Phải chi mà ước gì được đó cũng đỡ. Bức tượng nữ thần đang cầm bình nước được đúc từ đá rắn lướt nhẹ tới trước. Từ chiếc bình trên vai bà ta, một mẫu kim loại rơi xuống phía trên gờ của phiến đá trước bức tượng. Một chiếc chìa khóa đuôi ách bích.
Ada thở dài, nhặt nó lên. Cô đã có được chìa khóa rồi; thực sự thì cô có mọi thứ cần thiết để tới được trạm xe lửa, và cả mọi thứ để đến được phòng thí nghiệm. Nếu không phải là có người ở Umbrella gây rắc rối to thì công việc của cô đã quá dễ xơi. Một món hời.
"Thay vì có ba ngày nghỉ thoải mái, mình lại có một buổi tối phải cảnh giác cao độ, phải chơi trò Ghim Đạn Vào Đầu và Đi Tìm Tay Phóng Viên cùng một lúc. Mẫu virus có thể ở bất cứ đâu, phụ thuộc vào việc ai còn sống sót. Nếu mang được nó ra khỏi đây một cách an toàn, mình phải đòi một khoản tiền thưởng to mới được; chẳng ai muốn làm việc trong điều kiện thế này cả."
Ada nhét chiếc chìa khóa vào túi bên hông, nhìn lướt qua hàng lan can của gian đại sảnh rộng lớn, kiểm tra trong trí nhớ những căn phòng mà cô đã đi qua và những người cô phải tìm một cách cẩn thận. Bertolucci dường như không ở khu vực phía đông tòa nhà, cả tầng trên hay tầng dưới. Cô đã phải xem xét gương mặt của các xác chết hàng giờ, tìm kiếm cái hàm rộng và đuôi tóc đã lỗi thời của anh ta trong đống xác bốc mùi kinh tởm. Dĩ nhiên, anh ta cũng có thể đang di chuyển lẩn trốn, nhưng từ những thông tin cô có thì việc đó không chắc lắm; phía sau bộ mặt nguy hiểm của tay phóng viên này chỉ là một kẻ chết nhát.
"Nói tới nguy hiểm…"
Ada run lên và ngoảnh lại sau lưng về phía cánh cửa dẫn đến khu vực phía đông. Đại sảnh an toàn, nó cách li được những người bị nhiễm, chúng dường như không biết sử dụng tay nắm cửa, nhưng có những mối nguy hiểm khác ngoài những kẻ bị nhiễm. Chỉ có Chúa mới biết Umbrella sẽ gửi cái gì đến để xóa dấu vết ở đây… hoặc là cái gì sẽ được phóng thích ra từ phòng thí nghiệm khi tai nạn diễn ra. Ít đáng sợ hơn nhưng cũng khó chịu một chút, đó là sự hiện diện của những cảnh sát còn sống đang tụ tập đâu đó quanh đây để tìm kiếm những người còn sống sót. Cô loáng thoáng nghe thấy tiếng súng, không rõ lắm, cứ một hay ba tiếng đồng hồ gì đó kể từ khi cô đến đây. Ít nhất cũng còn vài người không bị nhiễm sót lại trong tòa nhà rộng lớn này. Cố gắng thuyết phục một gã cầm súng đang hoang mang rằng cô chưa chết và không cần ai hộ tống khi giáp mặt với lũ thây sống, chẳng khác nào bảo rằng mình có vấn đề.
Bước đi thật nhanh để tránh gây ra tiếng ồn, Ada lướt qua cánh cửa mở ra một căn phòng dài và tựa vào nó, dừng lại một chút để quyết định làm gì kế tiếp; mặc dù cô chưa kiểm tra tầng hầm và vẫn còn vài thây ma dật dờ quanh phòng điều tra, nhưng tất cả cửa của đại sảnh vẫn đóng; nếu như có ai hay vật gì định đến gần thì cô vẫn có thể thấy nó và chạy ngay lập tức.
"Ha, cuộc sống thú vị của một nhân viên tự do. Du lịch vòng quanh thế giới! Kiếm tiền bằng việc cuỗm những thứ quan trọng! Chiến đấu với những cái thây sống trong khi chưa tắm rửa và ăn một thứ gì ra hồn suốt ba ngày - quá ấn tượng!"
Cô nhắc mình nhớ đến lời đề nghị về phần thưởng. Khi cô đến Raccoon chưa tới một tuần trước đó, cô nghĩ mình đã chuẩn bị tất cả; tìm hiểu bản đồ kĩ lưỡng, học thuộc lòng những thông tin về tay phóng viên, lập kịch bản để che đậy thân phận – một phụ nữ trẻ tìm bạn trai là nhà khoa học đang làm việc cho Umbrella. Một phần câu chuyện là sự thật; thực sự đó là mối quan hệ ngắn ngủi với John Hown suốt mười tháng trước khi cô bị đẩy vào công việc. Nó còn hơn cả việc phải đứng suốt một đêm, thậm chí cũng chẳng có gì vui trong mối quan hệ đó, nhưng John lại nghĩ khác. Và mối quan hệ của John với Umbrella đã dẫn đến sự tuyệt giao đầy may mắn cho cô, mặc dù nó gần như chắc chắn là nguyên nhân đã giết John.
Vì vậy cô đã sẵn sàng. Nhưng trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ kể từ khi tự tin đăng kí ở một khách sạn đẹp bậc nhất thành phố Raccoon, vận may của cô đã thay đổi. Lúc đang ăn tối trong một khách sạn nhỏ ở Arklay, cô nghe thấy tiếng gào đầu tiên bên ngoài. Tiếng đầu tiên, nhưng không có nghĩa là tiếng gào cuối cùng.
Suy cho cùng, thảm họa là điều tất yếu; khi mà không có sự bảo vệ quanh phòng thí nghiệm, không có sự thử nghiệm kín đáo và liên tục. Những thông tin cô biết về T-virus bảo đảm rằng nó chỉ sống trong không khí một thời gian ngắn và nhanh chóng tiêu tan. Khả năng bị lây nhiễm duy nhất là tiếp xúc trực tiếp với cá thể trung gian - vì vậy cũng không đến nỗi đáng lo ngại. Khi cùng vài tá người khác tới sở cảnh sát, cô đã thấy Bertolucci bị chúng bao vây. Thậm chí với sự xuất hiện của lũ thây sống, khởi đầu như thế này đã là đặc ân cho cô lắm rồi.
"Mục tiêu nhiệm vụ: chất vấn kẻ xâm nhập, tìm hiểu xem anh ta biết những chuyện gì và giết hay để anh ta sống, còn tùy. Lấy một mẫu virus mới, tác phẩm cuối cùng của Tiến sĩ Birkin. Không thành vấn đề, phải không? "
Sở cảnh sát được sắp xếp lại, các phòng được điều chuyển sau thất bại của S.T.A.R.S., làm cho một nửa kế hoạch của cô không còn thích hợp nữa. Sự mất tích của người dân. Những chướng ngại vật được dựng lên để chống xâm nhập. Cảnh sát trưởng Irons đưa ra mệnh lệnh giống như những tay độc tài hết thời, cố lấy lòng Thị trưởng Harris và đứa con gái bé bỏng của ông ta ngay cả khi những xác chết đã tăng thành đống …
Cô thấy Bertolucci đủ gần để nhận ra anh ta đang cắm đầu chạy, nhưng cô đã không bắt kịp anh; cô thậm chí không có thời gian để tiếp xúc trước khi anh ta mất hút vào một góc nào đó trong mê lộ của sở cảnh sát, mất luôn dấu của anh trong sự rung chuyển của cuộc tấn công đầu tiên. Ada quyết định chiến đấu một mình khi mà ba phần tư dân cư thành phố đã bị xóa sổ ngay trong đợt tấn công bất ngờ chưa tới một giờ sau đó, tất cả bởi vì không ai chịu hạ cánh cổng nhà để xe. Cô không đời nào bằng lòng chịu chết dưới vỏ bọc của một du khách đang sợ hãi tìm kiếm người bạn trai của mình.
