đau đầu: “Đúng, có những việc nghe ngóng từ người Ma cung là hay nhất. Ví như vì sao hồn thú của Ma vương không biến mất. không được thì tìm cách làm quen với người Ma cung.”

Bạch Chỉ Vi lúc đó nghĩ tới một việc khẩn bách hơn: “Đường Mật, chúng ta lấy đâu ra một ngàn đồng mua Như ý câu?”

“Còn thế nào, bán sạch gia sản.”

Cả hai vừa đi vừa thương lượng, thoáng cái đã đến chỗ quán cơm ước hẹn với bọn Trương Úy, nhưng khách trong quán lại thi nhau chạy ra, hai cô kéo một người lại hỏi: “Trong đó xảy ra chuyện gì?”

“Có người đánh nhau.”

Hai cô nhìn qua song cửa, thấy Trương Úy và Hoàn Lan đang cầm kiếm, giận giữ nhìn một cẩm y thiếu niên. Đường Mật nhìn xéo cũng nhận ra, là Lý Liệt suýt nữa giết chết nó.

Trương Úy đang áp chế lửa giận: “Lý Liệt, ngươi trúng kế tá đao sát nhân, ta không trách ngươi nhưng sao ngươi hạ thủ Đường Mật như thế?”

Sắc mặt Lý Liệt cau lại, choang một tiếng tuốt kiếm chỉ vào Trương Úy: “Ngươi nói nhăng gì hả? Ta trúng kế tá đao sát nhân? Ta tra rõ rồi, đấy là kẻ giết cha ta.”

Trương Úy nhìn thanh kiếm rung rung trước mặt, không tuốt kiếm ra mà thầm nhủ: Giết tiểu này cũng vô dụng, nhất định phải giúp Đường Mật nói rõ những uất ức đã chịu. Gã nén lửa giận trong lòn: “Được, tạm lùi một bước, coi như Mục điện giám là cừu nhân của ngươi thì là nam nhân cũng nên chính diện quyết đấu, không lại thì khổ tu mười năm rồi tái đấu, vì sao ngươi lại dùng kế mưu âm hiểm như thế, còn kéo cả tình cảm của Đường Mật vào. Ngươi cũng biết Đường Mật từ bé không còn cha mẹ, vốn phải được mọi người yêu thương, nhưng ngươi lại lừa gạt cảm tình của người ta, uổng phí ta và Bạch Chỉ Vi vui mừng vì cho rằng có người thích Đường Mật.”

Lý Liệt hừ lạnh: “Cần gì ngươi lắm chuyện, ả chỉ diễn trò với ta chứ đã bao giờ mở lòng với ta. Nếu không nhân lúc ả ý chí bạc nhược, ta không bao giờ đọc được bí mật trong lòng ả.”

“Nói nhăng, phàm trên đời có ai đối tốt với Đường Mật một phần thì người ta đều đáp lại. Ngươi cũng biết Đường Mật cho ngươi đôi chuông vì sợ ngươi nguy hiểm, sau này bọn ta tấn công được lên núi, người ta thấy ngươi chưa lên liền dẫn người đi tiếp ứng, ngươi tự hỏi mình xem lúc đó là diễn trò sao?”

Sắc mặt Lý Liệt âm tình bất định, nhưng khẩu khí vẫn lạnh nhạt: “Việc đó chỉ mình ả biết.”

Trương Úy thấy y lạnh lùng như vậy, phẫn hận nói: “Không ngờ ngươi ngu xuẩn đến thế, thà tin thuật Khuy hồn chứ không tin vào mình.”

Sắc mặt Lý Liệt và Hoàn Lan đều sầm xuống.

Hoàn Lan chỉ nghe Đường Mật giảng giải qua loa sự tình, không hiểu giữa nó và Lý Liệt có dây mơ rễ má như vậy, chợt cảm thấy lòng chua xót, không rõ vì sao nhưng thấy nó đối tốt với Trương Úy và Mộ Dung Phỉ thì không hề xuất hiện tâm trạng này. Còn nghĩ đến việc Lý Liệt từng giả bộ thích nó, thân cận với nó là y lại khó chịu, lòng như thắt gút, bức bối cực độ.

Lý Liệt nghiến răng, khắc chế tâm trạng một lúc mới hỏi nhỏ: “Hiện tại ả thế nào?”

Trương Úy định đáp thật thì Hoàn Lan đã lạnh lùng trả lời: “Chết rồi.”

Bàn tay cầm kiếm của Lý Liệt tựa giác hạ xuống, dáng vẻ cứng lại: “Không thể nào, một chưởng đó của ta không hề, ả, ả lẽ ra vẫn còn sống…” Chợt hung quang rực lên trong mắt y: “Ngươi định lừa ta hả, ta đã hỏi rồi, trừ Mục Hiển thì Thục Sơn không còn ai tử vong trong lần tỷ võ đó.”

“Không sai, lúc đó không chết nhưng thương thế của Đường Mật quá nặng, Mạc điện giám chỉ kéo dài mạng sống cho Đường Mật được mấy hôm. Lúc bọn ta đưa đến nước Ngụy cho Thạch Thiên Minh chữa nhưng không được. Đường Mật chết nửa tháng trước.” Hoàn Lan nói đoạn. thần tình lãnh lẽo như vạn niên hàn băng: “Còn nữa, ta ghét nhất bị người khác chỉ kiếm vào mình.”

Dứt lời, tay thiếu niên sáng rực, trường kiếm như ánh tuyết tháng Ba vô thanh vô tức xuất hiện trên tay.

Đường Mật trốn ngoài cửa sổ, thấy hai bên sắp giao thủ, lòng do dự có nên xuất hiện không. Nếu xuất hiện thì nhất định sẽ kéo theo nhiều việc, nếu từ y mà hỏi được là ai bày ra kế sách thì hay nhất nhưng được chăng? Còn nếu không hỏi được, lại khiến Lý Liệt hiểu lầm thì có nên chăng?

Trong lúc nó vẩn vơ, Hoàn Lan và Lý Liệt đã giao thủ.

Thân hình Lý Liệt cao lớn, cây kiếm trong tay cũng dài hơn kiếm thường ba, bốn tấc, giữa thân kiếm có một vệt màu xanh đen, múa lên giống hệt một con rắn xanh đang uốn mình. Không gian quán cơm không lớn, y và Hoàn Lan đấu được vài chiêu liền thấy bó hẹp, song song nhảy lên bàn, liên tục lướt qua lướt lại giữa hơn mười cái bàn.

Kiếm của Lý Liệt dài mà mềm, tuy sử dụng Thục Sơn kiếm pháp nhưng ẩn chứa đôi phần tiên pháp, đại khai đại hợp, khí thế bất phàm. Hoàn Lan lại kiếm pháp tinh kỳ quả quyết, chiêu nào cũng cực nhanh, không để đối thủ kịp lấy hơi. Mỗi lần Lý Liệt bức được Hoàn Lan lùi xa liền chiếm thượng phong, một khi Hoàn Lan áp sát được thì lại khiến y luống cuống, chật vật chống đỡ. Lâu dần, ưu thế của Lý Liệt bắt đầu hiện rõ.

Đường Mật biết Hoàn Lan tuy được coi là thiên tài trăm năm khó gặp của Thục Sơn nhưng Lý Liệt nhiều tuổi hơn, bất kể là thân thể hay kinh nghiệm đều cao hơn một bậc. Nó quen Lý Liệt một năm nay, cũng là năm sau cùng y ở Thục Sơn, theo quy củ, kiếm đồng rời Ngự Kiếm đường sẽ tu luyện ba năm ở tông môn rồi được lựa chọn ở lại Thục Sơn tu hành hay hạ sơn. Thành ra Lý Liệt đã luyện gần như mọi môn võ công trọng yếu của Thục Sơn, cộng thêm bản thân y thiên phú cao siêu, được coi là người võ công cao nhất lớp trẻ bản môn. Y đấu lâu với Hoàn Lan, những ưu điểm vốn không dễ nhận ra như độ nhuần nhuyễn kiếm pháp hoặc kinh nghiệm thực chiến dần lộ ra.

Có mấy lần, y biết được Hoàn Lan nóng lòng áp sát nên cố tình để lộ sơ hở. Cảm giác về kiếm pháp của Hoàn Lan cực tốt, không phải không nhận ra sơ hở đó là cố ý nhưng y quá tự tin vào tốc độ của mình, cho rằng dù sơ hở là cố ý thì với tốc độ cực nhanh, hoàn toàn có thể biến thành sơ hở thật sự, nên không hề do dự tấn công luôn.

Không ngờ kiếm của Lý Liệt cũng cực nhanh, không phải là tốc độ của bản thân thanh kiếm sinh ra mà khi kiếm thủ và kiếm hồn tâm ý tương thông, kiếm hồn sẽ nảy sinh phản ứng tự nhiên với nguy hiểm. Hoàn Lan liên tục không đắc thủ, biết rằng Lý Liệt đang dùng một phương thức kín đáo khác sử dụng sức mạnh kiếm hồn. Lần đấu với Mộ Dung Phỉ, kiếm hồn chi lực của y thua mất không ít, giờ đâm ra nổi giận, ngưng tụ tâm lực để điều động kiếm hồn chi lực...

Trương Úy thấy Lý Liệt và Hoàn Lan càng đấu càng kịch liệt, nhất thời không biết có nên can thiệp chăng. Còn nữa, nếu thắng Lý Liệt, có nên giữ y lại, bức y nói ra ai là chủ mưu không? Hay là mặc kệ tất cả cho y một trận? Đang do dự thì hai người đã dùng đến chiêu thức liều mạng, tựa hồ đều nổi giận, sẵn sàng lưỡng bại câu thương.

Gã cho rằng mọi sự không ổn, tuốt kiếm định ngăn cản. Nhưng lúc đó Lý Liệt và Hoàn Lan đã điều động đến sức mạnh kiếm hồn, hình thành khí trường vô hình, gã muốn vào nhưng khác nào vấp phải một bức tường trong suốt, biết rằng chỉ có kiếm hồn chi lực của mình mới xé được bức tường này, nên thử dùng chút tâm lực duy nhất điều động kiếm hồn. Quá khứ, mỗi lần gã thử đều cực kỳ vất vả, phảng phất kéo từng chút một khỏi khe hở bằng thép, đặc biệt là lần cùng Đường Mật và Bạch Chỉ Vi tạo ra ảo ảnh đấu với Thanh Nguyên tự, gã cảm giác tâm tạng đau đớn cơ hồ nghẹt thở. Nhưng lần này, có lẽ vì không nhất định phải xông vào, lòng không nhất thiết phải đột phá trở ngại, nên tâm lực như dòng khí ấm từ nham thạch chảy ra, hòa hoãn nhưng liên miên bất tuyệt.

Cảm giác thông sướng kỳ dị này khiến gã hớn hở, kiếm hồn hồi ứng mang lại cho gã cảm thụ chân thực rằng cây kiếm trong tay tích đủ sức mạnh. Khoảnh khắc đó, kiếm không còn bị thân thể gã khống chế mà tự xuất ra một kiếm.

Nhát kiếm vạch lên một đường hoàn mỹ cắt ngang hai con mãnh hổ đang ác đấu, Hoàn Lan và Lý Liệt tách ra hai bên, kinh ngạc trước sức mạnh từ kiếm của Trương Úy, gần như đồng thời thốt lên: “Sao ngươi…”

“Chúng ta khó khăn lắm mới gặp được Lý Liệt, nên hỏi y toàn thể sự việc, dù sao chúng ta cũng chỉ đoán mò.” Trương Úy giải thích.

Lý Liệt định thần lại, theo tình thế thì y không thể chiến thắng đối phương có tới hai người hợp lực, nên không nói thêm gì, tra kiếm vào vỏ, quay người đi ra. Trương Úy hét to: “Lý Liệt đứng lại, là nam nhân thì không được sợ chứng kiến chân tướng.”

Lý Liệt hơi run lên, không ngoái lại, loạng choạng chạy khỏi quán cơm.

Đường Mật không hỏi Hoàn Lan nguyên nhân vì sao nói dối là nó chết rồi, tựa hồ nó cảm giác được nhưng không nắm bắt được nên chọn cách giả vờ không biết. Nó cố ý hào hứng kể lại việc ở Dị bảo quán cùng dự định mua Như ý câu, đoạn tính cách gom đủ một ngàn đồng.

Lần trước cả nhóm lấy được không ít đồ quý từ Xích phong tứ dực xà nhưng lần này đi tỷ võ nên không mang theo. Hoàn Lan tuy là chủ nhà nhưng vì là công tử chưa thành niên, chỉ có bổng lộc hàng tháng, nhất thời cũng không moi đâu ra nhiều tiền, cả bốn gom lại cũng còn thiếu nhiều. Bạch Chỉ Vi ngẫm nghĩ một lúc, móc ra bông hoa sen thủy tinh được “chia phần” lần trước: “Vật này ta vẫn mang theo bên mình, không có tác dụng gì, bán đi chắc cũng được ít tiền.”

Trương Úy đưa tay ngăn lại: “Không được, ngươi thích nó như thế, không thể bán.”

Đường Mật cũng thấy không ổn, hỏi Hoàn Lan: “Chi bằng chúng ta lén lấy đồ trong cung ra bán.”

Hoàn Lan thấy dáng vẻ nó ranh mãnh như thế liền bật cười: “Đâu ra hạng ăn trộm còn hỏi chủ nhân. Không cần lấy trộm, chúng ta hỏi thẳng là được, huynh trưởng ta lúc trẻ khảng khái nổi danh thiên hạ, giờ quyết không hẹp hòi.”

Lúc Đường Mật mới nhớ ra rằng Ngụy vương năm xưa lúc còn là công tử Hoàn Thương đã nổi danh thiên hạ là khẳng khái, chợt nghĩ: Không phải một Mạnh thường quân ư, sao ở thời không này lại nảy nòi ra người thích tặng tiền cho thiên hạ thế nhỉ?

Bạch Chỉ Vi tất nhiên cũng biết danh tiếng khảng khái của Hoàn Thương, tỏ vẻ không tin: “Ngụy vương chỉ khảng khái với người có tài, chúng ta được sao?”

Hoàn Lan đáp: “Dù gì chúng ta cũng là người Thục Sơn, dựa vào điểm này thôi thì huynh trưởng cũng coi trọng mấy phần. Chỉ cần lúc nói chuyện không quá đáng, chắc không thành vấn đề. Hà huống, ta hiếm khi xin huynh ấy cái gì, thi thoảng mới nhờ chắc không nỡ từ chối.”

Chỉ là cuối năm Ngụy vương quá bận, bốn đứa đợi hai ngày mới được truyền triệu, địa điểm triệu kiếm không chính thức, là Noãn các mà cung nhân nghỉ chân sau khi đi chơi ngự hoa viên. Đường Mật cho rằng chốn riêng tư này lại tiện cho việc mượn tiền.

Ngụy vương Hoàn Thương là huynh trưởng của Hoàn Lan, mới hơn ba mươi, bất quá mặc y phục bằng gấm thêu màu lam, trông trẻ hơn nhiều. Y tùy ý tựa lên ghế mềm, khí độ cao nhã, gương mặt khá giống đệ đệ, vì khóe mắt hơi trễ xuống nên không cười cũng đượm nét cười.

Lúc nói chuyện, Ngụy vương cũng dùng thái độ trò chuyện bình thường: “Đó là bằng hữu của Lan hả, đúng là những hài tử xuất sắc.”

So ra, Hoàn Lan giữ lễ hơn, thái độ khiêm cung của thần tử: “Vâng, đấy là Đường Mật, Bạch Chỉ Vi và Trương Úy, đều là bằng hữu tốt của Lan ở Thục Sơn.”

Ngụy vương ngồi xuống, nhìn Đường Mật hỏi: “Kiếm đồng thụ thương đấy hả, khỏi rồi chứ?”

“Thưa vương thượng, Mật đã khỏi rồi.” Đường Mật định thêm kiểu mấy câu vỗ mông ngựa kiểu ‘nhờ hồng phúc của vương thượng’ nhưng thấy Ngụy vương tuy tỏ ra thân thiết nhưng lại ngầm chứa uy nghiêm thì không dám nói ra. Ngụy vương lúc trẻ từng tu luyện ở Thục Sơn, làm môn hạ Khí tông nên rất vui vẻ gặp mấy đứa, hỏi han tình hình hiện tại của Thục Sơn, nghe nói huynh đệ Mục Hiển, Mục Hoảng không còn thì buồn bã. Trong lúc trò chuyện, bầu không khí dần nhẹ đi, Ngụy vương nói với khẩu khí nửa đùa nửa thật: “Lúc ta ở Thục Sơn không được xuất sắc như Lan, ngũ đại điện thí cũng chỉ miễn cưỡng lắm mới qua được, đành vào Khí tu thân dưỡng tính.”

Đường Mật thấy Ngụy vương ngang tuổi với Cố Thanh Thành, hỏi: “Vương thượng có biết tông chủ của bọn Mật không?”

“Tất nhiên, đại danh Cố Thanh Thành có ai không biết, hai mươi tám tuổi trở thành nhất tông chi chủ quả thật tiền vô cổ nhân hậu vô lai giả.” Ngụy vương cũng hơi cảm khái: “Kỳ thật bản vương còn có vài cố nhân giao tình không tệ ở lại Thục Sơn, ví như Chúc thủ thư của các vị năm xưa là tiểu huynh đệ vẫn theo đuôi ta. Còn cả hiệp nữ danh mãn giang hồ Tư Đồ Duyệt, năm xưa bản vương từng có ý với Tư Đồ cô nương nhưng người ta không thích chốn thâm cung cao tường, nên sau cùng không có duyên.”

Tư Đồ Duyệt là con gái duy nhất của Tư Đồ Minh, trước khi thành hôn được xưng tụng là giang hồ đệ nhất mỹ nữ, tuy bọn Đường Mật chưa gặp nhưng đã nghe danh. Những lời này lọt vào tai người khác thì chỉ mỉm cười nhưng Hoàn Lan nghe xong lại nhớ đến hôm cùng Đường Mật và Bạch Chỉ Vi đứng trên nóc điện nhìn dáng vẻ mấy nữ tử thị tẩm, lập tức hiểu rõ rằng hai cô đều là nữ tử tự do như thế, nếu có một toàn cung điện vây họ lại thì họ nhất định sẽ mọc cánh bay đi. Ý niệm vừa nảy ra, lòng y thoáng bất an, cảm giác những lời định nói với Đường Mật vẫn ẩn sâu trong lòng càng khó mở miệng.

Ngụy vương nhận ra Hoàn Lan hơi lơ đãng, hỏi: “Lan đang nghĩ gì?”

Hoàn Lan định thần, cố che giấu tâm trạng, cúi đầu xuống tránh ánh mắt huynh trưởng: “Đệ đang nghĩ với tính cách của Chúc thủ thư mà cũng có lúc là tiểu huynh đệ của người khác. Mục tông chủ đã khứ thế không thích thủ thư, nói là thủ thư đi theo tà lộ.”

Ngụy vương khẽ hừ: “Cái gì là tà lộ, không hợp với ý nguyện của Đọa Thiên đại nhân là tà lộ hả? Ai biết được Đọa Thiên hay Ma vương gì đó đều là hậu nhân thêm mắm dặm muối tô vẽ vào. Đệ có biết hai người đó sinh ra chỉ sử dụng cái tên đó có một lần, cũng là lạc khoản năm xưa ở Thanh Nguyên tự, sau này tra xét khắp văn thư của họ, bất kể tư hàm hay công hàm, đều tự xưng tên hoặc xưng tên đối phương mà thôi. Nên ý nguyện của Đọa Thiên đại nhân cũng thế mà thôi, chúng ta nào biết ý nguyện chân chính của đại nhân là gì.”

Đường Mật cũng thấy có lý, tiếp lời: “Đúng vậy, hiện nay tài phú của Thục Sơn e rằng Đọa Thiên đại nhân năm xưa không ngờ được. Còn nữa, đại nhân khai sáng Thục Sơn phái vốn định cung cấp nhân tài cho các nước, e rằng không ngờ trăm năm sau lại biến thành mạng lưới quan hệ phức tạp thế này. Dù sao thì không ai là thần minh, dù bố trí kỹ càng mọi sự sau khi khứ thế cũng không thể khống chế hết mọi bất ngờ, người đương thời sao lại cứ khư khư theo cổ nhân.”

Nó nói cực kỳ hợp tâm ý Ngụy vương, y vỗ bàn đứng dậy, lộ vẻ kinh thán: “Nói hay lắm.” Đường Mật vui mừng, biết lần này một ngàn đồng coi như mượn được.

Ngụy vương quả nhiên không hổ danh khảng khái, bốn đứa thuận lợi mượn được tiền, dùng xe ngựa trong cung chở đến Dị bảo quán.

Lão bản nhận ra xe ngựa có phù hiệu vương cung, càng khách khí hơn với bọn Đường Mật, nhưng vẫn chưa tìm được tin tức về ngọn đèn, bất quá lão chỉ trời chỉ đất thề rằng, chỉ cần trên đời từng xuất hiện thì Dị bảo quán sẽ tra ra.

Ngược lại việc sửa Trầm Địch khiến lão bản bó chân bó tay, xem xét hồi lâu rồi lật xem một loạt sách, sau cùng mới kết luận: “Đúng là bảo châu Trầm Địch, pháp bảo phòng ngự mạnh nhất trên đời.” Đoạn ngẩng lên hỏi Trương Úy: “Lẽ nào thật sự bị Cùng Kỳ làm hỏng? Tiểu tử xác định xem trước đó có bị công kích nào lợi hại không?”

Trương Úy hồi tưởng lại: “Không có, trước khi gặp Cùng Kỳ thì yêu vật thụ yêu và Xích phong tứ dực xà đều không lợi hại bằng.”

“Lúc bị thụ yêu và Xích phong tứ dực xà công kích, lực phòng ngự của Trầm Địch thế nào?” Lão bản hỏi.

“Tốt lắm, bị yêu vật công kích lợi hại thì làn sáng của viên ngọc lúc sáng lúc tối. Nhưng không phòng ngự được dịch thể của thụ yêu và Xích phong tứ dực xà.”

Lão bản càng không hiểu, vuốt chòm râu bạc đi lại trong tiệm, lắc đầu: “Không đúng, không đúng, không phải không chống được dịch thể, thứ thụ yêu và Xích phong tứ dực xà phun ra là pháp thuật của yêu vật, Trầm Địch là bảo vật chuyên môn phòng ngự pháp thuật của yêu vật, dã thú công kích, sao lại không chống nổi? Nghĩ lại xem trước đó có gặp phải công kích pháp thuật nào cực mạnh không?”

Trương Úy nghĩ kĩ rồi nói: “Có lẽ là lần đầu tiên tiểu tử bị công kích nhưng không dám xác định có phải công kích pháp thuật hay không. Đấy là lần đầu tiên tiểu tử lên Kiếm tông học kiếm thuật từ khi gia nhập Ngự Kiếm đường, nghe nói có đường tắt đi xuyên qua Ảo hải hạ sơn, liền mang Trầm Địch đi thử. Lúc đến giữa rừng đột nhiên cảm giác trước mắt sáng trắng, mắt bị ánh sáng chiếu vào không mở ra được, lúc đó còn tưởng bị mù rồi, không ngờ thoáng sau ánh sáng tan biến, tất cả trở lại nguyên dạng, còn tiểu tử không hề hấn gì.”

Gã vốn không cho việc đó quan trọng gì, lại xảy ra trước khi quen Đường Mật và Bạch Chỉ Vi nên không nhắc với hai cô. Cả hai nghe xong nhìn nhau, cảm giác lần tế ngộ đó của đầu to không tầm thường, nhưng nhất thời không nói ra được bất thường ở đâu.

Lão bản không dám định luận, chỉ bảo: “Việc này thì lão phu không dám đoán mò, nếu tiểu tử từng gặp phải công kích pháp thuật cực mạnh thì dễ giải thích vì sao Trầm Địch yếu ớt như thế, sức mạnh của nó đại khái chỉ tan biến vào hai nơi. Một là tiêu hao hết lúc chống lại công kích, hai là rời khỏi bảo châu để bảo vệ những bộ phận quan trọng của ngươi, sau đó vì tiêu hao quá nhiều nên sức mạnh còn lại không thể quay về viên ngọc.”

Đường Mật và Bạch Chỉ Vi gần như cùng chỉ vào Trương Úy kêu lên: “Đầu to, ở trong mình ngươi.”

Trương Úy cùng Hoàn Lan giật mình, Trương Úy ngẩn người, nhưng không dám khẳng định hoàn toàn: “Các ngươi muốn nói là sức mạnh Trầm Địch ngăn trở ta phát huy tâm lực?”

“Đúng, rất có thể. Như lão bản nói, sức mạnh của Trầm Địch thì một phần bảo vệ tâm ngươi, không để pháp thuật xâm hại, đồng thời khiến ngươi không thể phát huy tâm lực.” Bạch Chỉ Vi suy đoán.

“Đầu to, nghĩ thử xem, lần đầu tiên phát giác cảm ứng không nổi tâm lực là sau đó hả?” Đường Mật hỏi.

“Đúng, nhưng trước đó ta chưa từng thử điều động tâm lực nên không hiểu…” Trương Úy vẫn thấy sự tình quá bất ngờ, không dám khẳng định.

“Đừng cả nghĩ, nhất định là thế, về Thục Sơn chúng ta sẽ đến Ảo hải điều tra, chưa biết chừng giúp được ngươi thi triển tâm lực.” Đường Mật nói.

Hoàn Lan nãy giờ không nói gì chợt hỏi: “Trương Úy, sức mạnh kiếm hồn của ngươi là thế nào? Sao lại mạnh như thế?”

Trương Úy giải thích: “Sức mạnh vốn có của kiếm hồn đó có lẽ không tan biến. Lúc ta cầm kiếm lên, kiếm hồn nói là đang đợi ta.”

“Việc này hiếm khi xảy ra.” Lão bản chen lời: “Đại khái kiếm chủ tiền nhiệm khi chết đi còn mang di nguyện hoặc không cam lòng cao độ, vẫn hi vọng về sau có người hoàn thành giúp. Hiếm có lắm, thật sự hiếm có.”

Đường Mật và Bạch Chỉ Vi nhìn nhau, từ thần sắc đối phương cùng đoán ra một việc. Đường Mật nhíu mày, mím chặt môi nhìn Trương Úy và Hoàn Lan, ngẫm nghĩ hồi lâu mà không nói gì.

Hôm sau là ngày đầu tiên tân xuân du yến ở Ngụy vương cung. Ngụy cung du yến nổi danh bốn nước, khoản đãi văn võ trong triều cùng gia quyến, cả sứ thần các nước và tân khách. Du yến suốt ba ngày hai đêm, bày biện thịnh soạn, mỹ vị trân quý như nước chảy, ca vũ người đẹp vô vàn. Yến hội xa hoa như thế là chủ ý của Ngụy vương Hoàn Thương, ban đầu trong triều còn lời ra tiếng vào nhưng y trị quốc hữu đạo, quốc khố ăm ắp, hơn nữa yến hội sẽ thể hiện cho sứ thần nước khác thấy được quốc lực của nước Ngụy, cộng thêm mời nhiều tân khách, cả quan viên cấp thấp cũng được mang gia quyến đến dự, càng biểu hiện được rằng vương gia vui cùng dân chúng, dần dần yến hội trở thành việc lớn được nhiều người mong đợi.

Nội dung du yến ngày đầu tiên là Ngụy vương dẫn chúng nhân bái phật tế trời, nghênh tiếp tân niên, còn từ buổi tối thì mọi trò vui mới bắt đầu.

Màn đêm buông xuống, ngự hoa viên thắt lên vô số hoa đăng, nội thị trong cung giả thành tiểu thương buôn bán ngoài đường, thuê cả người Hồ biểu diễn, biến hoa viên vương gia thành lễ Nguyên tiêu chốn dân gian.

Hoàn Lan là ấu tử của tiên vương nên không có giá trị chính trị gì, miễn được nhiều nghi thức, cùng ba người bọn Đường Mật du ngoạn hoa viên.

Bốn đứa đang thú vị, Trương Úy chợt dừng bước. Gã thấy cách không xa lắm là Tư Đồ Thận đang ngẩng đầu đoán một câu đố treo dưới đèn cá chép. Gặp y ở yến hội cũng không có gì lạ, gia đình y nhân đinh hưng vượng, nhân tài ăm ắp, đại ca Tư Đồ Thầm là Tả tư mã của nước Ngụy. Có điều cạnh y là một thiếu nữ, tuy quay lưng lại nhưng Trương Úy vẫn nhận ra.

Là Quân Nam Phù.

Cô ghé mặt tới, sắc mặt hơi đỏ lên, gương mặt vốn cực kỳ mỹ lệ sáng lên như ngọc dưới ánh đèn. Tư Đồ Thận chỉ vào ngọn đèn nói gì đó, cô mỉm cười, chuỗi vòng ngọc đeo trên tóc khẽ chấn động, quang hoa lấp lóe như ngàn sao rơi trên ba ngàn sợi tóc xanh. Tư Đồ Thận cũng cười, nắm tay Quân Nam Phù, rất tự nhiên đi về giữa hoa viên, nơi đèn đuốc rực rỡ.

Lòng Trương Úy thắt lại, nhất thời quên cả mình đang ở đâu, bốn phía là vô số dải sáng, tiếng người xa xa gần gần đều biến thành mơ hồ, cơ hồ quay lại đêm Nguyên tiêu, thiếu nữ mặt mũi rực rõ Như Hoa đào đứng cạnh gã, chỉ vào câu đố treo dưới đèn nói: “Đơn giản mà, muội biết đáp án, không hiểu đã có ai trả lời chưa.” Rồi gã kéo tay cô đi xuyên qua đám đông, nói: “Nhanh lên, đừng để bị người ta trả lời trước.”

Khi đó, bàn tay gã được nắm lấy. Nóng bỏng. Mềm mại.

Gã cảm giác cơn đau trong lòng lan ra, như mất đi tâm tạng, bèn thò tay sang nắm lấy bàn tay thon thả bên cạnh, nói: “Đi, đi mau.” Gã nhấc chân lao vút đi giữa vô vàn đèn lửa, tất cả hòa thành quang ảnh hư ảo. Gã từ chỗ tói lao ra chỗ sang rồi lại vào chỗ tối, chạy tứ tung, không hiểu tìm kiếm hay quên đi.

“Đứng lại.” Sau lưng gã vang lên giọng nói băng lạnh.

Bàn tay gã cũng lạnh. Giọng nói đó khiến gã tỉnh mộng, ngoái nhìn Bạch Chỉ Vi áo đỏ như lửa đứng sau lưng. Gã khẽ rút tay khỏi tay cô, nhãn thần bình tĩnh đến độ gần như tê cứng.

Gã nghe thấy cô nói: “Trương Úy, lúc nào ngươi cần an ủi, ta đều sẵn lòng, nhưng không phải lúc này.”

Bạch Chỉ Vi nói đoạn, không quay đầu lại đi luôn, để lại Trương Úy đứng ngơ ngẩn giữa rừng đèn đuốc. Đường Mật thấy gã nhận ra Quân Nam Phù rồi thì kéo Bạch Chỉ Vi chạy đi, nhất thời không kịp phản ứng, ngẩn ngơ nhìn hai đồng bạn tan biến trong ánh sáng mênh mông.

Hoàn Lan phát hiện chỉ còn lại y và Đường Mật, lòng chợt run lên, nhìn thiếu nữ đứng dưới ánh đèn quay lại mỉm cười: “Họ đi xa rồi, hai người đó làm gì nhỉ?”

“Chúng ta cùng đi thôi.” Y đáp, cố làm ra vẻ thoải mái.

Đường Mật đang có tâm sự, không muốn đến chỗ náo nhiệt, liền tùy ý chọn chỗ thưa thớt đèn đuốc. dl đi theo, ngẩng lên mới nhận ra không hiểu trăng trốn vào đám mây từ lúc nào, sát na đó túc mệnh kỳ dị đẩy y tiến bước, thầm nhủ: Chốc nữa, nếu người đó quay lại, ta sẽ nói…

Đường Mật ngoái lại, tứ phía là bóng đêm dày đặc, chỉ có nó đáng đứng trong ánh đèn vàng tỏa sáng lấp lánh.

Nó định nói thì Hoàn Lan ngăn lại: “Ngươi nghe ta nói đây, mẫu thân ra hiếm khi cười. Trong trí nhớ của ta, chỉ khi ta tỷ kiếm thắng mấy vị vương huynh thì mẫu thân mới cười, ta cho rằng đó là nụ cười đẹp nhất đời.”

Thiếu nữ dưới ánh đèn sững người, không hiểu đối phương muốn nói gì.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play