Buổi sáng, Thái Hồng đến văn phòng điền vài tờ đơn,
rồi quay về chấm bài suốt một tiếng đồng hồ. Cô đang định đi pha trà, không ngờ
bị đàn chị Dương Thái Văn tóm được.
Thái Văn học trên cô năm khóa, sau khi tốt nghiệp tiến
sĩ được điều đi giảng dạy ở một trường đại học khác trong thành phố. Hiện nay
đang cố gắng phấn đấu vì học vị phó giáo sư.
Bởi vì cách nhau đến mấy khóa, tình cảm cũng không đến
mức gọi là thân thiết, nhưng vì đều là học trò của Quan Diệp nên hai người thi
thoảng cũng gặp nhau. Khi tốt nghiệp, Thái Hồng vì sợ không được ở lại trường
nên cũng từng đến trường của Thái Văn tham gia vài hoạt động. Thái Văn cũng
từng đưa ra nhiều ý kiến hay để giúp đỡ cô. Được Thái Văn giúp đỡ nên mỗi lần
gặp chị, Thái Hồng đều nhiệt tình chạy đến chào hỏi. Mới hàn huyên được vài
câu, khi hỏi về tình hình gần đây, Thái Văn bắt đầu oán thán: “Áp lực kinh
khủng, phải phát biểu đến n bài báo cáo, đến chết mất thôi! Em xem này, tóc chị
còn được mấy sợi đâu hả?”
Thái Hồng bật cười.
Thái Văn nói tiếp: “Thái Hồng, hôm nay có cuộc hội
thảo, chị phải báo cáo ở đó, em đến nghe chút nhé, cùng lắm chỉ nửa tiếng
thôi.”
Thái Hồng nhìn đồng hồ, thấy thời gian cũng còn nhiều,
liền cười hi hi: “Sư tỷ mời đi, đương nhiên phải đến cổ vũ rồi.”
“Không phải đến cổ vũ, chị e là phải “chém giết” đấy!”
Thái Văn khẽ nói. “Chị sợ có người sẽ đá đểu chị, lúc ấy em ra tay chống đỡ
giúp chị chút nhé!”
Thái Hồng ngạc nhiên: “Đề tài của chị về cái gì?”
“Tiểu thuyết cổ trang.”
“Ấy, không phải chị nghiên cứu văn học hiện đại sao?”
“Chị là nghiên cứu văn học cơ mà, làm bên cổ trang,
rồi nhảy sang bên hiện đại, không được sao?”
“Được, được, cái nào cũng được hết.”
“Nếu không phải biết em giỏi cổ văn chị cũng đâu có
gọi em, cô Thẩm nói cô ấy rất thích em đấy.” Giọng Thái Văn ngọt ngào như mía
lùi.
“Chị đừng khen em, khen nữa là mũi em vểnh cao, chẳng
dám bước vào cửa luôn ấy.”
Sau đó, cô đi vào phòng hội nghị tìm chỗ ngồi, không
ngờ lại trông thấy Quý Hoàng đang ngồi ở dãy bên kia, tay anh cầm một quyển sổ,
mắt nhìn ra cửa, trầm ngâm suy nghĩ.
Đúng là đến thật nhỉ? Thái Hồng thầm nghĩ, mặt bỗng
nóng ran, tim đập thình thịch.
Những bài phát biểu trong hội nghị đều rất khô khan.
Có rất nhiều bài về mảng thơ ca mà trong đó có không ít là khảo chứng. Có đề
tài rộng vô cùng, cái gì như: “Diễn biến của phong cách thơ ca khu vực Đông
Nam”… Thái Hồng nghe chán đến mức chỉ muốn ngoác miệng ra ngáp. Cô tưởng bài
báo cáo của Dương Thái Văn sẽ thú vị hơn chút, ai dè cũng chỉ là chém gió, trên
Power Point trưng ra một đống hình ảnh, nhìn hoa cả mắt, có vẻ như chỉ là bỏ
vào cho đủ số. Quả nhiên, vừa mới báo cáo xong đã bị một đàn anh họ Tôn công
kích: “Cô Dương, tôi muốn chỉ ra hai sai sót trong phần dẫn chứng trong bài báo
cáo của cô, cả hai đều là lỗi về tên sách. Chữ “trở” trong Ngũ
tạp trở là ghép từ chữ “nhân” và “thư”,
không phải chữ “tổ” của từ “tổ chức”. Còn nữa, là Canh Tỵ biên, chứ không phải Canh kỷ biên.”
Đây chính là lỗi sai mà mọi người thường nói, là sai
sót mà một người làm nghiên cứu không nên mắc phải nhất.
Nét mặt của Dương Thái Văn thoáng sầm lại, pha chút
căng thẳng. Nhưng lúc này, dù có căng thẳng đến đâu cũng phải cố giữ vững lập
trường của mình: “Tôi đã đối chiếu dẫn chứng rồi, chắc chắn là không sai. Thầy
Tôn nói như thế liệu có chứng cứ nào không?”
“Đây là kiến thức thường thức trong văn học cổ. Nếu cô
Dương không tin thì cứ đi tra Từ Nguyên.”
Trông thấy vẻ lúng túng của Dương Thái Văn, hắn càng
víu chặt không buông: “Dù cô Dương chưa tra qua Từ Nguyên, không kiểm tra tên
sách, chắc cũng biết chữ “trở” trong Dậu dương tạp trở viết sao chứ hả?”
Dương Thái Văn khẽ cắn môi.
Thái Hồng giơ tay: “Tôi có thể thay cô Dương bổ sung
một chút không?”
“Đương nhiên là được.”
Thái Hồng nói: “Người ta nói quá tin sách để rồi bị
ràng buộc, chẳng bằng không dùng sách thì hơn. Ta không thể hoàn toàn tin vào Từ
Nguyên được, trong đó có không ít sai
sót.”
“Ý cô là…”, thầy Tôn cười nhạt. “Chúng ta không nên
tin tưởng vào bộ từ điển uy tín này?”
“Chữ “tổ” với bộ giảo ti cũng có khả năng chứ!” “Tổ”
có nghĩa là “dây lụa”, nó có thể có đủ loại màu sắc, cho nên từ “hoa mỹ” thời
cổ cũng được gọi là “tổ mỹ”. Ngũ tạp tổ có thể giải thích là sợi dây lụa năm
màu, như thế có thể lắm chứ?”
“Cô có chứng cứ không?”
“Quyển anh nói là Dậu dương tạp trở, nhưng cũng có Tam tài tạp tổ và Lưu tử tạp tổ đấy chứ. Hai quyển sách sau đều là “tổ” trong từ “tổ
chức”.
“Trong sách của Hồ Sĩ Doanh và Tôn Khải Đệ đều viết là Ngũ
tạp trở, chứ không phải “tổ” của từ “tổ
chức”, chẳng lẽ chuyên gia cũng sai sao?”
“Dù là chuyên gia cũng không thể hoàn toàn tin tưởng
hết. TrongMinh sử ghi là Ngũ
tạp tổ, chẳng lẽ Minh sử cũng sai sao?”
“Nhưng mà…” Người đó nhất thời cứng lưỡi.
“Rốt cuộc là chữ “tổ” hay chữ “trở”, tôi nghĩ phải xem
chủ ý của tác giả như thế nào, điều này thì phải tra lời tựa mà bản thân tác giả
viết rồi mới có thể quyết định được.” Thái Hồng khẽ cười. “Thầy Tôn, thầy nghĩ
sao?”
“Được thôi, tạm thời bỏ qua không bàn Ngũ tạp trở
nữa.” Nét mặt của thầy Tôn thoáng đờ ra, giọng điệu đã có phần dịu xuống. “Nói Canh
Tỵ biên thành Canh kỷ
biên liệu có quá nhầm lẫn không? Đến
giờ, tên sách mà tôi xem qua dù bằng chữ giản thể hay phồn thể đều là Canh
Tỵ biên.”
Giúp người thì giúp cho trót, tiễn Phật tiễn tới tận
Tây Thiên. Thái Hồng lướt mắt nhìn quanh những thầy cô tham gia hội nghị, trừ
Quý Hoàng ra, không có nhân vật nặng ký nào ở đây, đâm lao thì phải theo lao,
cô liều luôn, kiên trì đến cùng: “Điều đó cũng chưa chắc. Thầy Tôn, thầy cũng
biết thuật khắc thời Minh rất qua loa, sơ sài. Trong rất nhiều sách, các chữ
“kỷ”, “dị”, “tỵ” không có phân biệt, tất cả đều khắc thành chữ “tỵ”, không phân
biệt độ dài, ngắn của các nét sổ, ngang, móc. Không tin thầy có thể xem bản
khắc Tình sử của Phùng
Mộng Long, cả ba chữ này đều y như nhau. Cho nên, dù tên là Canh
Tỵ biên, thì cũng có khả năng là chỉ Canh
kỷ biên, người đương thời khi đọc sẽ dựa vào
ngữ cảnh mà hiểu. Đến khi chuyển đổi chữ phồn thể sang giản thể thì nảy sinh
vấn đề, thế là chuyển tất cả những chữ đó thành chữ “tỵ”…”
Anh thầy họ Tôn tỏ thái độ không tán đồng: “Những lời
giải thích này không đủ thuyết phục. Các bản khắc từ đời Thanh, nhất là bản
quan khắc, cả ba chữ này đã được phân rõ ra rồi. Ban nãy cô có nhắc đến Minh
sử, trong Minh sử cũng viết là Canh tỵ biên. Minh sử chẳng lẽ lại sai sao? Huống chi tác giả còn viết thêm
phần kế tiếp tên là Tục tỵ biên. Nếu theo như cô nói thì phải gọi là Tục
kỷ biên mới đúng.”
Thái Hồng cứng họng, thầm mắng bản thân, rõ là vớ vẩn,
tự dưng nhắc đến Minh sử làm
cái gì?
“Nó cũng có thể được gọi là Tục kỷ biên lắm chứ”, Thái
Hồng cố chống chế. “Chẳng qua là để đỡ phiền nên người ta khắc thành chữ “tỵ”
mà thôi.”
“Thực ra…” Dương Thái Văn đột ngột chen ngang, đưa ra
chứng cớ mới. “Dựa vào năm biên tập quyển Canh kỷ biên, nó viết về những chuyện xảy ra từ năm Canh ngọ đến
năm Kỷ Mão, gọi là “Canh kỷ” sẽ hợp lý hơn.”
Anh thầy Tôn phản bác lại: “Niên đại đó chỉ là do
người khảo cứu căn cứ vào những sự kiện lớn có trong sách mà suy luận ra, tác
giả không hề giải thích, cũng không nói việc đặt tên quyển sách này có liên
quan đến năm hoàn thành. Huống chi, hai năm sau Kỷ Mão chính là Tân Tỵ nên cũng
có thể gọi là Canh tỵ biên mà.”
“Cho dù là như thế, nếu dựa vào thiên can mà tính, nó
phải được đặt tên là Canh tân biên, sao lại gọi là Canh tỵ biên được chứ?” Dương Thái Văn vặn lại.
Cũng như mọi khi, nếu không có chứng cứ chắc chắn nào
được đưa ra, những cuộc tranh luận thế này có thể kéo dài hàng tiếng đồng hồ.
Chuyện những nhà nghiên cứu văn học cổ vì một luận điểm mà tranh cãi suốt mấy
trăm năm trời, hoặc viết mấy trăm quyển sách cũng chẳng phải là chuyện hiếm.
Người chủ trì lại bắt đầu lên tiếng giảng hòa theo lối ba phải, nói đã đến giờ
giải lao, ban tổ chức có chuẩn bị trà bánh, mời mọi người thưởng thức v.v…
Đây mới là tiết mục Thái Hồng ưa thích nhất. Cô rót
một tách trà xanh, lấy một chiếc bánh kem nhỏ, đang ngó nghiêng tìm người quen,
Dương Thái Văn chạy đến chỗ cô: “Em thân yêu! Cảm ơn em hôm nay đã cứu chị một
bàn thua trông thấy!”
“May mà em có học môn Cổ tịch phiên bản học, không ngờ
lại có ích đúng lúc này. Mà này, rốt cuộc chị sử dụng tài liệu của bên nào
vậy?”
Thái Văn giậm chân: “Ngượng chết đi được, lúc viết bài
luận này chị đang được cử đi học ở Hồng Kông, dùng tài liệu của Đài Loan. Chị
cũng chẳng phải chuyên gia khảo cứu, đâu biết tên sách của Đài Loan khác với
bản của Đại Lục đâu?”
“Em cũng có biết đâu. Hôm nào có thời gian rảnh, hai
chị em mình nghiên cứu kỹ xem rốt cuộc là chữ nào!” Thái Hồng nhỏ giọng nói.
“Hôm nay xem như tạm qua mặt được gã đó, mà chỉ một ví dụ thì luận điểm không
được thành lập, điều hai chị em mình nói cũng chưa chắc đúng nhỉ?”
Dứt lời, cô đảo mắt nhìn quanh, thấy Quý Hoàng đang
đứng nói chuyện với một thầy giáo cách đó không xa. Ánh mắt anh khẽ đưa lướt
qua, thoáng dừng lại trên khuôn mặt cô. Anh vẫn như thế, không cười, nhưng ánh
mắt phảng phất tia ấm áp.
Thái Hồng gật đầu chào anh.
“Em quen anh chàng Quý Hoàng đó à?” Dương Thái Văn
hỏi.
Thái Hồng thoáng ngẩn người: “Anh ấy và em cùng khoa,
đương nhiên biết rồi.”
“Phải nói là trong khoa Văn trường S, cậu ra không tầm
thường đâu nhé! Nổi tiếng là chàng trai mặt lạnh, có học vấn uyên thâm, có thầy
hướng dẫn là một trong những giáo sư nổi tiếng nhất, mà tính khí thì cũng rất
lạ kỳ. Năm đó con gái hiệu trưởng trường S thích cậu ta, chủ động bày tỏ, vậy
mà đến một nụ cười cậu ta cũng chẳng cho cô ấy. Nếu như không vì thế mà đắc tội
với hiệu trưởng, chắc chắn cậu ta đã được giữ lại trường rồi, chứ làm gì mà đến
chỗ này của chúng ta cơ chứ?”
“Ồ, ra là vậy à? Hóa ra anh ta cũng là một miếng mồi
ngon đấy chứ nhỉ? Em không nhìn ra đấy, nhưng mà…” Thái Hồng tuy trong lòng rất
kinh ngạc nhưng vẫn vờ tỏ ra bình thản. “Vì sao anh ấy không thích cười?”
“Anh chàng này có tuổi thơ bi thảm”, Dương Thái Văn
thấp giọng nói. “Nghe đồn cha cậu ta mất sớm, gia cảnh cực kỳ khó khăn.”
Thái Hồng lườm chị một cái: “Ấy, kỳ lạ, sao chị lại
biết nhiều như thế? Chị quen anh ta à?”
Thái Văn lắc đầu: “Ở khoa chị có một lão hồi sinh viên
ở chung phòng ký túc với cậu ta. Gã thầy ấy ỷ nhà có chút tiền nên nhìn những
người dưới quê lên tỉnh bằng nửa con mắt. Lão thường xuyên rủ một đám bạn bè
đến ăn cơm ở quán ăn mà Quý Hoàng làm thêm, bảo Quý Hoàng chiết khấu cho lão,
còn bảo cậu ta hầu rượu cả đám. Anh chàng Quý Hoàng này vẫn rất bình thản, trầm
tĩnh, cư xử đúng mực. Không những đi ra rót rượu, còn hỏi bọn họ ăn uống có vừa
ý hay không. Nghe nói khi cậu ta tốt nghiệp, có đến mấy trường tranh giành,
cuối cùng vì nể mặt Quan Diệp nên cậu ta mới đến đây. Tuổi còn trẻ mà đã ra một
cuốn sách chuyên ngành, nhận được sự đánh giá rất cao của giới học thuật. Em cứ
chờ xem, chẳng mấy chốc mà học vị phó giáo sư sẽ được duyệt cho cậu ta cho
xem.”
Ngay sau đó, Dương Thái Văn than thở: “Nhưng còn chị,
học vị phó giáo sư của chị không biết bao giờ mới được duyệt đây? Trời ơi, chức
danh này sao mà khó ăn quá vậy trời?”
Nghe xong, Thái Hồng đã rầu nay càng rầu thêm, thầm
nghĩ, ít ra chị còn có cái mà hy vọng, còn em, đến học vị tiến sĩ còn chưa lấy
được nữa là…
Tán gẫu vài câu, thấy Thái Văn rời đi, Quý Hoàng liền
bước đến: “Chào!”
“Chào! Thầy Quý Hoàng cũng có hứng thú với văn học cổ
ư?” Thái Hồng hỏi.
“Uhm. Anh thích tham gia hội thảo học thuật, có thể
nắm bắt được xu hướng mới nhất.” Thoáng dừng lại, anh nói: “Ban nãy em lên “võ
đài” đánh giúp bạn phải không?”
“Sao anh biết?” Thái Hồng khoanh tay trước ngực. “Võ
đài học thuật, anh nghĩ dễ đánh lắm sao?”
“Ý tôi là, cô Hà đây tài năng xuất chúng khiến mọi
người phải trầm trồ kinh ngạc, sự sùng bái của tôi đối với tài thao thao bất
tuyệt của cô như sóng biển trào dâng vậy.”
Thái Hồng phì cười.
“Nếu em muốn “thêu hoa trên gấm”, anh sẽ cung cấp cho
em một bằng chứng.”
“Hả?”
“Chữ “tổ” của Ngũ tạp tổ chính là chữ “tổ” trong từ “tổ chức”. Trong bài tự của
quyển sách đó có giải thích.”
Thái Hồng ngẩn người: “Thế sao ban nãy anh không nói?”
“Có vài đàn anh khóa trên ngồi ở đó, từ đầu chí cuối
chẳng ừ hử câu nào. Anh sợ người ta lại nói rằng, cả đám người tranh cãi suốt
nửa buổi trời mà ngay đến bài tựa cũng chẳng chịu kiểm tra cho tử tế. Thái độ nghiên
cứu học thuật cần phải nâng cao hơn nữa…”
“Ồ, anh đang móc mỉa em đấy à?”
“Không dám.” Anh nhìn cô, ánh mắt tràn ngập ý cười:
“Đó là “buổi trình diễn” của em nên người tỏa sáng đương nhiên phải là em rồi.
Có vấn đề gì thì “đóng cửa bảo nhau” là được.”
Thái Hồng nhìn anh, chợt cảm thấy sự ung dung, tao nhã
của anh chàng này có chút vượt ngoài dự đoán của cô.
“Hi, Quý Hoàng…” Một ông thầy tự dưng xuất hiện bên
cạnh hai người từ lúc nào không hay, người đó thấp, béo, mặc áo thun màu xanh
lam, hai tay to, mặt mày hồng hào. “Đây có phải là cô giáo “Canh kỷ biên” ban
nãy không?”
“Đây chính là cô Hà, Hà Thái Hồng.” Quý Hoàng đáp.
“Xin giới thiệu, vị này là giáo sư Phùng Kiếm Đông bên khoa Văn của trường Đại
học E, chuyên gia về tự sự học.”
Hai người bắt tay nhau.
Phùng Kiếm Đông nói: “Hà Thái Hồng… Tên này nghe quen
quá. Uhm, nhớ ra rồi, năm ngoái cô có đăng hai bài trên tạp chí học thuật của
trường, nội dung nói về nhà văn nữ thời Dân quốc, đúng không? Sau này được
người khác trích dẫn cả bài viết làm tư liệu?”
Thái Hồng gật đầu. Tục ngữ có câu “có bột mới gột nên
hồ”. Trường F là nơi như thế nào, đằng sau Hà Thái Hồng có ô dù gì? Nếu như
không phải nhờ hai bài luận mà cô đã phải chỉnh sửa đến mấy chục lần đó thì sao
có thể hạ gục quần hùng để được giữ lại trường chứ?
“Quý Hoàng rất thích bài luận của cô, có buổi hội thảo
cậu ta còn nhắc cô trước mặt tôi nữa đấy.” Phùng Kiếm Đông nói tiếp.
“Thật sao?” Thái Hồng nở nụ cười rạng rỡ trên môi.
“Anh ấy nhắc đến khi nào thế?”
“Hình như là năm ngoái. Lúc đó chắc cô còn chưa tốt
nghiệp, đúng không? Quý Hoàng?”
Ra là… như vậy.
“Khụ khụ”, Quý Hoàng đưa chiếc cốc ra, đánh trống
lảng. “Nếu hai người không phiền, tôi đi rót thêm nước. Đúng rồi, cô Hà, có
phải cũng sắp đến giờ cô đi coi thi rồi không?”
Thái Hồng liền đi theo Quý Hoàng ra tận cửa, chậm rãi
đi về phía khu giảng đường.
“Anh thân giáo sư Phùng đó lắm à?” Cô hỏi
“Đúng, người ấy là học trò của sư huynh anh. Em cũng
biết đấy, số học trò mà thầy anh hướng dẫn đếm trên đầu ngón tay, sư huynh anh
còn lớn hơn Quan Diệp đến mấy tuổi đấy.” Anh nói.
“Quý Hoàng…” Thái Hồng lấy hết dũng khí, hỏi: “Anh…
thích bài luận văn đó thật sao?”
“Đúng, rất thích.”
“Là bài nào? Em viết tổng cộng hai bài.”
“Cả hai bài anh đều thích.”
“Trước… trước khi quen biết em?” Cô truy hỏi.
“Không được sao?” Anh nói. “Người quân tử lấy văn để
tụ tập bạn hữu mà.”
“Thế vì sao anh lại đem bài em viết ném vào sọt rác
chứ?”
“Được rồi, nói anh nghe đi, hai bài luận đó em sửa bao
nhiêu lần?”
“Chắc cũng mấy chục lần…”
“Còn bài này?”
“Chẳng phải đang chờ anh giúp em sửa đó sao?”
“Chỉnh sửa thêm vài lần chắc chắn sẽ hay thôi. Đúng
không nào?”
“Quý Hoàng, em cảm thấy con người anh rất kỳ lạ.”
“Vì sao?”
“Nếu anh ngưỡng mộ em thì cứ nói thẳng ra đi, em cũng
đâu phải không thể tiếp nhận lời khen tặng của anh.”
“…”
Hai người đã đến phòng học.
Thái Hồng cần mẫn làm những công việc của một trợ
giảng, đánh số báo danh, phát đề thi, đi kiểm tra từng dãy bàn một xem sinh
viên có đem thứ không nên đem vào phòng thi hay không… Giờ thi bắt đầu, cả
giảng đường trong phút chốc chìm vào im lặng.
Cô đi xuống phía cuối giảng đường tìm ghế trống ngồi,
tiện tay lấy đề thi ra xem thử. Câu hỏi mà Quý Hoàng đưa ra không nhiều, chỉ có
ba câu, nhưng đều không dễ trả lời. Cô tin rằng trong thời gian ngắn không có
sinh viên nào có thể tìm ra câu trả lời.
Đó cũng chính là phương pháp thi mà Thái Hồng ưa
thích, giúp người chấm bài có thể linh động chứ không bị gò bó vào khuôn mẫu.
Cô biết rằng tất cả sinh viên sẽ vắt óc suy nghĩ để viết đầy tờ giấy thi, nhưng
rốt cuộc trả lời được bao nhiêu thì không ai biết chắc. Nói cách khác là, những
câu hỏi khó sẽ khiến sinh viên cảm thấy mình thi rất tệ, từ đó ít kỳ vọng vào
điểm số, nếu cho điểm ở mức bình thường hoặc thậm chí hơi thấp thì sinh viên
cũng sẽ không kêu ca, oán trách.
Nhưng mà Quý Hoàng, anh không sợ sinh viên bị đánh giá
sao?
Cô uống một ngụm nước, nheo mắt lại quan sát Quý Hoàng
đang ngồi trên bục giảng. Anh cũng chẳng nghiêm túc coi thi mà đang đọc một
quyển sách. Thỉnh thoảng đưa mắt lướt nhìn sinh viên bên dưới, nhưng cũng chẳng
ai dám quay cóp, vì đã có Thái Hồng đứng phía cuối coi rồi.
Sắp hết giờ, Quý Hoàng bước đến trước mặt Thái Hồng,
đưa cho cô một mảnh giấy: “Cô Hà, nếu cô rảnh rỗi không có việc gì làm thì tôi
cho cô một câu hỏi nhé!”
“…” Thái Hồng tròn mắt nhìn anh, thầm nghĩ, anh Quý à,
anh định giở trò gì đây hả?
Quý Hoàng nghiêm túc nói: “Chỉ một câu thôi, không
khó, dạng trắc nghiệm.”
“Ồ?”
Anh quay gót rời đi, đứng ở dãy đầu để coi thi.
Thái Hồng mở tờ giấy ra, trên đó đúng là chỉ có một
câu hỏi duy nhất, được viết tay.
“Hà Thái Hồng, cô có yêu Quý Hoàng không? (Xin đánh
dấu vào câu trả lời đúng.)
Cô ngồi ở phía sau, nhìn Quý Hoàng đang đi thu bài,
từng người, từng người một, cuối cùng anh bước đến trước mặt cô.
“Cô Hà, nộp bài thôi.”
“Đây.” Cô đưa bài thi cho anh, cử chỉ rất hào phóng.
Đọc xong, Quý Hoàng khẽ mỉm cười.
“Woa, thầy Quý, anh cười rồi.” Hai tay Thái Hồng chống
cằm, mắt chớp chớp nhìn anh.
Đâu chỉ có cười, dáng vẻ Quý Hoàng còn có chút lúng
túng, ngượng ngùng.
“Uhm, trả lời rất hay. Thực ra thì… đánh dấu vào một
câu trả lời là đủ rồi.” Sau đó, anh khẽ vỗ vỗ vào đầu cô, nói: “Đi, đến nhà
hàng, anh mời em ăn cơm.”
Trên đường đi, Thái Hồng nói: “Không cần đến nhà hàng
đâu, đến căng tin là được rồi. Cả tuần nay có nhân viên của sở vệ sinh đến kiểm
tra nên bên căng tin nấu thức ăn phải nói là ngon tuyệt!”
Quý Hoàng không đáp, mà dẫn cô lên thằng tầng hai.
Sau khi ngồi xuống, anh nói: “Muốn ăn gì, em cứ gọi.”
Thái Hồng thầm khen, anh chàng này nghèo thì nghèo
thật nhưng cũng phong độ đấy chứ! Cô không giả vờ khách sáo nữa, cầm thực đơn
lật ra xem, nói: “Em ăn chay, vì dạo này đang ăn kiêng. Anh thấy gỏi mướp đắng
thế nào? Thế thì gỏi mướp đắng, thịt xào rau cần, canh mướp, thế thì hai người
ăn là đủ rồi.” Cô thầm nghĩ, tổng cộng chắc chưa đến hai mươi đồng đâu nhỉ?
Quý Hoàng khẽ cau mày nhìn cô, không nói câu nào. Hồi
lâu sau mới cất tiếng: “Chỉ đơn giản thế này thôi? Không phải em định tiết kiệm
tiền cho anh đấy chứ?”
Ôi trời! Có lẽ cô đã làm bộ làm tịch hơi thái quá
khiến anh nghi ngờ rồi chăng? Thái Hồng vội giải thích: “Không phải, không
phải! Mấy hôm nay em thường phải đi ăn tiệc, anh cũng thấy rồi đó, ăn nhiều nên
ngấy quá, nên em muốn ăn gì đó thanh đạm một chút. Mướp và mướp đắng đều là
thức mà em thích.”
Anh quan sát nét mặt của cô, xác định những lời cô nói
là thật mới gật đầu: “Cũng được, em thích là được rồi.”
Chẳng mấy chốc các món ăn được mang lên, hai người từ
từ dùng cơm.
“Quý Hoàng, anh mới đến trường này, nên chắc không
rành mấy chuyện chính trị trong khoa lắm nhỉ?” Thái Hồng hỏi.
“Không.”
“Trong khoa chúng ta có hai bè phái lớn, một nhóm đứng
đầu là bí thư Trần Nhuệ Phong, với phó bí thư Triệu Thiết Thành là phụ tá, gọi
là “nhóm Phong”. Còn một nhóm khác, được dẫn đầu bởi giáo sư Ngô Mỹ Điệp, gọi
là “nhóm Điệp”. Nhóm Phong đại diện cho những người có thực lực trong giới học
thuật, nắm giữ các chức danh, nhóm Điệp thì có trong tay các mối quan hệ, người
chống lưng đằng sau là hiệu trưởng Tôn, nắm giữ nguồn phúc lợi của mọi người.
Chẳng hạn như tòa nhà khang trang của khoa chúng ta bây giờ là do người của
nhóm Điệp đi xin tài trợ. Trong trường nếu muốn tổ chức các hoạt động lớn hay
xin tài trợ nguồn ngân sách lớn, nếu không có nhóm Điệp ra mặt thì hầu hết
không thể thành công được. Anh mới chân ướt chân ráo vào làm, còn lạ nước lạ
cái, tuyệt đối đừng có trêu “ong” ghẹo “bướm” đấy nhé!”
“Ồ”
Thấy anh không mấy mặng mà, Thái Hồng nói tiếp: “Nói
như thế có lẽ đơn giản quá nên anh không hiểu, để em nói kỹ hơn cho anh nghe.
Cô Quan vốn không thuộc bè phái nào hết, nhưng bởi vì cô bên nghiên cứu học
thuật nên tất nhiên thân thiết với nhóm Phong hơn. Sau này xảy ra chuyện của Hạ
Tiểu Cương, Ngô Mỹ Điệp lại thêm dầu vào lửa, làm chuyện ầm ĩ lên, khiến cô bị
mất tư cách hướng dẫn tiến sĩ. Con giun xéo lắm cũng oằn, thế là cô Quan cũng
trở thành người của nhóm Phong luôn.”
“Ồ.”
“Năm nay Trần Nhuệ Phong lại mời anh và em về, một
người chính là sư đệ của cô Quan, một người là học trò cũ của cô, chính là nhằm
mục đích tăng thêm sức mạnh về nhân lực trên cán cân quyền lực của nhóm Phong.
Vậy nên chúng ta không còn lựa chọn nào khác, chỉ có thể trở thành người của
nhóm Phong thôi.”
“Ồ.” Quý Hoàng vẫn cặm cụi ăn cơm, không có ý kiến.
Thái Hồng ngượng ngùng nói: “Có lẽ anh không thích mấy
đề tài chính trị này, chỉ là em lo anh không cẩn thận bị cuốn vào đó, trở thành
vật hy sinh cho bọn họ mà thôi.”
Quý Hoàng bỗng ngẩng đầu lên, nhìn cô một lượt rồi
nói: “Anh hỏi em một câu nhé, đối với em thì chính trị là gì?”
Thái Hồng chẳng buồn suy nghĩ, lập tức trả lời: “Quyền
lực và kiểm soát.”
Quý Hoàng lắc đầu: “Anh không nghĩ như thế.”
“Vậy anh nghĩ thế nào?”
“Bản chất của chính trị là công việc quản lý quần
chúng. Những điều em vừa nói ban nãy không phải chính trị, mà là âm mưu.” Anh
lạnh nhạt nói. “Người làm nghiên cứu thì cứ chuyên tâm vào học vấn là được
rồi.”
Trong phút chốc, Thái Hồng im lặng, mặt mày nóng ran.
Cô liếc nhìn Quý Hoàng một cái, bắt gặp ánh mắt lạnh lùng và kiên định của anh,
khiến cô như muốn run bần bật.
“Đừng nhìn em như thế!” Cô khẽ cắn môi. “Em chỉ hy
vọng anh được an toàn ở nơi này, nếu có chuyện gì xảy ra cũng có thể bình an rút
lui.”
Mặt anh vẫn lạnh tanh: “Sao? Em không có lòng tin vào
anh đến thế cơ à?”
“Em… em không phải…” Không ngờ bị anh vặn lại như thế,
trong cơn sửng sốt, Thái Hồng nhất thời cứng họng.
“Hay là em cảm thấy một thằng dân quê như anh không
rành sự đời, nên cần em dạy bảo?”
“Không! Không! Anh đừng hiểu lầm mà… Em không có ý
đó.”
Gương mặt lầm lì, hung dữ của anh khiến người ta phát
sợ, Thái Hồng chỉ muốn mắng cho một trận. Thấy anh là người mới nên tôi mới nói
cho anh biết, người khác tôi còn chẳng thèm đoái hoài ấy chứ! Quý Hoàng anh là
gì mà lại có thái độ này với tôi chứ? Đây chẳng phải là làm ơn mắc oán rồi sao?
Bầu không khí giữa hai người bỗng trở nên căng thẳng.
Một lúc sau, sắc mặt Quý Hoàng mới dịu xuống, anh chỉ tay vào chiếc bát trước
mặt cô, khẽ nói: “Nếu em còn không uống, canh mướp sẽ nguội mất đấy.”
“Em không muốn uống, anh uống một mình đi.” Thái Hồng
dỗi.
“Em nói em thích ăn mướp…”
“Em thấy hơi khó chịu, em về trước đây.” Cô đứng phắt
dậy.