Triêu Dương Tử sửng sốt, một lúc sau đứng phắt dậy, cả giận nói: “Nhưng Thái Hưng không chỉ là Thái Hưng của Hạ gia, một khi Thái Hưng thất thủ, cả Giang Nam sẽ để lộ dưới gót sắt quân Tiên Thị! Khi thiên hạ đang ở lằn ranh tồn vong, sao cô có thể chỉ lo ân oán cá nhân?”.
Thần Niên giương mắt nhìn Triêu Dương Tử, lại hỏi: “Đạo trưởng, ngày đó ta cõng Tiểu Thất từ thành Thịnh Đô chạy đi, ngài có biết trong lòng ta nghĩ gì không? Ta nghĩ lòng người sao có thể đê tiện hiểm ác như thế? Ta nghĩ ông trời sao lại không biết phân biệt phải trái như thế? Ta hận không thể để đại quân Tiên Thị có thể từ Tĩnh Dương giết một mạch đến Thịnh Đô, chém tận giết tuyệt đám danh gia vọng tộc, quý tộc hoàng thất dối trá vô sỉ đó đi, diệt cái thiên hạ đen trắng đảo điên này luôn đi!”.
“Thần Niên…” Triêu Dương Tử không ngờ trong lòng Thần Niên từng có oán niệm như thế, nhất thời sợ đến mức nói không ra lời.
Thần Niên cúi mắt xuống, ổn định lại dòng suy nghĩ của mình rồi mới nói thêm: “Đạo trưởng, ngài biết thân thế của ta, trong người ta chảy một nửa huyết mạch Tiên Thị, thậm chí, nếu có thể, ta chỉ hận không thể bỏ hết nửa dòng máu họ Hạ trong người đi. Đạo trưởng, ta có thể không giúp bên nào đã là khó khăn lắm rồi”.
Triêu Dương Tử đứng đó, một lúc sau lên tiếng: “Vì bách tính muôn dân cũng không được sao?”.
Thần Niên cũng chỉ trầm mặc, hồi lâu sau mới tự giễu cười, đáp: “Đạo trưởng, bách tính quá ṇng, nên để người chí tôn nơi thiên hạ gánh trách nhiệm này, chứ không phải ta. Ta chỉ muốn nuôi Tiểu Bảo lớn khôn, không muốn con bé cũng giống như ta”.
Trong viện lại rơi vào im lặng, Triêu Dương Tử lại đứng đó một lúc lâu, không nói không rằng, xoay người đi nhanh ra ngoài. Thần Niên cũng không đứng dậy tiễn ông, chỉ chậm rãi cúi đầu xuống, đặt trán lên cái đầu bé nhỏ của con gái, nhắm mắt ngửi mùi vị ngọt thơm đặc hữu trên người trẻ con.
Bất tri bất giác, khóe mắt nàng đã ươn ướt, nàng không muốn chém giết nữa, không muốn phán đoán ai thiện ai ác nữa, không muốn hy sinh vì nghĩa nữa. Nàng chỉ muốn lớn lên với Tiểu Bảo, muốn thỉnh thoảng lên núi thăm Diệp Tiểu Thất và Tiểu Liễu, muốn bình lặng sống mãi trong thôn trấn này.
Năm Tân Võ thứ ba, từ đầu mùa hè tới bây giờ, chiến sự Giang Bắc càng thêm căng thẳng. Đại quân của Phong Quân Dương đuổi theo quân của Mộ Dung Hằng suốt dọc đường từ Đông đến, chậm rãi tiến quân về hướng Dự Châu. Cuối tháng Tám, một nhánh đại quân Thác Bạt Nghiêu ngầm giấu ở Bắc Tuyên Châu xuyên qua núi Yên Thứ theo một con đường cổ không ai hay biết, tránh Thanh Châu, đến Ký Châu.
Dương Tập ở Thanh Châu nhận được tin, lập tức phái binh chặn đánh, nhưng binh lực hai bên khác xa nhau, không thể ngăn nổi đại quân Tiên Thị, để chúng vòng qua phía Bắc núi Thái Hưng, tiến vào phía Bắc Ký Châu. Mà Tiết Thịnh Hiển của Ký Châu nhát gan sợ chiến, co đầu rụt cổ không ra, mặc cho quân Tiên Thị vượt qua cảnh giới, thẳng hướng Nam giết đến Nghi Bình.