Tuy nhiên, Ada không nhúc nhích trong một chốc, chĩa họng súng Berretta vào một cái chân dài mang vớ. Có ba thi thể đang nằm dài trên hành lang, và cô không thể ngăn mình nhìn trừng trừng vào cái thây đang nằm sóng xoài dưới cửa sổ ở đoạn giữa. Một cô gái mặc quần sọt và áo hở vai, chân cô bé bẹt ra thô tục, một cánh tay ghếch lên cái đầu đầy máu. Hai người kia là cảnh sát. Ada không nhận ra ai, nhưng cô gái là một trong những người cô đã nói chuyện khi lần đầu tiên tới đây. Tên Stacy hay gì đó, hơi sợ hãi nhưng có vẻ cứng cỏi so với lứa tuổi thiếu niên.
Stacy Kelso, đúng thế. Cô bé đã chạy vào thị trấn để lấy mấy que kem và cuối cùng bị kẹt lại – nhưng mặc dù ở trong một tình huống tồi tệ, cô bé vẫn lo lắng cho cha mẹ và đứa em trai đang ở nhà. Một cô bé chu đáo. Một cô bé tốt.
Tại sao lại nghĩ về chuyện này? Stacy đã chết, một cái lỗ rách toạt trên thái dương bên trái cô bé, và Ada không cần quan tâm đến nó nữa; cô chẳng phải chịu trách nhiệm gì về chuyện này. Cô đến vì công việc, và Raccoon có bị xóa sổ đi nữa thì cũng không phải tại cô…
"Có lẽ không phải là tội lỗi", một phần trong cô thì thầm. “Có lẽ mày chỉ phải xin lỗi cô bé vì đã không làm điều gì đó.”
“Suy cho cùng thì cô bé đã là một con người, và bây giờ nó đã chết cũng như cha mẹ và đứa em của nó…”
“Thôi nào”, cô nói một cách nhỏ nhẹ nhưng giọng điệu hơi cáu gắt. Ada dứt ánh mắt ra khỏi thân hình thảm hại của cô bé, hướng về phía cái gạt tàn thuốc ở cuối hành lang. Cảm giác có lỗi với những chuyện ngoài tầm kiểm soát không phải là phong cách của cô, không phải là cách mà cô đạt tới đỉnh cao sự nghiệp – và nếu tính đến cái giá mà ngài Trent đã thuê cô, thì giờ không phải là lúc thích hợp để mủi lòng. Chết, đó là việc tất yếu, và điều mà cô rút ra được từ cuộc đời của mình, đó là đau khổ trước sự thật phủ phàng chỉ tốn công vô ích. Mục đích nhiệm vụ: liên lạc với Bertolucci và lấy mẫu G-Virus. Đó là tất cả những gì cô cần phải lo.
Có một cách Ada vẫn sử dụng để kiểm tra những khúc quanh cách xa chỗ cô đứng, lúc còn trong phòng họp báo. Những ghi chú của Trent về các phần kiến trúc mới bổ sung trong tòa nhà thì khá sơ sài, nhưng cô biết là có việc phải làm với ngọn đèn khí gas điêu khắc lộng lẫy và bức tranh sơn dầu. Người nào sở hữu những thứ này chắc phải có một cuộc sống bí ẩn đáng sợ lắm; thực tế có những lối đi ẩn trên lầu, đằng sau bức tường đã từng thuộc về phòng lưu trữ. Cô chưa đi qua đó, mặc dù chỉ liếc sơ qua cũng đủ cho cô biết nó đã được sửa lại thành phòng làm việc. Theo như lối trang trí lộn xộn và rườm rà, có lẽ nó là của Irons. Mặc dù chỉ ở đây trong một thời gian ngắn, nhưng cô cũng biết chắc rằng ông ta không phải là người kiên quyết, một kẻ luôn sống dựa vào người khác. Cũng chẳng phải bàn cãi gì về việc ông ta làm cho Umbrella. Tuy nhiên cũng có một thứ gì đó về ông ta có vẻ khác thường.
Ada bước xuống hành lang, tiếng chân nện lộp cộp trên nền gạch xanh; cô đã ngán mấy cái trò giải đố một cách máy móc lắm rồi. Nhất là khi không có bất cứ sự giúp đỡ nào cho những chuyện này; cô đã giả định ngay từ đầu là virus vẫn còn trong phòng thí nghiệm, nhưng không có bất cứ cơ hội nào để vào đó. Hồ sơ cho biết có từ tám đến mười hai ống nghiệm loại một ounce đựng virus, căn cứ theo thông tin từ cuộn video cách đây hai tuần – và phòng thí nghiệm của Birkin thì khó dò ra được. Với việc phòng thí nghiệm dưới lòng đất được nối với sở cảnh sát thông qua hệ thống cống ngầm, cô buộc phải xét đến khả năng các mẫu virus đã được mang đi. Bên cạnh đó, Bertolucci có thể bị nhốt vào thư viện hay văn phòng S.T.A.R.S. ở phía tây, có thể là trong phòng tối, phải tìm ra anh ta dù sống hay chết. Và cô cũng có cơ may lấy được một ít đạn 9 ly trong người các nhân viên đã chết.
Cô đi theo một lối đi dẫn đến một phòng chờ nhỏ, nơi có cái máy bán hàng tự động đã bị cạy nắp và cướp phá. Hành lang lạnh lẽo và thiếu thốn không khí trong lành. Cô đã trở nên quen với mùi hôi ở đây, nhưng sự lạnh lẽo thật là khó chịu. Đã hàng trăm lần kể từ khi rời bỏ bàn ăn ở Arklay, Ada ước gì mình đã ăn mặc thoải mái hơn khi ăn tối. Bộ áo dài màu đỏ không tay áo bó sát người cùng với đôi giày cao gót thật là đẹp và vừa vặn, tuy nhiên nó chẳng thuận tiện cho hành động chút nào.
Cô đi đến cuối căn phòng và cẩn thận mở cánh cửa bên trái, giơ vũ khí lên. Cũng như trước đó, lối đi hoàn toàn sạch sẽ, chưa có dấu vết gì xóa đi sự thanh lịch của tòa nhà này. Những bức tường màu cát tối và đá lát được trang trí đối xứng ở mỗi bên. Sở cảnh sát thật tráng lệ, nhưng thời gian đã làm mất đi sự cao quý của nó, giờ đây nó giống như một ngôi nhà to lớn nhưng đổ nát và lạnh lẽo. Sát khí của căn nhà làm cho người ta sợ hãi, tuyệt vọng – bất cứ lúc nào, một bàn tay lạnh lẽo cũng có thể nắm lấy vai bạn hay một hơi thở bệnh hoạn thình lình thổi vào gáy bạn.
Ada cau mày, có lẽ sau nhiệm vụ này cô sẽ đi nghỉ dài hạn. Và cũng có thể cô sẽ tìm một công việc mới sau đó. Sự chú tâm - khả năng tập trung của cô – đã không còn như xưa nữa. Và trong công việc này chỉ một sự lơ đễnh thôi cũng đồng nghĩa với cái chết.
"Món tiền thưởng lớn, Trent đã hứa như thế. Mình sẽ đề nghị một con số có bảy chữ số, hay ít nhất thì cũng là sáu."
Cô cố đánh tan suy nghĩ của mình, đánh tan hình ảnh của những sinh vật gớm ghiếc, nhưng cô nhận thấy mình không thể xua chúng đi khỏi óc được. Cô nhớ lại cô bé Stacy Kelso, nhớ cái vén tóc đầy lo lắng của cô bé khi nói về đứa em…
Một hồi lâu, Ada cố ném những suy nghĩ đó ra khỏi đầu và tiếp tục bước xuống hành lang, tự hứa với chính mình sẽ cố gắng tập trung hơn, và rồi tự hỏi tại sao chính mình lại không tin tưởng vào điều đó cho lắm.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT