Laura mừng được cùng Carrie tới trường vào sáng thứ hai. Khi hai chị em chọn hướng bước qua những vũng băng trên phố, Carrie thở ra một hơi dài sung sướng:

- Thật là tuyệt là lại được cùng nhau đi học. Hình như không bao giờ hợp lý nếu không có chị.

Laura đáp:

- Chị cũng cảm thấy như thế.

Khi cả hai tới trường, Ida kêu lên mừng rỡ:

- Xin chào cô giáo!

Tất cả đều rời lò sưởi xúm quanh Laura:

- Thấy như thế nào khi tự mình đứng lớp?

Ida hỏi, mũi cô sưng đỏ vì lạnh nhưng cặp mắt nâu của cô rạng rỡ hơn khi nào hết.

- Có vẻ tốt.

Laura trả lời và siết chặt tay Ida trong khi những người khác chúc mừng trở lại trường. Ngay cả Nellie Oleson cũng có vẻ thân mật. Nellie nói:

- Bồ có khá nhiều chuyến xe rồi. Bây giờ bồ đã về nhà, có lẽ bồ sẽ đem theo vài người chúng tôi đi cùng.

Laura chỉ đáp:

- Có lẽ.

Cô thắc mắc không hiểu Nellie đang tính gì lúc này. Rồi thầy Owen rời bàn bước tới chúc mừng Laura. Ông nói:

- Chúng tôi rất vui thấy em lại quay về với chúng tôi. Tôi có nghe nói em dạy rất tốt lớp của mình.

Laura đáp:

- Cảm ơn thầy. Em rất mừng được trở lại.

Cô muốn hỏi xem ai đã nói với thầy về việc dạy học của cô nhưng dĩ nhiên cô không thể hỏi.

Buổi sáng bắt đầu với một chút lo lắng vì cô sợ sẽ tụt lại so với các bạn cùng lớp nhưng cô nhận ra rằng cô còn khá hơn cả việc bắt kịp họ. Tất cả bài tập đọc chỉ là ôn lại các bài cô đã học suốt những buổi tối khốn khổ ở gia đình Brewster. Cô thuộc bài hoàn hảo và dĩ nhiên vẫn đứng đầu lớp.

Cô cảm thấy sung sướng tự tin cho tới giờ giải lao.

Lúc đó các cô gái bắt đầu nói vè bài tham luận của họ và Laura khám phá ra thầy Owen đã dạy lớp ngữ pháp viết vì bài học trong ngày là một bài luận văn nói về “Tham vọng.”

Lớp ngữ pháp được gọi lên trả bài ngay sau giờ giải lao. Laura kinh hoàng. Cô không bao giờ viết một bài luận văn và lúc này cô phải làm trong vài phút cái việc mà những người khác làm từ hôm qua. Tất cả đã viết bài luận văn ở nhà và bà Brown đã giúp Ida viết bài của cô ấy. Bà Brown viết cho các tờ báo của giáo hội nên bài luận văn của Ida rất tốt.

Laura không biết bắt đầu như thế nào. Cô không biết gì về tham vọng. Chỉ một ý nghĩ hiện ra trong đầu cô là cô sẽ thất bại ở chính lớp học mà cô luôn dẫn đầu. Cô không nên thất bại, cô không thể như thế. Cô không thất bại được. Nhưng viết một bài luận văn như thế nào? Cô chỉ còn lại năm phút.

Cô nhìn vào tấm bìa da màu vàng của cuốn tự điển dựng sát bàn thấy Owen. Cô nghĩ có lẽ mình sẽ tìm được một ý nghĩ khi đọc những dòng định nghĩa từ tham vọng. Ngón tay của cô tê cóng khi cô lật vội những trang giấy vần A, nhưng định nghĩa khá thú vị. Quay lại chỗ ngồi, cô viết nhanh tối đa và cố viết một cách tuyệt vọng trong lúc những người khác được gọi tên theo thứ tự. Cô cảm thấy khổ sở vì bài viết của cô không ra sao nhưng không còn thời giờ để viết lại hoặc thắt gì.

Lần lượt khi được gọi tên, từng người đọc bài luận văn của mình trong khi tim Laura nặng trịch. Mỗi người hình như đều hơn hẳn cô. Cuối cùng, thầy Owen gọi “Laura Ingalls” và cả lớp xì xào khi mọi người cùng nhìn cô chờ đợi.

Laura đứng lên và đọc lớn những gì cô đã viết. Đây là bài tốt nhất mà cô có thể làm nổi:

THAM VỌNG

Tham vọng rất cần thiết cho mọi sự hoàn thành tốt đẹp. Không có tham vọng đạt tới một đích nhắm sẽ không có gì được làm xong. Không có tham vọng làm trội hơn người khác và vượt khỏi chính mình sẽ không vươn tới nổi phẩm chất xuất chúng. Để thành công về bất kì điều gì, chúng ta cần phải có tham vọng để thực hiện.

Tham vọng là một đầy tớ tốt nhưng là một ông thầy dở. Khi nào chúng ta còn kiểm soát được tham vọng thì nó rất tốt, nhưng sẽ vô cùng nguy hiểm nếu chúng ta bị tham vọng ngự trị. Lúc đó, tôi thấy cần nhắc lại một câu nói của Shakespeare: “Cromwell, ta lệnh cho ngươi từ bỏ mọi tham vọng. Chính các thiên thần cũng sa đọa bởi tội lỗi đó.”

Tất cả chỉ có thế. Laura đứng chờ đợi lời phê bình của thầy Owen một cách khổ sở. Ông nhìn cô bằng ánh mắt sắc sảo và lên tiếng:

- Em đã soạn bài luận văn này từ trước?

Laura nói:

- Thưa thầy, không. Đây là lần viết đầu tiên của

Thầy Owen nói với cô:

- Này, em đã viết luận văn nhiều rồi. Tôi không tin bất kì ai có thể viết tốt như thế trong lần đầu.

Laura lắp bắp trong nỗi kinh ngạc:

- Nó có vẻ ng… ngắn quá… Nó gần giống như tự điển…

- Nó không giống tự điển nhiều.

Thầy Owen nói thêm:

- Không có chỗ nào cần sửa chữa. Nó đạt mức điểm một trăm. Lớp học chấm dứt.

Bài viết không còn mức điểm cao hơn để cho. Laura vẫn tiếp tục đứng đầu lớp. Lúc này cô tự tin rằng với sự làm việc bền bỉ cô sẽ giữ vững vị trí đầu lớp của mình và cô sung sướng chờ đợi viết thêm các bài luận văn.

Thời giờ không kéo dài hơn. Tuần lễ đó qua như ánh chớp và vào thứ sáu, khi Laura cùng Carrie về nhà ăn cơm trưa, bố nói:

- Bố có một thứ cho con, Laura.

Mắt bố lóe sáng khi bố lôi từ trong túi ra cuốn sách bỏ túi của mình. Rồi bố lần lượt đặt lên bàn tay cô bốn tờ giấy mười đô la.

Bố giải thích:

- Sáng nay bố gặp Brewster. Ông ấy nhờ bố chuyển số tiền này cho con và nói con đã dạy lớp học thật tốt. Mọi người đều muốn con trở lại đó vào mùa đông tới. Nhưng bố nói với ông ta là con không muốn lại phải đi xa nhà trong mùa đông. Bố biết không có sự dễ chịu ở nhà Brewster dù con không hề phàn nàn gì và bố tự hào về việc con đã theo đuổi tới cùng, Laura.

- Ôi, bố! Việc đó rất đáng giá.

Laura nói một cách như hụt hơi.

- Bốn mươi đô la!

Cô vẫn biết là cô kiếm được bốn mươi đô la, nhưng những tờ giấy bạc nằm trong tay mới có vẻ là thực tế lần đầu. Cô ngắm chúng bằng ánh mắt khó tin là thực, dù ngay trong lúc này. Bốn tờ giấy mười đô la; bốn mươi đô la.

Rồi cô đưa cho bố.

- Này, bố, bố cầm và giữ cho Mary. Số tiền này sẽ đủ cho chị ấy về nghỉ hè ở nhà, phải không bố?

- Dư cho việc đó và còn vài việc nữa.

Bố nói khi gấp những tờ giấy bạc lại ghép vào trong cuốn sách bỏ túi.

Carrie kêu:

- Ô, Laura, vậy là chị đi dạy học để không được gì hết sao?

Laura sung sướng trả lời:

- Tất cả tụi mình sẽ được gặp Mary trong mùa hè này. Chị chỉ đi dạy học vì Mary thôi.

Thật là một cảm giác kì diệu khi cô biết rằng cô có thể giúp ích được nhiều như thế. Bốn mươi đô la. Khi ngồi vào bàn ăn trong gian nhà bếp ấm cúng, cô nói:

- Con ước là con có thể kiếm được nhiều hơn.

Mẹ nói một cách bất ngờ:

- Con có thể nếu con muốn. Sáng nay bà McKee nói bà ấy muốn có con giúp bà ấy vào các ngàythứbảy. Bà ấy có nhiều mối áo may không thể một mình làm xuể và muốn trả con năm mươi xu với bữa ăn trưa.

Laura kêu lên:

- Ô! Mẹ có nói là con sẽ làm không, mẹ!

Mẹ mỉm cười:

- Mẹ nói con có thể làm, nếu con thích.

Laura nôn nóng hỏi:

- Khi nào? Ngày mai?

Mẹ nói:

- Tám giờ sáng mai. Bà McKee nói không chuẩn bị cho con làm trễ. Chỉ từ tám giờ đến sáu giờ trừ phi có việc gấp, bà ấy sẽ trả thêm bữa ăn tối nếu con ở lại làm xong một việc gì đó đến tối.

Bà McKee là thợ may trong thị trấn. Gia đình McKee là người mới tới thị trấn sống trong một căn nhà mới giữa cửa tiệm đồ khô Clancyos và tòa nhà văn phòng mới ở ngay góc phốMainvà phố Second. Laura đã gặp bà McKee ở nhà thờ và thích bà ấy. Bà ấy cao, mảnh mai với cặp mắt xanh lơ hiền hòa và nụ cười rất dễ thương. Mái tóc màu hung sáng của bà được buộc trong một chiếc nơ ngay sau đầu.

Thế là lúc này thời giờ của Laura không còn trống nữa và đó cũng là một điều vui. Những ngày quay quần ở trường học trôi nhanh và suốt tuần Laura trông đợi tới ngày bận rộn may vá trong căn phòng khách của bà McKee luôn sạch bóng khiến Laura khó nhận ra vẫn có một lò bếp ở cuối phòng.

Sángchủnhật là lớp họcchủnhật và buổi lễ và mỗi chiềuchủnhật thoải mái lại có hội chạy xe. Prince và Lady xuôi theo phố với những vòng chuông êm dịu reo vui dừng lại trước cửa chờ Laura và cô đi cùng Almanzo trong chiếc xuồng trượt nhỏ phía sau những con ngựa đẹp nhất, nhanh nhất trong cuộc diễu hành chủnhật.

Nhưng tuyệt vời hơn hết vẫn là những buổi sáng và buổi tối ở nhà. Laura nhận ra chưa bao giờ cô đánh giá cao những lúc ở nhà cho tới lúc này. Không có sự câm nín ủ rũ, không có sự cãi cọ âm ỉ, không có những cơn giận bùng nổ tồi tệ.

Thay cho những thứ đó chỉ là công việc và những cuộc trò chuyện thoải mái, những câu bông lơn nho nhỏ và những buổi tối học bài ấm áp, rồi đọc sách và tiếng đàn của bố. Tuyệt vời biết bao khi nghe những điệu hát xa xưa bốc lên từ tiếng đàn của bố trong gian phòng ấm áp chan hòa ánh sáng của ngôi nhà. Laura thường nghĩ cô hạnh phúc và may mắn biết dường nào. Cô tin là không ở nơi nào tuyệt vời hơn dưới mái nhà cùng với những người thân trong gia đình.

13. MÙA XUÂN

Vào một buổi chiều thứ sáu trong tháng tư, Laura cùng Ida và Mary Power đi bộ chậm chạp từ trường về nhà. Không khí dịu và ẩm ướt, các mái hiên đang nhỏ giọt và tuyết tan lớp nhớp dưới chân. Ida lên tiếng:

- Gần như mùa xuân đã tới rồi. Lớp học chỉ còn ba tuần nữa.

Mary nói:

- Vậy là lại tới lúc chúng mình di chuyển về trại. Bạn cũng vậy chứ, Laura, đúng không?

Laura đáp:

- Mình cũng nghĩ thế. Phải nói là hình như mùa đông khắc nghiệt đã bắt đầu nhưng lúc này thì nó qua hẳn rồi.

Mary nói:

- Ừ, nếu hơi ấm này kéo dài tuyết gần như tan hết vào ngày mai. Điều đó có nghĩa là sẽ không còn trò chơi chạy xe nữa.

Laura nói:

- Ở trại cũng rất dễ chịu.

Cô nghĩ tới bầy bò con và lũ gà nhỏ, tới vườn rau đang lớn, đám rau diếp, cải củ, những khóm hành mùa xuân, những bông hoa tím, những đóa hồng dại và sự trở về nhà của Mary.

Cùng Carrie, cô băng ngang đường phố nhớp nháp vào nhà. Bố mẹ đang ngồi trong phòng ăn và một người lạ đang đung đưa trên chiếc ghế đu của Mary. Lúc Laura và Carrie do dự ngưng lại bên cửa ra vào, người lạ đứng lên khỏi ghế mỉm cười với hai chị em. Ông ta hỏi:

- Laura, không nhận ra cậu sao?

Lúc này Laura đã nhận ra. Cô nhớ ra nụ cười của người lạ hệt như nụ cười của mẹ. Cô kêu lên:

- Ô, cậu Tom! Đúng là cậu Tom!

Bố cười:

- Tôi đã nói là nó sẽ nhận ra cậu mà, Tom.

Và mẹ mỉm cười, giống hệt nụ cười của người cậu trong lúc ông bắt tay Laura và Carrie.

Carrie không nhận ra cậu vì khi ở Big Woods vùng Wiscounsin, cô mới chỉ là mộtem bé. NhưngLaura đã lên năm khi tới dự đêm dạ vũ nhân dịp làm đường ở nhà bà nội và cậu Tom có mặt ở đó.

Ông lặng lẽ tới mức cô không còn nghĩ tới ông kể từ đó, nhưng lúc này cô nhớ lại những tin tức là cô Docia cho biết về ông khi cô ghé căn nhà bên suối Plum vùngMinnesota.

Ông là một người nhỏ nhắn, điềm đạm với nụ cười hiền hòa. Ngắm ông qua bàn ăn trong bữa tối, Laura khó thể tin trong nhiều năm ông đã là một đốc công trên những con tàu chở hàng chuyên chở những khúc cây từ Big Woods xuôi theo các dòng sông. Dù nhỏ con và nói năng dịu dàng như vậy, ông đã chỉ huy những người đàn ông thô bạo và điều khiển những chuyến tải gỗ đầy nguy hiểm không hề sợ hãi. Laura nhớ lại cô Docia từng kể ông đã lao thẳng vào giữa những khúc gỗ đang bập bềnh trong một chuyến đi như thế nào và bám chặt lấy những khúc gỗ để lôi một người bị thương lên khỏi song dù ông không biết bơi.

Bây giờ ông nói chuyện thật nhiều với bố mẹ và Laura. Ông kể về vợ ông, mợ Lily và đứa nhỏ của họ, bé Helen. Ông kể về gia đình chú Henry, cô Polly, về Charley và Albert. Sau khi rời vùng Hồ Nước Bạc, họ không tớiMontana. Họ dừng lại tạiBlack Hillsvà ở lại đó, ngoại trừ Louisa. Cô gái đã lấy chồng và đi tớiMontana. Về phần cô Eli và chú Peter thì vẫn sống tại miền đôngMinnesotanhưng mấy đứa conAlice, Ella và Peter đang ở một nơi nào đó trong vùng Dakota.

Carrie và Grace mở mắt thao láo lắng nghe. Carrie không nhớ gì về những người đó còn Grace chưa bao giờ được thấy vùng Big Woods, không biết gì về dạ vũ nhân dịp làm đường cùng những dịp Giáng sinh chú Peter và cô Eliza dẫn đám anh chị em họAlice, Ella và Peter tới thăm. Laura rất buồn vì cô em nhỏ bị thiệt quá nhiều.

Giờ ăn tối qua thật nhanh và khi ánh đèn sáng lên, cả nhà lại quay quanh cậu Tom trong phòng ăn. Bố vẫn để ông tiếp tục nói về các trại cưa, các chuyến chở gỗ, những dòng sông gầm thét và những người đàn ông mạnh mẽ hoang dã trong các trại cây. Ông kể về những người đó một cách ngọt ngào, nói bằng cái giọng dịu dàng của mẹ và mỉm cười với nụ cười hiền hòa của mẹ.

Bố nói với ông:

- Vậy đây là chuyến đi đầu tiên của cậu về miền Tây?

Cậu Tom trả lời điềm tĩnh:

- Ô, không. Tôi đã tới đây cùng những ngườ da trắng đầu tiên nhòm ngó vùngBlack Hills.

Bố mẹ cùng ngớ người một lúc. Rồi mẹ hỏi:

- Cậu làm gì ở đó, Tom?

Cậu Tom nói:

- Đi tìm vàng.

Bố nói đùa:

- Quá tệ là cậu đã không thấy một vài mỏ vàng.

Cậu Tom nói:

- Chà, chúng tôi đã tìm thấy. Chỉ có điều nó không đem lại chuyện tốt lành nào cho chúng tôi cả.

Mẹ khẽ kêu lên:

- Chúa ơi! Hãy kể lại chuyện đó đi.

Cậu Tom bắt đầu:

- Nào, để coi. Chúng tôi khởi hành từ thị trấn Sioux, tám năm trước, tháng mười năm 1874.

Chúng tôi có hai mươi sáu người đàn ông và một người trong đám mang theo vợ và đứa con trai chin tuổi.

Họ di chuyển trong những toa xe phủ mui với những con bò kéo và một vài người cưỡi ngựa.

Mỗi người mang theo một cây súng trường và các vũ khí nhỏ cùng đầy đủ đạn dược kéo dài trong tám tháng. Họ chất đầy lên xe bột mì, thịt ướp muối, đậu, cà phê và quyết định săn bắn để kiếm số thịt tươi cần dùng. Săn bắn rất dễ dàng và bị dư các thứ thịt nai, linh dương. Khó khăn lớn nhất là thiếu nước trên đồng cỏ trống. May mắn, mùa đông tới sớm, tuyết rơi nhiều về đêm, họ làm tan tuyết lấy nước đầy các thùng chứa.

Thỉnh thoảng dông bão ngăn trở họ. Suốt thời gian bão tuyết, họ ngồi lại trong trại. Giữa các cơn bão, tuyết đóng cứng và làm nhẹ bớt gánh nặng đi bộ, thậm chí phụ nữ cũng đi bộ phần lớn đoạn đường. Hành trình của một ngà tốt trời là mười lăm dặm.

Thế là họ tiến vào một vùng xa lạ, không nhìn thấy gì ngoài đồng cỏ đóng băng với những cơn bão và thỉnh thoảng có vài người da đỏ ở một khoảng cách xa, cho tới khi họ tới một trũng đất lún sâu lạ thường. Trũng đất chắn ngang đường đi trải rộng thật xa về phía trước và cả hai bên. Có vẻ như không thể đưa xe xuống, nhưng không làm được gì khác hơn ngoài việc phải băng qua đó nên với rất nhiều khó khăn họ đã đưa xe xuống trũng đất.

Từ mặt trũng đất, những mô đất cấu tạo lạ lùng dựng tua tủa khắp xung quanh họ, cao hàng trăm bộ. Cạnh các mô đất dựng đứng, đôi chỗ nhô ra ở phía trên và bị vạt mòn bởi những cơn gió không ngừng thổi qua. Không có một khóm rau, một cội cây, một lùm bụi hoặc một cọng cỏ nào mọc ở đây. Mặt đất giống như một lớp bùn đóng cứng lại. Khắp trũng đất rải rác những vỏ sò, những khung sọ và những đốt xương đã hóa đá.

Cậu Tom bảo đó là một vùng hoang dã không thể sống nổi. Bánh xe lăn lạo xạo trên những đốt xương và những thứ này tựa hồ cựa mình khi đặt chân lên để bước qua, một vài thứ giống hệt như các khuôn mặt và các cảnh tượng kì dị. Xe phải lăn giữa các thứ đó khi men dọc các thung lũng. Trong lúc vòng theo những thứ quái đản này, đoàn người bị lạc. Mất trọn ba ngày họ mới tìm nổi lối ra và thêm một ngày cực nhọc đưa xe lên khỏi bờ đất cao.

Nhìn trở lại trũng đất, một vệ binh già nói với cậu Tom rằng đây hẳn là vùng đất xấu mà ông đã nghe nhắc tới trong những câu chuyện kể của người da đỏ. Rồi ông ta nói thêm:

- Tôi nghĩ rằng khi Thượng Đế tạo ra thế giới, ngài đã liệng tất cả những thứ thừa thãi vào cái hố này.

Sau đó, họ tiếp tục băng qua đồng cỏ cho tới khi dựng khu trại cuối cùng bên suối French. Tại đây, họ chặt thông trên đồi, dựng một đồn trại rộng tám mươi bộ vuông. Họ vạt nhọn những cây dài mười ba bộ ghép đứng khít với nhau và chôn sâu ba bộ dưới đất. Đất đông cứng nên đào rất cực nhọc.

Phía trong hàng rào này, họ chèn thêm một hàng rào làm bằng các khúc cây nhỏ hơn, chèn kín mọi khe hở giữa các cây lớn bằng những cọc gỗ nặng.

Ở mỗi góc đồn trại, họ dựng một công sự kiên cố bằng gỗ vượt cao lên để có thể đứng tại đó bắn dọc mé ngoài của các hàng rào. Trong các công sự này cũng như các hàng rào đều khoét lỗ hổng.

Ngõ vào duy nhất của đồn trại là một cổng rào hai lớp rộng mười hai bộ làm bằng những khúc gỗ lớn đóng chốt rất chắc bằng hai cây thông. Đó là một đồn trại rất chắc chắn khi được làm xong.

Trong trại có bảy lều nhỏ bằng gỗ và ở đó, họ đã sống qua mùa đông. Họ săn bắn để lấy thịt và đặt bẫy để lấy da. Mùa đông lạnh buốt nhưng họ vượt qua và sang mùa xuân họ thấy vàng, những thỏi vàng ở trong đất cùng rất nhiều bụi vàng trong các vụn đông giá và dưới đáy suối. Gần như cùng lúc đó, người da đỏ tấn công họ. Họ có thể cầm cự chống lại người da đỏ với đồn trại đó. Khó khăn chỉ là họ sẽ chết đói nếu không thể ra ngoài để đi săn. Người da đỏ bao vây ở phía ngoài không tấn công nhiều nhưng chặn tất cả những nhóm người kéo ra để chờ cho họ chết đói. Vì vậy, họ cắt giảm phần ăn, buộc chặt dây lưng để kéo dài thời gian chịu đựng trước khi phải giết những con bò kéo.

Rồi một buổi sáng, họ nghe thấy từ xa vang lên tiếng kèn đồng!

Khi cậu Tom nói tới đó thì Laura nhớ lại thuở nào âm vang dội lại từ rừng Big Woods khi bác George thổi chiếc kèn đồng trong quân đội. Cô kêu lên:

- Quân đội?

Cậu Tom nói:

- Đúng.

Quân đội đang tới và lúc này tất cả biết rằng họ đã hoàn toàn yên ổn. Những người canh gác la lớn và tất cả leo hết lên các pháo đài để quan sát. Họ lại nghe tiếng kèn đồng. Liền đó, họ nghe thấy tiếng trống quân nhạc rồi nhìn thấy lá cờ tung bay và một đoàn quân đang tiến tới ở phía sau.

Tất cả ùa xuống, mở rào cổng chạy lao ra hết sức nhanh để chào đón đám binh sĩ. Binh sĩ lập tức bắt hết thảy giữ tại chỗ như tù binh trong khi một số tiến vào nổi lửa đốt đồn trại cùng mọi thứ trong đó. Họ đốt cháy các căn lều, các cỗ xe, các đống da và giết hết bò kéo.

Mẹ kêu lên tựa hồ không chịu đựng nổi:

- Ôi, Tom!

Cậu Tom nói một cách dịu dàng:

- Đó là đất của người da đỏ. Nói một cách dứt khoát, chúng tôi không có quyền tới đó.

Mẹ thì thầm:

- Thế là mọi người không còn gì hết do việc làm và sự nguy hiểm đó?

Cậu Tom nói:

- Tôi rời khỏi đó mất sạch mọi thứ, ngoại trừ khẩu súng. Quân đội cho chúng tôi giữ súng của mình. Họ dẫn chúng tôi đi chân đất, như tù nhân.

Bố đang đi tới lui trong phòng. Bố kêu lên:

- Tôi sẽ đấu kiếm nếu bị sỉ nhục. Không thể không xảy ra một kiểu ẩu đả nào đó.

Cậu Tom nói một cách tỉnh táo:

- Chúng tôi không thể chiến đấu chống lại toàn thể quân đội Hiệp chủng quốc. Nhưng tôi rất ghét nhìn thấy khu đồn trại bốc cháy.

Mẹ nói:

- Tôi biết. Tới hôm này tôi vẫn nghĩ về căn nhà mà chúng tôi đã bỏ lại trong vùng đất của người da đỏ. Tôi đã nghĩ ngay khi Charles lo gắn những ô kính cửa sổ cho căn nhà.

Laura nghĩ thầm:

- Tất cả mọi chuyện xảy ra cho cậu Tom khi mình đang sống ở suốiPlum.

Trong một lúc không ai lên tiếng rồi chiếc đồng hồ cũ rè rè lên một cách chậm chạp và trang trọng, chỉ gõ một tiếng.

Mẹ kêu lên:

- Chúa ơi! Coi giờ kìa! Tom, phải nói là cậu đã khiến chúng tôi mê mẩn hết. Quên cả chuyện Grace đã ngủ say. Các con gái đi ngủ thôi và Laura bồng em theo, nhớ liệng chiếc đệm nhồi lông ở giường mẹ xuống và mền nữa để mẹ làm giường ở đây cho cậu Tom.

Cậu Tom gạt đi:

- Khỏi cần lột giường của chị ra, Caroline. Tôi có thể ngủ trên nền nhà với một chiếc mền thôi, tôi vẫn làm thế và thấy là đủ rồi.

Mẹ nói:

- Tôi nghĩ là tôi và Charles chỉ ngủ trên đệm rơm có một lần này thôi. Còn cậu đã phải ngủ lạnh lẽo và thiếu thốn cỡ nào qua rất nhiều đêm trong chuyến đi đó.

Cái mùa đông lạnh lẽo qua câu chuyện của cậu Tom còn in hằn trong trí của Laura, mạnh tới nỗi sáng hôm sau cô lạ lùng nghe gió nam thổi nhẹ cùng tiếng nước mái hiên đang nhỏ giọt và biết rằng cô có mặt thoải mái ở thị trấn trong mùa xuân. Trọn ngày, trong khi Laura may vá cùng bà McKee, bố mẹ ngồi trò chuyện với cậu Tom và hôm sau chỉ có Laura cùng Carrie, Grace tới dự lớp họcchủnhật và buổi lễ. Bố mẹ ở nhà để không bỏ phí thời gian trong cuộc viếng thăm ngắn ngủi của cậu Tom. Cậu sẽ ra đi vào sáng sớm thứ hai để về nhà ởWiscousin.

Chỉ còn lại rải rác một số cụm tuyết trên mặt đất lầy bùn. Laura biết không còn những ngày vui chạy xe nữa và cô thấy nhớ tiếc.

Bố mẹ cùng cậu Tom đang nói về những người mà cô không biết trong khi tất cả ngồi quanh bàn sau bữa ăn trưachủnhật vào lúc một bóng đen vụt qua cửa sổ. Laura nghe có tiếng gõ cửa và vội vã bước ra mở cửa, thắc mắc không hiểu lí do khiến Almanzo tới. Anh nói:

- Cô có thích đi dạo chuyến xe ngựa mùa xuân đầu tiên không? Cùng với Cap, Mary Power và tôi?

Cô đáp:

- Ô, có chứ! Ông không vào nhà sao, trong lúc tôi lấy áo, mũ?

Anh nói:

- Thôi, cảm ơn. Tôi chờ ở ngoài.

Khi bước ra, cô nhìn thấy Mary và Cap đang ngồi trên băng ghế sau trong chiếc xe hai ghế ngồi của Cap. Almanzo giúp cô bước lên ghế trước và đón dây cương từ tay Cap khi anh ngồi xuống bên cạnh cô. Rồi Prince và Lady chạy ngược đường phố ra con đường trên đồng cỏ chạy về phía đông.

Không có ai khác lái xe ra đường vì không phải dịp hội vui chạy xe, nhưng Laura, Mary và Cap đều cười lớn, vui vẻ. Đường khá nhớp nháp. Nước và những cụm tuyết bắn tung lên lũ ngựa, cỗ xe và mảnh vải choàng trên đầu gối họ. Nhưng gió xuân mơn man trên mặt họ và mặt trời đang chiếu sáng ấm áp.

Almanzo không tham gia vào câu chuyệnnh chăm chú lái xe, không nở nụ cười hoặc nói tiếng nào cho tới khi Laura hỏi anh đang có chuyện gì.

- Không có gì.

Anh nói rồi hỏi nhanh:

- Người thanh niên đó là ai vậy?

Không một ai xuất hiện trong tầm nhìn. Laura kêu lên:

- Người thanh niên nào?

Anh nói:

- Người đang nói chuyện với cô, lúc tôi đến nhà?

Laura muốn nghẹn thở. Mary cười phá lên. Cô nói:

- Chớ có ghen với cậu của Laura chớ!

Laura giải thích:

- Ô, ông không biết cậu ấy sao? Đó là cậu Tom, em trai của mẹ tôi.

Mary Power tiếp tục cười mãi khiến Laura quay lại đúng lúc thấyCapGarlandchộp chiếc kẹp trên búi tóc của Mary. Cáp nói với Mary:

- Bạn sẽ phải lưu ý tới tôi.

- Ô, thôi đi, Cap! Trả lại nó cho tôi.

Mary kêu lên, cố nắm lấy chiếc kẹp mà Cap đang đưa ra khỏi tầm với của cô trong lúc anh chộp thêm một chiếc khác.

- Thôi đi, Cap! Thôi đi!

Mary năn nỉ trong lúc đặt cả hai bản tay lên búi tóc sau gáy, nói:

- Giúp mình, Laura

Laura thấy tình thế hết sức tuyệt vọng vì chỉ riêng cô biết rõ Mary mang tóc độn. Cap cần được chặn lại vì nếu Mary bị rút hết kẹp thì búi tóc đẹp của cô sẽ rớt xuống.

Đúng lúc đó, một mảng tuyết từ chân của Prince văng lên ngay vạt áo Laura. Cap đang xoay lại phía cô trong lúc giành giật với Mary. Laura gom hết mảnh tuyết và nhét vào trong áo ngay sau gáy Cap. Anh ta kêu lên:

- Ui chao! Hãy giúp bạn đi, Wilder. Hai cô gái chống lại mình tôi là quá nhiều.

- Tôi đang bận lái xe.

Almanzo trả lời và tất cả đều cười lớn. Thoải mái biết bao khi cất tiếng cười trong mùa xuân.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play