Nghi Bình không thể so với Thái Hưng, có thành cao hào sâu để cậy vào, một khi mất Nghi Bình, chưa nói đến việc chặt đứt đường nối Nam-Bắc của Phong Quân Dương, ngay cả Thanh Châu cũng khó bảo toàn. Đến lúc đó, hai mươi vạn đại quân Tây tiến của Phong Quân Dương sẽ trở thành một cánh quân cô độc.
Phong Quân Dương nhận được tin trong quân, không khỏi giận quá hóa cười, nói: “Tiết Thịnh Hiển ơi Tiết Thịnh Hiển, không ngờ y lại có thể ngu xuẩn đến mức này!”. Chàng rất ít khi tức giận như thế, trong trướng nhất thời lặng phắc như tờ. Một lát sau, mới có một tướng lĩnh xin chỉ thị: “Đại tướng quân, mạt tướng nguyện lãnh binh quay về Đông cứu viện Nghi Bình, giết sạch đám người Tiên Thị này”.
Sắc mặt Phong Quân Dương u ám, lạnh lùng nói: “Thác Bạt Nghiêu hiện chỉ ước sao ta chia binh, để đập tan từng bộ phận. Ngươi không tin, một khi ta chia quân về cứu Nghi Bình, Thác Bạt Nghiêu sẽ không còn gì băn khoăn nữa, lập tức phái đại quân từ Tĩnh Dương xuôi Nam. Đến lúc đó, chúng ta không những không thể cứu Dự Châu, mà đến bản thân còn khó giữ”.
Lần này về Tây cùng Phong Quân Dương là hai mươi vạn đại quân, để lại thủ Tân Dã, Lam Đồng đã là mấy vạn, số này đã chiếm già nửa binh lực của Phong Quân Dương, cho dù Giang Nam còn chút binh mã, nhưng cũng không thể tùy tiện sử dụng. Phong Quân Dương phân vân một lát, nói: “Tình hình trước mắt, cũng chỉ có thể điều binh từ Giang Nam lên Bắc giải vây cho Nghi Bình, hơn nữa chỗ đó cũng cách Nghi Bình gần hơn”.
Phụ tá Hàn Hoa giương mắt nhìn Phong Quân Dương, không hề lên tiếng, chờ tới khi trong trướng không còn ai khác mới nói với Phong Quân Dương: “Vương gia, Giang Nam không thể so với Vân Tây chúng ta, chư vương họ Tề tuy đã lụi, song dư đảng chưa trừ, người điều hết binh mã ở đó đi, có từng suy xét ngộ nhỡ có kẻ mượn cơ hội sinh sự, lấy binh đâu ra để áp chế chưa?”.
Phong Quân Dương sao lại chưa từng suy xét việc này, nghe thế không nén nổi nụ cười gượng, nói: “Do ta trước đó quá tự đại, mất tiên cơ nên bị Thác Bạt Nghiêu từng bước ép bức đến chỗ này, không thể không làm thế được”.
Chàng nói thế tức là đã quyết ý, Hàn Hoa không tiện khuyên nữa, đành bỏ cuộc.
Lúc này, trong Nam Thái Hành là lúc ráng đỏ khắp núi, phủ lên tầng lớp non xa.
Sau khi Triêu Dương Tử đi, Thần Niên ngày nào cũng như ngày nào, càng siêng năng đi thăm mộ Diệp Tiểu Thất và Tiểu Liễu hơn. Nàng thường ra ngoài từ sáng sớm, cõng Tiểu Bảo vượt qua mấy ngọn núi, yên lặng ngồi nửa ngày trước phần mộ hai người họ, sau đó lại leo núi quay về.
Mấy ngọn núi to lớn đều rất hiểm trở, cũng chính nhờ sự cản ngăn của núi nên mới biến trấn nhỏ Thần Niên ở thành một chốn đào nguyên trong thời loạn. Ngoài núi loạn lạc giết chóc, trong núi lặng yên ắng an hòa.
Hôm nay Thần Niên lại ngồi rõ lâu trên sườn núi, khi trở về đã là lúc chạng vạng tối, đi vào cửa viện đã thấy Triêu Dương Tử ngồi dưới gốc cây, bất giác sững người. Dương bà bà vẫn luôn ở trong phòng, xem chừng bên ngoài, thấy Thần Niên về vội ra đón, nhân cơ hội ôm Tiểu Bảo bèn nói nhỏ với Thần Niên: “Đã đến lâu rồi, nước cũng không uống, cơm cũng không ăn, chỉ ngồi đấy, bảo là chờ cô”.
Đây là lần đầu tiên Thần Niên rời núi sau khi mai táng Diệp Tiểu Thất, hai ngày đầu ở trong núi, còn chưa thấy có thay đổi gì lớn, đến khi nàng tiến vào khu đồng bằng Ký Châu mới giật mình cảm nhận được sự hoang liêu. Nàng liên tục đi qua mấy thôn trang đều ít thấy người ở, cỏ dại mọc um tùm trong đống mái tường đổ nát, thỉnh thoảng có chó hoang lấp ló trong đó, dăm ba con tụm thành một đàn, nhe răng gừ gừ khe khẽ, không biết đang tranh nhau thứ gì.
Thần Niên đi suốt dọc đường, càng nhìn càng thấy kinh hãi, trước kia nàng đã từng đến Ký Châu, tuy nơi này không giàu có sung túc như Giang Nam, nhưng cũng tuyệt không phải tình cảnh như thế này.
Đến sáng ngày thứ năm, Thần Niên rốt cuộc cũng bắt kịp Triêu Dương Tử trong một trấn nhỏ cách Ký Châu hơn trăm dặm, Triêu Dương Tử im lặng tiến lên, trả Tiểu Bảo lại cho Thần Niên, bàn giao: “Mấy hôm nay ta cho con bé ăn cháo, cũng cho ăn vài bữa thịt bằm hoặc bột rau, tiểu nha đầu thích lắm”.
Thần Niên thấy Tiểu Bảo tuy hơi gầy, còn thì cũng coi như hăng hái, giờ mới yên tâm, nàng ôm chặt Tiểu Bảo vào lòng, lui về sau mấy bước, nói với Triêu Dương Tử: “Đạo trưởng, ngài có nhiều ân huệ với Thần Niên, Thần Niên vô cùng cảm kích, nhưng bất kể ngài có mục đích gì cũng không nên lấy con của ta ra để uy hiếp ta. Đây là lần đầu tiên, ta hi vọng cũng là lần cuối cùng”.
Sắc mặt Triêu Dương Tử nặng nề, yên lặng nhìn Thần Niên, sau lại hỏi nàng: “Dọc đường đuổi theo, cô đã nhìn thấy gì?”.
Thần Niên hơi sững người, mím môi không đáp.
Triêu Dương Tử chỉ quanh bốn phía, nói: “Ta đã từng đến thôn trấn này, khi đó cư dân nơi này hơn một nghìn, cũng coi như phồn hoa, tháng Chín, nhân mã Tiên Thị chém giết qua đây, gom tất cả dân chúng lại đây, chọn tráng đinh trong đó làm lao dịch, già trẻ phụ nữ còn lại đều gần bị giết hết, người sống sót chẳng còn là bao. Không chỉ Ký Châu, còn cả Ích Châu, Dự Châu, Ung Châu… Phàm là nơi đại quân Tiên Thị từng đi qua đều như thế này, đất đai khô cằn, xương trắng chất đống, cả Giang Bắc đã biến thành địa ngục nhân gian!”.
“Chẳng lẽ đây là thiện ác đều có báo ứng mà cô nói? Cô nói cho ta biết, những bách tính này rốt cuộc đã làm gì ác? Cô mong đại quân Tiên Thị chém giết thế này đến tận Thịnh Đô sao? Bị chém tận giết tuyệt là đám thế gia quý tộc hay là những người dân vô tội này?” Triêu Dương Tử càng nói càng xúc động phẫn nộ, sau đó đã hóa thành gào thét, “Tạ Thần Niên, cô có một nửa huyết thống Tiên Thị, nhưng thủy thổ ở đâu nuôi cô khôn lớn? Đồ cô mặc trên người là y phục ở đâu, miệng cô nói thứ tiếng gì? Cô có thể trơ mắt nhìn đồng bào mình chết thảm dưới đao người Tiên Thị, mà mình lại không đếm xỉa đến sao?”.
Thần Niên luôn cụp mắt trầm lặng, nhưng Tiểu Bảo trong lòng lại sợ hãi khóc òa lên.
Triêu Dương Tử mừng rỡ trong lòng, cười đến nổi hết nếp nhăn trên mặt, vội đáp: “Quận Trung Sơn”.
Quận Trung Sơn không ở nơi nào khác mà ở ngay phía Tây Ký Châu, ngay gần sườn Phi Long, thành trì không lớn, nhưng nhờ nằm giữa cửa khẩu sườn Phi Long, vị trí quân sự cực kì quan trọng. Cuối tháng Tám đại quân Tiên Thị từ Bắc đến, Tiết Thịnh Hiển rụt cổ ở Ký Châu thủ mà không chiến, Tiên Thị bỏ Ký Châu không cai quản nhưng lại chiếm quận Trung Sơn, để lại năm nghìn binh sĩ gác ở đây.
Lúc ấy, binh lực trong tay Dương Tập còn nằm cả ở Bắc Thanh Châu, vốn không thể chú ý đến phía Đông, chỉ có thể trơ mắt nhìn người Tiên Thị chiếm cứ điểm Trung Sơn, đóng một cái đinh vào giữa Thanh Châu và Ký Châu, chặt đứt liên hệ của hai nơi này. Sau đó, từ đây, nửa đoạn phía Tây của sườn Phi Long còn có thể đi, nhưng vừa đến mé Đông thì lại phải vòng qua Bắc đi vào đường mòn trong núi đặng né cửa khẩu thành Trung Sơn.
Đường mòn trong núi đại đa số khúc khuỷu khó đi, đi nửa ngày cũng không đi được già nửa quả núi. Trịnh Luân tuy đi gấp một ngày một đêm, nhưng cũng mất ba bốn ngày đường mới đến dãy Thái Hành cao ngất. Thân vệ tùy tùng giục ngựa tiến lên, cung kính hỏi Trịnh Luân: “Tướng quân, có cần đến thành Trung Sơn xem sao không?”.
Trịnh Luân phụng mệnh của Phong Quân Dương chạy đến Giang Nam tiếp nhận viện quân vừa mới tập hợp, vốn nên đi thẳng đến Nghi Bình vượt sông, nhưng hắn lại đi đường vòng Ký Châu, chính là vì muốn xem bố trí quân sự ở Ký Châu ở Tiên Thị. Thành Trung Sơn chính là cứ điểm quân sự quan trọng, đương nhiên là phải đi xem một cái, giờ nghe thân vệ kia hỏi vậy, liền gật đầu nói: “Đi xem”.
Thành Trung Sơn bị Tiên Thị chiếm, vốn không thể tiến vào, Trịnh Luân muốn xem thành trì kia cũng chỉ có thể lên đỉnh núi ngoài thành, quan sát bên trong thành. Mà những nơi như thế tám chín phần mười cũng sẽ có lính gác ngầm của đối phương, phải hết sức cẩn thận mới được. Trịnh Luân chỉ dẫn theo hai thân vệ, bỏ ngựa lại, trèo lên đỉnh núi.
Bản thân hắn võ công vượt trội, võ công của hai thân vệ đi theo cũng chẳng xoàng, ba người cố tình chọn nơi dốc đứng khó đi, chính là vì muốn tránh lính gác ngầm của người Tiên Thị, không ngờ lúc sắp đến đỉnh núi lại nghe có tiếng người loáng thoáng từ phía trên truyền xuống, “Tạ đại đương gia, nhìn người Tiên Thị trong thành cùng lắm là mấy nghìn, người của chúng ta còn nhiều hơn bọn chúng, đánh hạ không thành vấn đề”.
Trịnh Luân nghe thế trong lòng chấn động, hơi ngập ngừng, im ắng không tiếng động trèo lên đỉnh núi, quả nhiên thấy trên vách đá có sáu bảy người giang hồ đứng đó, trong đó có một người tướng tá cao lớn thô kệch, sau lưng giắt một đôi chùy đá, đúng là Đại Ngốc. Đứng trước y một khoảng không xa là một cô gái, cũng ăn vận rất gọn gàng, đầu đội mũ, nhìn hình dáng có vài phần giống Thần Niên.
Nhịp tim Trịnh Luân vô thức đập nhanh hơn, im lặng nhìn bóng lưng nàng, nhưng khi nàng mở miệng nói chuyện thì hắn giống như bị một chậu nước lạnh giội từ đầu xuống chân, nàng không phải Thần Niên, mà là Lỗ Linh Tước.
“Cách thức công thành có rất nhiều, nhớ ngày đó lúc chúng ta đoạt Nghi Bình từ tay Hạ gia cũng không có nhiều quân canh phòng, nhưng vẫn làm chúng ta thiệt hại bao nhiêu người mới có thể miễn cưỡng thành công. Nếu muốn đoạt Trung Sơn, không thể tiến công, phải nghĩ cách khác mới được”.
Người nói chuyện đầu tiên là một hán tử tráng kiện hai mươi ba hai mươi bốn tuổi, nghe thế cười hai tiếng, nói: “Nhân số của chúng ta nhiều gấp đôi người Tiên Thị, chẳng lẽ lại không đánh được một thành Trung Sơn nho nhỏ. Tạ đại đương gia sao lại dập tắt chí khí của bản thân, đề cao uy phong của người khác? Trước kia lúc nhảy từ trên thành Nghi Bình xuống, khí phách coi thiên quân vạn mã như không đâu mất rồi? Nếu cô không dám, vậy cứ đứng xa xem trận, để Phương Huân ta mang binh công thành là được”.
Linh Tước vì giả dạng Thần Niên, đầu tiên là có vài phần chột dạ, bị Phương Huân lấy lời lẽ ra công kích, không nhịn được nói: “Ai nói ta không dám?”.
Phương Huân lại hỏi: “Vậy chúng ta rốt cuộc có đánh thành Trung Sơn không?”.
Linh Tước lập tức đáp: “Đánh, đương nhiên là phải đánh, nhưng không phải cưỡng ép công thành. Chờ ngày mai chúng ta mai phục trong sườn Phi Long, phái hai nghìn binh thừa dịp đêm khuya đi đánh thành Trung Sơn, sau đó giả vờ tháo chạy, dụ người Tiên Thị ra khỏi thành, mượn cơ hội này đập tan bọn chúng, đoạt được Trung Sơn”.
Cô xưng hô với Trịnh Luân như vậy lại thu hút sự chú ý của vài người khác. Trước kia Thần Niên đã bái đường với Trịnh Luân ở Nghi Bình, tuy mọi biểu hiện sau đó đều tỏ rõ đây chẳng qua là một màn kịch, song trong mắt thế nhân, hai người tốt xấu gì cũng coi như phu thê, không nên lạnh nhạt như vậy.
Linh Tước thấy phản ứng của mọi người như vậy, cũng vội giật mình, cô vốn sợ bị người khác biết mình đóng giả, trong lòng hốt hoảng, càng thêm hồ đồ, vội tiến lên hai bước, giọng điệu thân mật hỏi Trịnh Luân: “Trịnh đại ca, sao huynh lại đến đây?”.
Nhưng Thần Niên chưa bao giờ xưng hô với Trịnh Luân như thế, biểu cảm của Trịnh Luân hơi quái dị, liếc Linh Tước một cái, nói: “Đi ngang qua đây, đến xem sao”. Hắn nói xong dừng lại, ngừng mấy hơi mới mở miệng hỏi Linh Tước, “Thần Niên, mọi người muốn tấn công thành Trung Sơn?”.