Sắc trời đã lên cao, ngoài cửa sổ hoa khoe chim hót. Tuệ phi ngồi trước gương đồng, để cung nữ hầu hạ trang điểm. Từ trong gương chiếu ra một gương mặt trẻ trung kiều diễm, chỉ là lông mày chau lại vẻ không vui. Cung nữ đã vì nàng đổi qua ba bốn loại trang dung, nhưng vô luận ăn diện như thế nào cũng đều không thuận tâm ý nàng.
Phiền toái cùng tức giận từ từ chồng chất trên mặt, Tuệ phi mãnh liệt xả búi tóc xuống, hung hăng quẳng cây phượng trâm ra đất, lớn tiếng quát lên: “Ngươi chải cái kiểu gì! Nhìn mặt như lão bà, khiến người nhìn trong lòng ngột ngạt! Khó trách Hoàng Thượng đêm qua không lâm hạnh. Có phải tiện tỳ ngươi thu nghe kẻ nào trong nào cung hứa hẹn, ý định làm cho ta xấu đi?”
Cung nữ hoảng sợ, bùm một tiếng quỳ xuống dập đầu cầu xin tha thứ: “Đánh chết nô tỳ không dám! Nương nương tha nô tỳ đi!”
Nàng càng là khóc cầu, Tuệ phi lại càng phiền lòng, nắm lên mặt bàn một hộp phấn, dương tay liền hướng đầu nàng ném tới. Cung nữ kia mắt mở trừng trừng nhìn hộp phấn bay tới, không kịp cũng không dám tránh né, nhất thời đập vào mặt đánh bốp, máu lưu đầy mặt.
Lập tức có hai tên tiểu thái giám vâng dạ tiến vào, đem cung nữ kia khóc đến toàn thân run rẩy đi ra.
Tuệ phi nghe ngoài điện tiếng khóc gia hình, tức giận cũng chậm rãi tiêu biến. Hai vai căng thẳng cũng bình tĩnh trở lại, vuốt vuốt tóc rủ xuống thái dương, cũng không quay đầu lại mà kêu: “Uyển nhi, ngươi lại đây.”
Đứng ở màn che bên cạnh là một cung nữ khác tuổi chừng mười sáu mười bảy tuổi kính cẩn mà tiến lên: “Nương nương có gì phân phó?”
“Ngươi cảm thấy vừa rồi Hương Tuyết chải búi tóc đẹp mắt không?” Tuệ phi mặt bình tĩnh hỏi.
Uyển nhi giống như nai con nhu thuận nhẹ nhàng mà nói: “Kiểu nào búi trên đầu nương nương cũng đều xinh đẹp. Cao có đẹp của cao, thấp có đẹp của thấp, vừa như hoa, lại vừa như mây… Ai, nô tỳ sẽ không nói, dù sao trông không khác gì vào Tiêu Tương điện, ánh mắt nhìn đến hoa cả lên!”
Tiêu tương điện là Huyền Ngư quan hậu điện, thờ phụng mười tám tượng nữ tiên nhân. Từng đi đến Hoàng gia đạo quan cầu phúc Tuệ phi như thế nào không biết, nghe xong lời này, sắc mặt hơi có chuyển biến tốt đẹp, lại hỏi: “Vậy ngươi nói xem, Hoàng Thượng vì sao lại không lưu lại Bổn cung, đêm khuya còn muốn di giá đi ngự thư phòng?”
Uyển Nhi nhất thời ngẩn người ra đáp: “Hoàng Thượng trong lòng nghĩ như thế nào nô tỳ cũng không dám suy đoán. Nếu nhất định muốn đoán… chắc là Hoàng Thượng đêm qua chuẩn là tấu chương chưa phê xong, lo lắng hôm nay Ngự sử quan lại muốn dong dài mà thượng gián, lúc này mới tâm không cam tình không nguyện mà đến thư phòng dụng công đi.”
Tuệ phi hài lòng mỉm cười, “Ngươi này nha đầu ngốc, lại mồm miệng nhanh nhẹn thẳng thắn, hết lần này tới lần khác nói xuôi tai, ta liền thích người như vậy. So với mấy nô tỳ hở chút là sợ hãi rụt rè, đầu cũng không dám ngẩng lên, một câu liền ‘Thứ tội, tha mạng’, làm cho ta giống như là cọp mẹ muốn ăn thịt bọn họ, khiến ta nhìn liền bực mình!”
Nàng hướng đến chiếc trâm phượng đang nằm dưới đất, tùy ý phất ống tay áo: “Cái kia liền thưởng ngươi. Lại đây chải đầu cho ta.”
“Đa tạ nương nương!” Uyển nhi vui vẻ ra mặt mà nhặt lên trâm cài, một bộ như nhặt được chí bảo không biết nên cất ở đâu, cuối cùng trịnh trọng mà bỏ vào ngực, rồi đi tới cầm lấy lược.
Tuệ phi liếc nàng cười mắng:”Cũng không sợ nó đâm vào, nha đầu ngốc!”
Từ ngoài cửa tiến vào một quả cầu to, tròn tròn trắng trắng mịn như nhung, không coi ai ra gì mà đi thẳng đến bên chân Tuệ phi, như lệ ngoao ngoao hai tiếng. Chính là tuyết ngọc sư tử sủng ái của Tuệ phi, lúc này bị chủ nhân xoay người ôm lấy, đặt ở trên đùi không ngừng vuốt ve.
“Nghe nói cuối cùng là tại Thanh Diệu điện tìm ra? Như thế nào lại chạy tới cái chỗ hoang vắng đó, cọ đến bẩn hề hề, lông cũng rụng không ít… Là cái nô tỳ nào mà không dùng được như vậy, chỉ mỗi miêu miêu mà trông chừng cũng không được!” Tuệ phi đau lòng mà vuốt miêu miêu yêu quý.
“Chăm sóc ngọc sư tử, a, là Ký nô.”
“Truyền nàng lại đây!”
“Nghe quản sự thái giám nói, hôm qua nàng bị phạt đi Hoán y cục, nghe nói là Hoàng Thượng đích thân hạ chỉ. Chờ nô tỳ chải xong tóc cho nương nương xong, liền đi Hoán y cục truyền nàng.” Uyển nhi đáp.
Bàn tay Tuệ phi ngừng lai: “Một cái cung tỳ, cũng đáng đến Thánh Thượng thân dụ?” Nàng chậm rãi nhăn mày, mắt lộ ra hàn quang, “Ta liền nói Hoàng Thượng đêm qua như thế nào lại hỏi đến việc miêu cẩu trong hậu cung mất tích, nguyên lai là tiện tỳ này loạn ngôn! Ta nếu như không hảo hảo trừng trị, trong cung người người đều học nàng, đến trước ngự giá lộng bàn thị phi đi! Uyển nhi, ngươi đi gọi người, đem tiện tỳ kia lại đây!”
“Nô tỳ tuân chỉ.”
Tuệ phi mấy ngày gần đây tâm tình không tốt, ở hậu cung tìm người trút giận, trận này càng phát càng lớn, khó tránh khỏi gà bay chó sủa. Hoàng đế nghe xong tiểu thái giám bẩm báo, không để bụng mà khoát tay, ý bảo kệ nàng đi thôi.
Nguyên lai ngày đó ngự liễn ra khỏi Thanh Diệu điện, liền chuyển hướng đi Hi Thần cung. Tuệ phi thấy thánh giá tới, vui mừng quá đỗi, xuất sử hết thủ đoạn đến hầu hạ. Ấn Huyên ở lại Hi Thần cung dùng qua bữa tối, thấy Tuệ phi tình ý miên man lấy lòng hắn, thần thái quyến rũ xuân sắc thắm tươi, không khỏi động tình, liền dắt tay cùng vào loan trướng.
Nào ngờ Tuệ phi mới vừa cởi bỏ ngoại sam, lộ ra một thân trung y màu son thêu hoa bằng kim tuyến, Ấn Huyên trong đầu không biết làm sao lại nhảy ra cái thân ảnh đáng chết của kẻ nọ, hắn hùng hồn đầy lý lẽ mà nói: ” Người là phụ tinh mẫu huyết sinh ra, cha mẹ huyết mạch mỗi bên đều chiếm một nửa, cớ gì phân chia nội ngoại? Nếu là nói huyết thống thân cận không thể kết hợp, bất luận hôn phối của đường huynh muội hay là biểu huynh muội đều loạn luân… nguyên nhân huynh muội không được phối hôn, đều không phải là luân lý cương thường, mà do là ‘sinh ra không dưỡng được’…”
Đoạn này thình lình xảy ra hồi tưởng quả thực giống ma âm quán nhĩ, Ấn Huyên bỗng dưng phát hiện, nàng thân là ngoại sinh nữ của thái hậu, đồng thời cũng là thân biểu muội của hắn, ngũ quan cùng thân di nương có vài phần tương tự, cẩn thận tỉ mỉ nhìn lại, lại mơ hồ lộ ra bóng dáng thái hậu… Ấn Huyên đột nhiên rùng mình.
“Sinh ra không dưỡng được.” Thanh âm người trong đầu hắn đắc ý dào dạt mà quanh quẩn.
Cả người giống như bị nhúng vào một chậu nước lạnh trong ngày đông, thoáng chốc dập tắt dục hỏa. Ấn Huyên phẫn nộ mà đẩy Tuệ phi ra, lấy cớ chính vụ khẩn cấp, vội vàng khởi giá quay về ngự thư phòng.
Đợi cho tâm hắn bình tĩnh lại, cảm thấy có chút ủy khuất Tuệ phi, nhưng nếu đi lâm hạnh Hi Thần cung, chẳng biết tại sao, luôn có loại cảm giác khó chịu nói không nên lời. Ngay cả hoa dung nguyệt mạo, ấm ngọc ôn hương, thậm chí chỉ liên tưởng đến cũng đều không muốn nghĩ.
Nếu không có người kia một phen hồ ngôn loạn ngữ, làm sao suy nghĩ của mình lại bất tri bất giác bị ảnh hưởng… Hoàng đế ngầm bực, lại đem người nọ nơi Thanh Diệu điện ghi một tầng sổ nợ trong đầu.
Tuệ phi mấy ngày liền chưa từng nhìn thấy quân nhan, một cỗ khuê oán khí chưa tiêu, lại xuất hiện một việc khiến nàng không kềm được giận dữ-
Sủng miêu ngọc sư tử của nàng lại biến mất.
Cung nữ chăm sóc miêu nhi bị phạt nặng, đông đảo cung nhân đi tìm cả ngày vẫn không thấy bóng dáng. Uyển nhi trong lúc vô ý nói một câu “Không chừng nó lại chạy tới phế điện đi”, khiến cho Tuệ phi trong cơn tức giận khởi giá phượng liễn, dẫn nội thị tự mình tiến đến tìm kiếm, lại bị Tử Y vệ ngăn ở ngoài cửa điện.
“Các ngươi thật to gan! Bổn cung muốn vào đi tìm sủng miêu lạc đường, ai dám ngăn trở?” Tuệ phi ngồi ở phượng liễn sau màn, lạnh giọng nói.
Đầu lĩnh Tử Y vệ quỳ xuống bẩm: “Nương nương bớt giận. Ty chức to gan cũng không dám ngăn trở phượng giá. Chính là Hoàng Thượng thánh chỉ, bất luận kẻ nào không được tiến vào Thanh Diệu điện, thỉnh nương nương minh giám.”
“Trong hậu cung này, còn có chỗ nào Bổn cung không đến được? Ngay cả nơi thái hậu ở Thượng Thanh cung, Bổn cung cũng tới đi tự nhiên. Chỉ là một cái phế điện, cũng không phải là quân cơ trọng địa, vì sao không vào được?”
“Chuyện này… Ty chức cũng không biết. Chỉ là phụng mệnh làm việc, cầu nương nương khai ân, không cần làm khó ty chức.”
“Hừ, chỉ là vài cái thị vệ, cũng dám bọ ngựa đấu xe, không biết tự lượng sức mình! Bổn cung hôm nay nhất định phải tiến vào nội điện, bọn ngươi chẳng lẽ còn muốn giương đao múa kiếm trước phượng liễn của ta?” Tuệ phi một tay vịn rèm, quát chói tai: “Dám nói không mở ra, các ngươi đầu liền rơi xuống đất!”
Vài tên Tử Y nhìn tình thế nghiêm trọng, ngẩng đầu tuyệt vọng mà nhìn thoáng qua một đội túc vệ khác xa xa đi tới thay ca, cắn chặt răng, nhất loạt đem phụng thần đao đặt trước mặt: “Ty chức không dám ngăn trở phượng giá, nhưng cãi lời thánh chỉ cũng là tử tội, nếu khó vẹn cả đôi đường, ta không bằng tự sát, lấy cái chết tạ thiên ân!”
Tuệ phi đáy lòng trầm xuống. Làm sao nàng lại không biết Tử Y vệ này là thân vệ của Hoàng đế, không phải hạng tầm thường có thể động đến. Nhưng mới vừa rồi đã mạnh miệng quyết tuyệt, nếu giờ lùi bước thì còn gì là mặt mũi, nhất thời đâm lao phải theo lao.
Ngay tại lúc này, đội túc vệ thay ca đã đến ngoài cửa điện, đầu lĩnh Tử Y giáo úy chính là Tả Cảnh Niên.
Hắn nhìn quét mắt qua mọi người, nhanh chóng nắm bắt phân tích tình thế một phen, quyết định thật nhanh mà hành lễ nói: “Nương nương thiên tuế. Không biết ty chức có chuyện gì có thể thay nương nương lo liệu?”
Cử động này giống như buồn ngủ đưa gối, Tuệ phi lúc này nhân thể xuống thang: “Tuyết ngọc sư tử của Bổn cung thất lạc, có khả năng chạy vào Thanh Diệu điện này, đang muốn tiến vào để tìm lại.”
Tả Cảnh Niên hơi suy nghĩ một chút, nói: “Tuyết ngọc sư tử chính là một đại bạch miêu không hề tạp sắc?”
“Đúng vậy.”
“Mấy ngày trước, đúng là trong điện phát hiện một con bạch miêu, sau lại bị Hoàng Thượng ôm đi. Lần này nếu tuyết ngọc sư tử lại chạy vào trong điện, ty chức nguyện vì nương nương ra sức khuyển mã, vào điện cẩn thận đi tìm.”
Tuệ phi âm thầm thở ra, thần sắc hòa hoãn nói: “Nếu như thế, sự này cứ giao cho ngươi đi làm, tìm được tuyết ngọc sư tử, Bổn cung sẽ có trọng thưởng.”
“Tuân chỉ.” Tả Cảnh Niên hướng mấy tên Tử Y vệ kia đang quỳ xuống đất suýt nữa tự sát nháy mắt. Mấy người lĩnh hội, nhanh chóng thu đao lui ra.
Mang theo bốn năm Tử Y vệ tiến vào trong điện, hết sức tìm miêu miêu khắp nơi. Tả Cảnh Niên thừa dịp mọi người không chú ý, tranh thủ thời gian đi vào phòng ngủ trong hậu điện.
Tù nhân bị giam lỏng đang trên giường đắp chăn kê cao gối mà ngủ, nghe tiếng bước chân bèn xoay người mở mắt vừa thấy hắn lại lười biếng khép mắt nói: “Ngoài cửa xảy ra chuyện gì ồn ào như vậy, khiến ta ngủ cũng bất an.”
“Bây giờ là giờ Tỵ, ngươi chính là ngủ trưa vẫn chưa xong giấc?”
“Có cái gì quan hệ? Dù sao một mình ta ở trong điện cả ngày không có việc gì, trừ ăn ra cũng chỉ có ngủ. Vị tướng quân này, ngươi tìm ta có việc?”
“Ngươi không nhớ ta?” Tả Cảnh Niên hỏi.
Ấn Vân Mặc nhấc mí mắt lên, híp mắt cao thấp một lúc, mới cười nói: “A, là ngươi.” Hắn giống như sâu gạo ngồi dậy, lại cuộn trong chăn bông thật dày dựa vào đầu giường, “Ta nhớ rồi, ngươi uống của ta một chén xà thang.”
“Thật sự chính là xà thang?”
“Đương nhiên, không phải thì ngươi cho là cái gì.” Ấn Vân Mặc không chút để ý nói “Một chén dược thiện cũng hết sức phổ thông mà thôi.”
Tả Cảnh Niên trầm mặc một khắc, bỗng nhiên cởi phụng thần đao bên hông xuống đặt lên bàn, bắt đầu cởi áo tháo thắt lưng.
Tả Cảnh Niên thoát áo phía trên thân, nghiêng người hiển lộ vết thương dữ tợn trên lưng: “Dư độc đã thanh, nhưng miệng vết thương chậm chạp không khép, làm thế nào cho phải?”
Ấn Vân Mặc tiếng lòng buông lỏng, thuận miệng đáp: “Lấy đầu miêu một cái, đốt cháy, nghiền cho nát. Lấy mười cái trứng gà khác nấu chín, bỏ lòng trắng, lấy lòng đỏ nghiền ra, thêm một chút giấm trắng trộn chung, bôi lên ba ngày là khỏi hẳn.”
Tả Cảnh Niên ảm đạm cười: “Nếu chỉ là bát xà thang phổ thông, công tử thế nào lại biết được vừa rồi trong lời nói của ta có ý đó?”
Ấn Vân Mặc giật mình, xẹt qua một tia ảo não: “Chỉ không lưu ý một tí, liền bị ngươi lừa”
Tả Cảnh Niên mặc quần áo tử tế vào, chắp tay nói: “Ta biết công tử là cao nhân, hà tất phải khổ sở che giấu tung tích. Ta thọ ân huệ của công tử, vô cùng cảm kích, không biết lấy cái gì báo đáp.”
Ấn Vân Mặc cười cười: “Ngươi không cần phải nói đến dễ nghe như vậy, thực ra là tới thăm dò xem ta có ý đồ gì khác mà tận lực thi ân với ngươi. Ta là một tù nhân chẳng thấy ánh mặt trời, Hoàng đế tối nay muốn chém đầu ta, sang mai ta liền không thấy được mặt trời mọc. Ta có thể đòi ngươi báo đáp cái gì, chẳng lẽ còn trông cậy vào ngươi có thể cứu ta ra khỏi thâm cung?”
Tả Cảnh Niên mắt lộ ra vẻ xấu hổ, ôm quyền khom người bái thật sâu: “Là tại hạ dùng dạ tiểu nhân đo lòng quân tử, vạn mong công tử tha thứ!”
Ấn Vân Mặc không để bụng mà khoát tay “Ta chẳng phải cao nhân, cũng không phải là quân tử gì, bất quá chỉ là tiện tay, không cần để ở trong lòng.”
“Tích thủy chi ân, đương dũng tuyền tương báo (*). Huống chi công tử tương đương là cứu ta một mạng. Ta biết dư độc trong cơ thể cho dù trước mắt không phát ra, nhưng tích lại chừng ba bốn năm, nhất định sẽ bùng nổ.” Tả Cảnh Niên nghiêm nét mặt nói, “Vô luận như thế nào, ta thiếu công tử một cái mệnh.”
[(*): làm ơn chỉ bằng một giọt nước nhỏ, nhưng trả ơn người thì phải như một dòng suối mạnh mẽ]
“Cứu ngươi không phải là ta, là cơ duyên.”
“Cơ duyên?”
“Hai chén xà thang, chỉ có một bát bỏ thêm thuốc dẫn bị ngươi uống được, đây không phải là cơ duyên thì là cái gì?”
Tả Cảnh Niên lúc này mới lĩnh ngộ, Tạ Dự giành trước lấy đi bát thang sạch sẽ, để lại bát xà thang kia, trên mặt trôi nổi bột phấn màu đỏ sậm, nguyên lai đó không phải là vật dơ bẩn, mà thuốc dẫn mấu chốt.
Ấn Vân Mặc chỉ dẫn mà nói: “Có khi càng là tranh đoạt, lại càng lỡ mất hảo sự. Đó chính là cái gọi “Thiên chi đạo, lợi nhi bất hại. Thánh nhân chi đạo vi nhi bất tranh”. Ngươi tính tình chuyên nhất, bởi thế mới có cơ duyên như vậy.”
[(*) Đạo trời lợi mà không hại. Đạo thánh nhân làm mà không tranh]
Tả Cảnh Niên như có điều suy nghĩ, sau đó lần thứ hai hành lễ: “Đa tạ công tử chỉ điểm bến mê, tại hạ vô cùng cảm kích!”
“Được rồi được rồi!” Ấn Vân Mặc bĩu môi, “Ngươi có biết ta phiền nhất loại người nào không? Giống như đầu gỗ, quy quy củ củ! Sau này nếu ta nhiều lời một câu, ngươi liền muốn tạ thượng một lần, chi bằng im miệng không nói nữa.”
Tả Cảnh Niên sửng sốt, cảm giác khó hiểu nhìn động tác như trẻ nhỏ của y, có chút như đã từng gặp qua, trong lúc nhất thời lại nghĩ mãi không ra, đành phải đè xuống không đề cập tới, bồi tội nói: “Công tử nếu là không thích đa lễ, sau này ta liền không nói những lời tương tự.”
Ấn Vân Mặc lúc này mới vừa lòng gật đầu, dịch dịch góc chăn, hai mắt díu lại: “Ta buồn ngủ rồi, ngươi đi đi.”
Tả Cảnh Niên thấy hắn tính tình tiêu sái, không khỏi mỉm cười, cúi người cáo lui. Vừa đi được hai bước, bỗng nhiên lại nhớ tới một chuyện, từ trong lòng lấy ra một cái túi con, lộ ra bên trong một vật màu đen to bằng đầu ngón tay, phát ra khí lạnh “Xin quấy rầy một câu, đây là vật từ miệng vết thương độc huyết phun ra, công tử có biết là vật gì không?”
Ấn Vân Mặc từ từ nhắm hai mắt hỏi: “Nhìn giống cái gì?”
Tả Cảnh Niên cúi đầu tỉ mỉ: “Giống… Giống con cờ vây màu đen?”
“Vậy ngươi coi như nó là viên cờ đen, giúp ta bỏ vào hộp cờ trên bàn đi.”
Tả Cảnh Niên nghi hoặc khó hiểu, nhưng cũng không hỏi nhiều, theo lời mở ra ô quán, đem vật không rõ kia bỏ vào, xen lẫn trong một đống cờ đen, nhìn qua cũng không sai biệt mấy. Quay đầu thấy Ấn Vân Mặc đã ngủ, hắn lặng yên không một tiếng động mà rời khỏi nội điện.
Tử Y vệ tìm khắp Thanh Diệu điện, vẫn không tìm được bạch miêu, Tuệ phi nghe xong bẩm báo, không nói lời nào, hậm hực khởi giá hồi cung. Việc này không đến một nén nhang đã truyền tới tai Hoàng đế.
Hoàng đế trong lòng không vui, cũng không truy cứu nhiều, chỉ hướng thủ điện vệ sĩ truyền dụ: bất luận kẻ nào muốn vào Thanh Diệu điện, mặc dù là cung phi hoàng thân, cũng tất nghiêm ngăn. Kháng chỉ tự tiện xông vào, đương trường giết không tha!
Tuệ phi nghe nói, sinh ra vài phần kinh tâm nghĩ mà sợ, ngay cả sủng miêu chung quy vẫn không thấy bóng dáng, cũng chẳng để bụng.
Cung nhân trong Hi Thần cung cho rằng, rốt cục đã có thể yên tĩnh một chút. Nhưng ai cũng không ngờ, một thu này, hoàng cung đại nội đã định trước là không được bình an.
Ngay sáng sớm hôm sau, khi Hoàng đế dọc theo ngự hoa viên ven hồ hoa kính tản bộ, trên mặt hồ lại xuất hiện một cái xác nữ thi không đầu.
Thi thể kia nằm ngang trên mặt nước, cách trước mặt Hoàng đế không đầy một trượng. Tử Y vệ e sợ ngự giá chấn kinh, như lâm đại địch mà vây tiến xung quanh, thỉnh Hoàng đế lánh đi trước.
Ấn Huyên mặt không đổi sắc mà vươn tay cản lại: “Không cần, đem thi thể vớt lên đi, ngay tại chỗ kiểm tra thực hư. Hung án phát sinh giữa thanh thiên bạch nhật, ý có vài phần hướng trẫm khiêu khích. Trẫm thực muốn nhìn, phía sau màn đến tột cùng là nhân vật gì!”
Thân phận thi thể nhanh chóng được điều tra rõ, là một người cung tỳ trong Hoán y cục, tên là Ký nô.
Ấn Huyên đối với cái tên này mơ hồ có chút ấn tượng, liền hỏi tùy thị đại thái giám Ngụy Cát Tường: “Chính là cung nữ lần trước tại giả sơn tư hội thái giám, bị phạt đi Hoán y cục?”
Ngụy Cát Tường nói: “Đúng thế. Nàng lần trước còn nói, tìm không thấy miêu nhi của Tuệ phi nương nương liền muốn đi nhảy hồ, ai biết đâu… Ai, thật sự là một câu thành tiên tri.”
Ấn Huyên lạnh giọng nói: “Nàng muốn nhảy hồ tự sát, còn có thể đem chính đầu mình chém trước xuống hay sao! Lệnh Tử Y vệ tra rõ này án, điều tra rõ nàng là khi nào chết, mấy ngày gần đây đi qua nơi nào, làm qua chuyện gì, cùng người nào lui tới, hết thảy đều tra rõ ràng cho trẫm!”
Thiên tử ra lệnh một tiếng, ngày thường hoàng cung ung dung trầm tĩnh tựa như bị cơn gió lớn thổi qua, chỉ một thoáng vận chuyển, hiệu suất kinh người. Tử Y vệ cầm trong tay dụ lệnh kim bài, truy bắt khảo vấn, quyền lực nhất thời không ai bằng. Không đến nửa ngày, liền đã tra ra: Ký nô hai ngày trước, được vài tên thái giám gọi đi đến Hi Thần cung, từ đó về sau không biết tung tích, vẫn chưa trở lại Hoán y cục.
Hi Thần cung nội thị thừa nhận từng phụng mệnh trừng phạt đối với Ký nô, nhưng phủ nhận đem người đánh chết. Khám nghiệm tử thi cũng chứng minh xác chết đích xác có nhiều vết thương, bị quất bằng roi.
Như thế xem ra, dù chưa nhận tội, nhưng Hi Thần cung hiềm nghi lớn nhất. Hoàng đế ngự giá thân hướng đề ra nghi vấn, Tuệ phi lại bị kinh hách thành bệnh, nằm liệt trên giường không dậy nổi. Mà ngay cả Thái Hậu ru rú trong nhà cũng bị kinh động, nghe tin tức y giá tới, vì Tuệ phi bênh vực.
Hung án điều tra như vậy lâm vào cục diện bế tắc, Hoàng đế không dám nghịch ý Thái hậu, chỉ đành hạ lệnh, đợi Tuệ phi lành bệnh, sẽ tiếp tục tra án.
Không ngờ ngự y nhiều ngày khám và chữa bệnh, Tuệ phi bệnh tình vẫn không chuyển biến tốt đẹp, ngược lại ngày càng trầm trọng, cả ngày sợ hãi nói nhảm, thần trí mê muội.
Thật nhanh liền có lời đồn đãi nổi lên bốn phía, nói là Hi Thần cung có chuyện ma quái, đầu lâu nữ thi nửa đêm bay xung quanh, Tuệ phi là bị nữ quỷ trả thù dọa điên rồi.
“Vớ vẩn!” Ấn Huyên đem tấu chương của Tử Y vệ trình quẳng lên mặt đất, giận dữ: “Cái gì mà nữ quỷ trả thù, nói hươu nói vượn! Đây là dụng tâm kín đáo của kẻ rải lời đồn. Truyền chỉ, trong cung ai dám tà thuyết mê hoặc người khác, lập tức trảm!”
Ngụy Cát Tường châm chước mãi, cẩn thận khuyên nhủ: “Tuy rằng thánh nhân có dạy, không nói quái lực loạn thần, nhưng có một số việc, có thể tin liền có, chứ đừng không tin. Hoàng Thượng, ngài xem… Bằng không, trước hết để thái y lui, truyền Cấm chú sư đến trị thay?”
Nói đến “Quái lực loạn thần”, Ấn Huyên không khỏi nhớ tới cái bàn tay cương thi đêm mưa sấm sét kia, trầm ngâm thật lâu, rồi hạ chỉ truyền Cấm chú tiến sĩ Lục Danh Diên tiến Hi Thần cung, vì Tuệ phi chẩn bệnh.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT