- Mukaton năm nay bao nhiêu tuổi? Hình như cũng không còn trẻ nữa thì phải?
Khabi ý nhị lấy khăn tay che miệng, ghé vào tai Hốt Tất Liệt thì thào:
- Thần thiếp nhớ là qua Tết, công chúa Mukaton sẽ bước sang tuổi ba mươi mốt.
- Ba mươi tuổi vẫn chưa sinh con ư? – Hốt Tất Liệt cau mày, vẻ mặt đầy lo âu. – Quốc sư từng nói với ta về truyền thống của giáo phái Sakya, rằng người kế nhiệm ngôi vị pháp vương của đời tiếp theo phải là con trai của người em út. Mà người em út đó phải sinh được hai người con trai, một người thừa kế pháp thống, một người nối dõi tông đường, Bạch Lan Vương mới hai mươi ba tuổi, trong khi phu nhân của cậu ấy đã ba mươi mốt tuổi mà vẫn chưa sinh con, nếu cứ như vậy, chuyện con cái phải làm sao đây?
Bát Tư Ba lén nhìn Kháp Na, ánh mắt đầu âu lo. Kháp Na chỉ cúi đầu thinh lặng. Khabi tủm tỉm cười, thẽ thọt bên tai Hốt Tất Liệt:
- Thiếp nghe nói cô cháu họ của người giữ Kháp Na chặt lắm, không cho cậu ấy đến gần bất cứ người phụ nữ nào ngoài cô ấy.
Hốt Tất Liệt tươi cười nhìn Kháp Na:
- Thế này vậy, ta sẽ ban cho cậu một mối duyên tốt đẹp khác.
Đại hãn gọi tên Tsirenja:
- Kể từ khi ta kế ngôi Đại hãn đến nay, ngươi là quý tộc Tạng đầu tiên đến chúc mừng, khiến ta rất vui. Ta quyết định thăng chức cho ngươi từ thiên hộ hầu lên vạn hộ hầu và sẽ chọn ngày tốt để sáp nhập vùng Tingri và Ngamring vào khu vực quản lý của ngươi.
Tsirenja vui mừng khôn tả, vái lạy tạ ơn. Những vùng đất này vốn là đất phong mà Mông Kha Hãn ban cho A Lý Bất Ca, Hốt Tất Liệt làm vậy là muốn đoạt lại đất đai của A Lý Bất Ca về tay mình. Hốt Tất Liệt đưa mắt nhìn sang Dankhag vẫn đang cúi đầu quỳ lạy, cười hỏi:
- Con gái ngươi năm nay bao nhiêu tuổi? Đã hứa gả cho ai chưa?
Tsirenja vội thưa:
- Bẩm, con gái Dankhag của thần năm nay trong mười sáu tuổi, vẫn chưa đính ước với ai.
- Tốt lắm, vậy ta sẽ ban hôn ước cho hai gia đình các khanh.
Yeshe đứng trong hàng ngũ quần thần, lòng như lửa đốt, liên tục đưa mắt ra hiệu cho Bát Tư Ba. Nhưng vì cậu ta đứng khuất xa nên tín hiệu hầu như không đến được với người nhận. Yeshe sốt ruột, lẳng lặng dịch chuyển lên phía trước, để có thể đến gần Bát Tư Ba. Nhưng vừa nhích lên một chút, đã nghe giọng nói sang sảng của Hốt Tất Liệt trên ngai cao vang lên:
- Ta tuyên bố ban hôn ước cho Kháp Na Đa Cát và Dankhag!
Náu mình trên xà ngang của đại điện, tôi giật mình thảng thốt, vội vàng đưa mắt quan sát biểu cảm của từng người đang có mặt khi đó. Yeshe như bị sét đánh trúng, quên sạch mọi lễ nghi, trơ mắt nhìn Hốt Tất Liệt. Kháp Na đờ đẫn hồi lâu, mới miễn cưỡng quỳ xuống lĩnh chỉ, bên cạnh là tiếng dập đầu tạ ơn vang dội của cha con Tsirenja. Bát Tư Ba vẫn điềm nhiên, bình thản như thường ngày, cậu chắp tay vái lạy Hốt Tất Liệt.
Hốt Tất Liệt cười vang:
- Ta biết tình cảm huynh đệ của hai khanh rất mực khăng khít. Những năm Kháp Na sống ở Lương Châu, quốc sư ngày đêm thương nhớ. Thế này đi, Kháp Na không cần về Lương Châu nữa. Ta sẽ ban cho cậu phủ Bạch Lan Vương kế bên phủ Quốc sư, như vậy, hai huynh đệ có thể gặp nhau hằng ngày, quốc sư cũng được vững tâm hơn.
Rồi ngài quay sang Khabi, cười rung cả râu:
- Hoàng hậu xem nên tổ chức hôn lễ vào ngày nào?
Khabi mỉm cười e lệ, dịu dàng thưa:
- Theo thiếp, hôn lễ cử hành càng sớm càng tốt, nếu không, Mukaton hay chuyện sẽ tới đây phá bĩnh đó.
Hốt Tất Liệt nổi hứng, nháy mắt với Khabi:
- Ha ha, phải lắm!
Rồi ngài hắng giọng, tuyên bố:
- Ăn Tết Nguyên tiêu xong, Mười sáu tháng Giêng là ngày lành tháng tốt, ta sẽ cùng hoàng hậu và các hoàng tử đến dự đám cưới của hai khanh.
Quần thần quỳ lạy tung hô vạn tuế. Giữa đám đông chen chân trên đại điện ấy, tôi thấy một người lén lút nhìn lên, ánh mắt chất chứa uất hận chiếu thẳng vào Bát Tư Ba.
Phủ Bạch Lan Vương nằm đối diện phủ quốc sư, đây vốn là phủ đệ của tể tướng nước Kim năm xưa. Trải qua nhiều năm chiến tranh tàn phá, kiến trúc vẫn còn nguyên. Mấy ngày qua, đội thợ được lệnh trùng tu cả ngày lẫn đêm để kịp hoàn tất ba gian nhà phía trước Vương phủ, chuẩn bị cho lễ cưới. Đội thợ bao gồm cả người Kim, người Hán và người Tạng, kiến trúc của phủ Bạch Lan Vương mang đậm đặc trưng kiến trúc của người Tạng.
Điểm nổi bật nhất là màu sắc trên tường nhà, đó là sự kết hợp đan xen của ba màu: đỏ, trắng và xanh. Màu đỏ tượng trưng cho Bồ Tát Văn Thù, màu trắng tượng trưng cho Bồ Tát Quan Âm, màu xanh tượng trưng cho Bồ Tát Kim Cương Thủ. Sự kết hợp của ba màu sắc là nét đặc sắc riêng có của giáo phái Sakya. Ở đất Tạng, phái Sakya còn được gọi là “Hoa giáo” cũng bởi nguyên nhân này. Sự phối hợp của những gam màu đậm, rực rỡ, bắt mắt khiến phủ Bạch Lan Vương trở nên rất nổi bật ở Yên Kinh, từ xa cũng có thể dễ dàng nhận ra.
Khi tấm biển “Phủ Bạch Lan Vương” được treo lên, rất đông người dân Yên Kinh đã nô nức kéo về đây chiêm ngưỡng, chỉ trong chốc lát, con ngõ nhỏ phía trước cổng phủ đã chật như nêm, người ta chỉ trỏ, bình luận rồi xuýt xoa ca ngợi, tán thưởng. Tấm biển do chính tay Đại hãn đề bút ngự ban, tìm khắp thành Yên Kinh cũng chẳng mấy ai có được vinh dự này.
Thế nhưng chủ nhân của Vương phủ nổi tiếng ấy lại chẳng ỏ ê gì đến công cuộc tu sửa nơi ở của mình, giao phó mọi thứ cho người hầu cận đáng tin cậy nhất của Bát Tư Ba là Besangbo. Cậu ấy không chịu gặp bất cứ ai ngoài Bát Tư Ba. Dankhag nhiều lần đến tìm đều phải ra về trong tức tối, ngay cả bố vợ tương lại, cậu ấy cũng chẳng buồn tiếp đón. Cậu ấy giam mình trong phủ Quốc sư, bầu bạn với rượu, uống say bí tỉ lại lăn ra ngủ, đám thợ may phải nhân lúc cậu ấy ngủ say mới dám lại gần đo đạc để may trang phục cho chú rể.
- Kháp Na, chỉ còn mấy ngày nữa là đến hôn lễ, đệ định say khướt thế này đến bao giờ hả?
Bát Tư Ba giằng lấy bình rượu trong lòng Kháp Na, tức giận ném xuống đất. Tiếng vỡ “choang” của bình rượu khiến Kháp Na tỉnh táo đôi chút.
- Đại ca đó à! – Kháp Na mắt nhắm mắt mở, đồng tử vằn vện những tia màu đỏ. – Huynh đừng lo, hôm đó đệ sẽ tề chỉnh, không để huynh mất mặt đâu. Nhưng còn vài ngày nữa, huynh hãy để cho đệ được tự do, thoải mái. Đây vốn dĩ là cuộc hôn nhân chính trị, ai bảo đệ là con trai út của giáo phái Sakya kia chứ? Đệ không thể thoát khỏi định mệnh này, chỉ có thể thuận theo. Đệ uống rượu chẳng qua vì muốn thời gian trôi nhanh hơn mà thôi.
Hơi rượu nồng nặc phả ra từ thân thể Kháp Na khiến Bát Tư Ba chau mày. Cậu ấy nhẹ nhàng phủi những hạt bụi bám trên y phục của em trai, dịu dàng động viên:
- Kháp Na, ta biết đệ chưa có nhiều tình cảm với Dankhag, đó là vì hai người mới quen biết nhau, chưa nhận ra ưu điểm của nhau thôi. Cô ấy là người Tạng, giống chúng ta, đệ chung sống với cô ấy sẽ thoải mái hơn với Mukaton. Hơn nữa, cô ấy lại trẻ trung, khỏe mạnh...
- Lại là chuyện con cái phải không? – Gương mặt Kháp Na đột nhiên trắng bệch đến đáng sợ, cậu ấy bật cười, ngắt lời anh trai. – Đệ có thích cô ấy hay không không quan trọng, quan trọng là cô ấy sẽ sinh ra người kế thừa pháp thống của giáo phái.
Hốt Tất Liệt quay lại hỏi Khabi:
- Mukaton năm nay bao nhiêu tuổi? Hình như cũng không còn trẻ nữa thì phải?
Khabi ý nhị lấy khăn tay che miệng, ghé vào tai Hốt Tất Liệt thì thào:
- Thần thiếp nhớ là qua Tết, công chúa Mukaton sẽ bước sang tuổi ba mươi mốt.
- Ba mươi tuổi vẫn chưa sinh con ư? – Hốt Tất Liệt cau mày, vẻ mặt đầy lo âu. – Quốc sư từng nói với ta về truyền thống của giáo phái Sakya, rằng người kế nhiệm ngôi vị pháp vương của đời tiếp theo phải là con trai của người em út. Mà người em út đó phải sinh được hai người con trai, một người thừa kế pháp thống, một người nối dõi tông đường, Bạch Lan Vương mới hai mươi ba tuổi, trong khi phu nhân của cậu ấy đã ba mươi mốt tuổi mà vẫn chưa sinh con, nếu cứ như vậy, chuyện con cái phải làm sao đây?
Bát Tư Ba lén nhìn Kháp Na, ánh mắt đầu âu lo. Kháp Na chỉ cúi đầu thinh lặng. Khabi tủm tỉm cười, thẽ thọt bên tai Hốt Tất Liệt:
- Thiếp nghe nói cô cháu họ của người giữ Kháp Na chặt lắm, không cho cậu ấy đến gần bất cứ người phụ nữ nào ngoài cô ấy.
Hốt Tất Liệt tươi cười nhìn Kháp Na:
- Thế này vậy, ta sẽ ban cho cậu một mối duyên tốt đẹp khác.
Đại hãn gọi tên Tsirenja:
- Kể từ khi ta kế ngôi Đại hãn đến nay, ngươi là quý tộc Tạng đầu tiên đến chúc mừng, khiến ta rất vui. Ta quyết định thăng chức cho ngươi từ thiên hộ hầu lên vạn hộ hầu và sẽ chọn ngày tốt để sáp nhập vùng Tingri và Ngamring vào khu vực quản lý của ngươi.
Tsirenja vui mừng khôn tả, vái lạy tạ ơn. Những vùng đất này vốn là đất phong mà Mông Kha Hãn ban cho A Lý Bất Ca, Hốt Tất Liệt làm vậy là muốn đoạt lại đất đai của A Lý Bất Ca về tay mình. Hốt Tất Liệt đưa mắt nhìn sang Dankhag vẫn đang cúi đầu quỳ lạy, cười hỏi:
- Con gái ngươi năm nay bao nhiêu tuổi? Đã hứa gả cho ai chưa?
Tsirenja vội thưa:
- Bẩm, con gái Dankhag của thần năm nay trong mười sáu tuổi, vẫn chưa đính ước với ai.
- Tốt lắm, vậy ta sẽ ban hôn ước cho hai gia đình các khanh.
Yeshe đứng trong hàng ngũ quần thần, lòng như lửa đốt, liên tục đưa mắt ra hiệu cho Bát Tư Ba. Nhưng vì cậu ta đứng khuất xa nên tín hiệu hầu như không đến được với người nhận. Yeshe sốt ruột, lẳng lặng dịch chuyển lên phía trước, để có thể đến gần Bát Tư Ba. Nhưng vừa nhích lên một chút, đã nghe giọng nói sang sảng của Hốt Tất Liệt trên ngai cao vang lên:
- Ta tuyên bố ban hôn ước cho Kháp Na Đa Cát và Dankhag!
Náu mình trên xà ngang của đại điện, tôi giật mình thảng thốt, vội vàng đưa mắt quan sát biểu cảm của từng người đang có mặt khi đó. Yeshe như bị sét đánh trúng, quên sạch mọi lễ nghi, trơ mắt nhìn Hốt Tất Liệt. Kháp Na đờ đẫn hồi lâu, mới miễn cưỡng quỳ xuống lĩnh chỉ, bên cạnh là tiếng dập đầu tạ ơn vang dội của cha con Tsirenja. Bát Tư Ba vẫn điềm nhiên, bình thản như thường ngày, cậu chắp tay vái lạy Hốt Tất Liệt.
Hốt Tất Liệt cười vang:
- Ta biết tình cảm huynh đệ của hai khanh rất mực khăng khít. Những năm Kháp Na sống ở Lương Châu, quốc sư ngày đêm thương nhớ. Thế này đi, Kháp Na không cần về Lương Châu nữa. Ta sẽ ban cho cậu phủ Bạch Lan Vương kế bên phủ Quốc sư, như vậy, hai huynh đệ có thể gặp nhau hằng ngày, quốc sư cũng được vững tâm hơn.
Rồi ngài quay sang Khabi, cười rung cả râu:
- Hoàng hậu xem nên tổ chức hôn lễ vào ngày nào?
Khabi mỉm cười e lệ, dịu dàng thưa:
- Theo thiếp, hôn lễ cử hành càng sớm càng tốt, nếu không, Mukaton hay chuyện sẽ tới đây phá bĩnh đó.
Hốt Tất Liệt nổi hứng, nháy mắt với Khabi:
- Ha ha, phải lắm!
Rồi ngài hắng giọng, tuyên bố:
- Ăn Tết Nguyên tiêu xong, Mười sáu tháng Giêng là ngày lành tháng tốt, ta sẽ cùng hoàng hậu và các hoàng tử đến dự đám cưới của hai khanh.
Quần thần quỳ lạy tung hô vạn tuế. Giữa đám đông chen chân trên đại điện ấy, tôi thấy một người lén lút nhìn lên, ánh mắt chất chứa uất hận chiếu thẳng vào Bát Tư Ba.
Phủ Bạch Lan Vương nằm đối diện phủ quốc sư, đây vốn là phủ đệ của tể tướng nước Kim năm xưa. Trải qua nhiều năm chiến tranh tàn phá, kiến trúc vẫn còn nguyên. Mấy ngày qua, đội thợ được lệnh trùng tu cả ngày lẫn đêm để kịp hoàn tất ba gian nhà phía trước Vương phủ, chuẩn bị cho lễ cưới. Đội thợ bao gồm cả người Kim, người Hán và người Tạng, kiến trúc của phủ Bạch Lan Vương mang đậm đặc trưng kiến trúc của người Tạng.
Điểm nổi bật nhất là màu sắc trên tường nhà, đó là sự kết hợp đan xen của ba màu: đỏ, trắng và xanh. Màu đỏ tượng trưng cho Bồ Tát Văn Thù, màu trắng tượng trưng cho Bồ Tát Quan Âm, màu xanh tượng trưng cho Bồ Tát Kim Cương Thủ. Sự kết hợp của ba màu sắc là nét đặc sắc riêng có của giáo phái Sakya. Ở đất Tạng, phái Sakya còn được gọi là “Hoa giáo” cũng bởi nguyên nhân này. Sự phối hợp của những gam màu đậm, rực rỡ, bắt mắt khiến phủ Bạch Lan Vương trở nên rất nổi bật ở Yên Kinh, từ xa cũng có thể dễ dàng nhận ra.
Khi tấm biển “Phủ Bạch Lan Vương” được treo lên, rất đông người dân Yên Kinh đã nô nức kéo về đây chiêm ngưỡng, chỉ trong chốc lát, con ngõ nhỏ phía trước cổng phủ đã chật như nêm, người ta chỉ trỏ, bình luận rồi xuýt xoa ca ngợi, tán thưởng. Tấm biển do chính tay Đại hãn đề bút ngự ban, tìm khắp thành Yên Kinh cũng chẳng mấy ai có được vinh dự này.
Thế nhưng chủ nhân của Vương phủ nổi tiếng ấy lại chẳng ỏ ê gì đến công cuộc tu sửa nơi ở của mình, giao phó mọi thứ cho người hầu cận đáng tin cậy nhất của Bát Tư Ba là Besangbo. Cậu ấy không chịu gặp bất cứ ai ngoài Bát Tư Ba. Dankhag nhiều lần đến tìm đều phải ra về trong tức tối, ngay cả bố vợ tương lại, cậu ấy cũng chẳng buồn tiếp đón. Cậu ấy giam mình trong phủ Quốc sư, bầu bạn với rượu, uống say bí tỉ lại lăn ra ngủ, đám thợ may phải nhân lúc cậu ấy ngủ say mới dám lại gần đo đạc để may trang phục cho chú rể.
- Kháp Na, chỉ còn mấy ngày nữa là đến hôn lễ, đệ định say khướt thế này đến bao giờ hả?
Bát Tư Ba giằng lấy bình rượu trong lòng Kháp Na, tức giận ném xuống đất. Tiếng vỡ “choang” của bình rượu khiến Kháp Na tỉnh táo đôi chút.
- Đại ca đó à! – Kháp Na mắt nhắm mắt mở, đồng tử vằn vện những tia màu đỏ. – Huynh đừng lo, hôm đó đệ sẽ tề chỉnh, không để huynh mất mặt đâu. Nhưng còn vài ngày nữa, huynh hãy để cho đệ được tự do, thoải mái. Đây vốn dĩ là cuộc hôn nhân chính trị, ai bảo đệ là con trai út của giáo phái Sakya kia chứ? Đệ không thể thoát khỏi định mệnh này, chỉ có thể thuận theo. Đệ uống rượu chẳng qua vì muốn thời gian trôi nhanh hơn mà thôi.
Hơi rượu nồng nặc phả ra từ thân thể Kháp Na khiến Bát Tư Ba chau mày. Cậu ấy nhẹ nhàng phủi những hạt bụi bám trên y phục của em trai, dịu dàng động viên:
- Kháp Na, ta biết đệ chưa có nhiều tình cảm với Dankhag, đó là vì hai người mới quen biết nhau, chưa nhận ra ưu điểm của nhau thôi. Cô ấy là người Tạng, giống chúng ta, đệ chung sống với cô ấy sẽ thoải mái hơn với Mukaton. Hơn nữa, cô ấy lại trẻ trung, khỏe mạnh...
- Lại là chuyện con cái phải không? – Gương mặt Kháp Na đột nhiên trắng bệch đến đáng sợ, cậu ấy bật cười, ngắt lời anh trai. – Đệ có thích cô ấy hay không không quan trọng, quan trọng là cô ấy sẽ sinh ra người kế thừa pháp thống của giáo phái.
Bát Tư Ba thở dài buồn bã:
- Những năm qua đệ sống trong sự kìm kẹp của Công chúa, ta biết đệ rất khổ sở. Ta luôn hy vọng bên cạnh đệ có một người phụ nữ hiền thục, dịu dàng, nhân hậu. Nhưng nếu không phải hôn ước do Đại hãn ban cho, chỉ e Công chúa Mukaton sẽ không chịu cho đệ nạp thêm thê thiếp khác. Nếu vậy, phái Sakya sẽ chẳng còn hy vọng gì nữa.
Kháp Na lảo đảo đứng lên, kinh ngạc nhìn Bát Tư Ba:
- Người muốn cưới Dankhag là anh ba, không phải đệ, vì sao Đại hãn lại đột nhiên ban hôn ước cho đệ? Có phải do huynh sắp đặt không?
Tôi thất kinh, quay sang Bát Tư Ba:
- Lâu Cát, vì sao cậu làm vậy? Tối hôm đó, khi Yeshe đến cầu xin cậu, cậu đã nhận lời kia mà?
- Ta chưa từng hứa với đệ ấy điều gì, ta chỉ nói rằng sẽ lo liệu.
Hàng lông mày xô lại, Bát Tư Ba quay sang nhìn người em trai chưa hết bàng hoàng:
- Nhiều ngày trước, Đại hãn nói với ta rằng ngài muốn lôi kéo Tsirenja, thăng chức cho ông ta làm vạn hộ hầu, cắt đất phong ở Tufan của A Lý Bất Ca giao cho ông ta cai quản. Khi ấy, ta đã mở lời xin Đại hãn ban hôn ước cho đệ.
Tôi sửng sốt:
- Thì ra trước khi Yeshe đến nhờ cậy, cậu đã sắp đặt xong xuôi hôn sự này rồi?
Bát Tư Ba bước đến, đỡ lấy cơ thể ngả nghiêng, xiêu vẹo của Kháp Na:
- Em ba là người có dã tâm lớn, từ lâu đã rất bất mãn với xuất thân thấp kém của mình, chắc chắn ngày sau sẽ chẳng chịu an phận. Sau khi được phong làm vạn hộ hầu, đất đai của Tsirenja sẽ tăng gấp mười lần. Nếu để đệ ấy cai quản vùng đất lớn như thế, chỉ e sẽ sinh lòng phản trắc, khi ấy, phái Sakya nguy mất.
- Nếu đệ cưới Dankhag thì huynh chẳng còn phải bận tâm gì nữa. Thanh thế và thực lực của giáo phái sẽ ngày càng mạnh hơn. Ngoài ra, huynh có thể mượn danh nghĩa của Đại hãn buộc Mukaton phải chấp nhận việc đệ nạp thêm thê thiếp, như vậy, giáo phái sẽ không phải lo việc không có người kế nghiệp nữa. Ha ha, đại ca thật khéo tính toán!
Kháp Na gạt tay Bát Tư Ba ra khỏi người mình, tiếng cười chất chứa nỗi chua cay, giận dỗi:
- Thế nên huynh chẳng thèm hỏi xem đệ có bằng lòng hay không, đã vội sắp xếp tất cả!
- Kháp Na, ta làm thế là vì đệ!
Bát Tư Ba vốn định bước đến khuyên giải nhưng cậu ấy sững lại khi nhận ra nỗi bi thương chất chứa trong đôi mắt em trai. Cậu ấy buồn bã, cắn chặt răng, quay đầu bước đi:
- Nhưng nếu đệ không muốn, ta không ép đệ. Bây giờ ta sẽ đi cầu xin Đại hãn hủy bỏ hôn ước này.
Kháp Na chặn Bát Tư Ba lại, cậu nhìn anh trai chằm chằm, nỗi bi ai như mây đen vần vũ trong mắt. Cậu hé môi cười, nụ cười đẹp đến thê lương:
- Đại ca không cần đâu. Đệ cưới ai cũng thế cả thôi, chỉ cần việc đó có ích cho huynh là được.
Bát Tư Ba lắc đầu chua xót:
- Kháp Na, ta không muốn thấy đệ như vậy.
Rồi chừng như chợt nghĩ ra điều gì, cậu ấy nắm chặt tay Kháp Na, sốt sắng hỏi:
- Kháp Na, người mà đệ thương là ai? Hãy cho ta biết, dù cô ấy là ai, dù cô ấy có thân phận ra sao, dù cô ấy thuộc tộc người nào, ta xin thề với Phật Tổ, nhất định sẽ hỏi cưới cô ấy cho đệ bằng mọi giá!
Kháp Na đờ đẫn rút tay mình ra khỏi bàn tay của anh trai:
- Đệ không có ai cả.
Không muốn cho Bát Tư Ba cơ hội tiếp tục gặng hỏi, Kháp Na tỏ ra bực bội, xoay lưng về phía anh trai:
- Đệ mệt rồi, đệ muốn nghỉ ngơi.
Bát Tư Ba còn muốn nói điều gì đó, nhưng cuối cùng cậu ấy chỉ thở dài nhìn theo Kháp Na, không nói thêm gì nữa. Cậu ấy lẳng lặng bước đến trước mặt tôi, cúi xuống, xoa đầu tôi, dặn dò:
- Lam Kha, hãy giúp ta trông chừng Kháp Na, đừng để đệ ấy uống nhiều quá, sẽ tổn hại đến sức khỏe, đệ ấy vốn rất yếu.
Tối hôm đó, sau khi Bát Tư Ba đi khỏi, Kháp Na không uống thêm nữa, cậu ấy nằm trên giường rất lâu, mắt mở to nhìn trân trân lên trần nhà. Cậu ấy đâu thể thấy gì trong đêm tối, vậy mà cái dáng vẻ ấy dường như đã thấu suốt mọi sự và chán chường mọi sự.
Tôi hếch hếch chiếc mũi nhọn của mình vào cánh tay cậu ấy:
- Kháp Na à, cậu bảo muốn đi ngủ vì mệt rồi kia mà!
Cậu ấy quay mặt về phía tôi, ôm tôi vào lòng:
- Tiểu Lam ơi, ngày mai là Tết Nguyên tiêu, thành Yên Kinh sẽ tổ chức hội hoa đăng đó, em đi ngắm hoa đăng với ta nhé!
- Đồng ý!
Cậu ấy giam mình trong phủ Quốc sư đã nhiều ngày nay, chẳng chịu đi đâu, bây giờ lại muốn ra ngoài đi dạo, tất nhiên là tôi đồng ý vô điều kiện.
- Tiểu Lam ơi, ý ta là... – Cậu ấy ngập ngừng, chừng như khó nói. – Em hãy hóa phép thành người đi chơi cùng ta.
Ánh mắt cậu ấy long lanh trong đêm.
- Đây là nguyện vọng duy nhất của ta trước lễ cưới.
Tôi mê man đắm chìm trong đôi mắt như hồ nước sâu hun hút ấy, chỉ biết khe khẽ đáp lại:
- Được.
Kháp Na nở nụ cười rạng rỡ, lúm đồng tiền hút hồn đã lâu tôi không được chiêm ngưỡng. Trong bóng đêm mịt mùng, những giọt nước mắt trong veo như pha lê của Kháp Na khiến tim tôi đột nhiên nhói đau.
~.~.~.~.~.~
- Sau khi vương triều Tufan bị diệt vọng, các giáo phái Phật giáo ở Tây Tạng đua nhau mọc lên như nấm sau mưa, đến nay hầu hết đã trải qua bốn trăm năm lịch sử.
Ấm nước trên bếp lò lục bục sôi, hơi nước bốc lên nghi ngút, tôi ra khỏi giường, rót cho mình và chàng trai trẻ hai chén trà nóng.
- Tâm nguyện lớn nhất của đại sư Ban Trí Đạt là thống nhất đất Tạng, nhưng cho đến cuối đời, tâm nguyện đó vẫn chưa được thực hiện nên ngài đã trao lại cho Bát Tư Ba.
Chàng trai trẻ áp hai tay vào cốc trà nóng, trầm ngâm giây lát:
- Tôi còn nhớ, sách sử ghi lại rằng, Tây Tạng trở thành một tỉnh và gia nhập vào bản đồ Trung Quốc vào triều Nguyên. Hẳn là nhờ công lao của Bát Tư Ba.
Tôi gật đầu:
- Khi còn là một vương gia, Hốt Tất Liệt đã không đồng tình với Mông Kha Hãn về việc cắt Tây Tạng thành những mảnh nhỏ chia cho các anh em của mình làm đất phong. Trong số những người từng là lãnh chúa Tây Tạng hồi đó, Mông Kha và Khoát Đoan đã qua đời, Húc Liệt Ngột cầm quân tiến đánh các quốc gia ở vùng Tây Á chưa trở về, còn A Lý Bất Ca từ lâu là đối thủ đáng gờm nhất của Hốt Tất Liệt. Bát Tư Ba đã nhân dịp này đề nghị với Hốt Tất Liệt quy đất Tạng thành một đơn vị hành chính thống nhất để quản lý.
Hốt Tất Liệt là người có tầm nhìn sâu rộng nên đề nghị của Bát Tư Ba rất hợp ý ngài. Vừa lên ngôi Đại hãn, Hốt Tất Liệt đã lập tức thu hồi đất phong ở Tây Tạng của Mông Kha, Khoát Đoan và A Lý Bất Ca, chỉ giữ lại đất phong của Húc Liệt Ngột thuộc phái Pagmodru. Quan hệ giữa Húc Liệt Ngột và anh em Hốt Tất Liệt xưa nay rất tốt, vì muốn lôi kéo Húc Liệt Ngột về phía mình, Hốt Tất Liệt đã quyết định không thu hồi đất phong của ông ta ở Tây Tạng.
Tôi nhấp một ngụm trà nóng:
- Mấy năm sau đó, được sự bảo trợ và ủng hộ của Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba đã tham dự ngày càng sâu vào đời sống chính trị của Tây Tạng, giúp cho vùng đất này thoát khỏi cục diện chia năm xẻ bảy, quyền cai trị dần được tập trung và thống nhất.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT