Đầu tháng Hai, Thác Bạt Nghiêu hạ lệnh sai Mục Triển Việt dẫn mình quân Bắc Mạc tiếp tục xuôi Nam tấn công Thái Hưng, còn Lục Kiêu làm hậu ứng cho Mục Triển Việt, dẫn binh vào chiếm giữ Dự Châu.

Bên trong thành Thanh Châu, đám người Phong Quân Dương cũng đã nhận được tin Dự Châu thất thủ. Dương Tập lộ vẻ nghi hoặc, nói: “Dự Châu bị bỏ lại khá kì lạ, với sức lực của Hạ gia, không nên dễ dàng đánh mất Dự Châu như thế, để Khâu Mục Lăng Việt dẫn binh đánh đến thành Thái Hưng”.

Phong Quân Dương sao lại không nhìn ra sự lằng nhằng trong đó, nghe vậy cười cợt nói: “Thành mất rồi còn có thể đoạt lại được, nhưng người chết rồi thì đâu còn kịch mà hát nữa. E là Hạ Trăn cố tình vứt bỏ Dự Châu hòng bảo toàn lực lượng, chờ chúng ta đến cứu viện đấy”.

Dương Tập lặng đi một lát, không khỏi thở dài: “Hành động lần này của Hạ Trăn quá mức mạo hiểm, vạn nhất chúng ta không đến cứu viện, chẳng phải là ông ta muốn ngồi chờ chết sao?”.

Lão tướng Mạc Hằng nghe xong câu này lập tức nói: “Sao có thể không cứu? Chẳng lẽ muốn tận mắt thấy người tộc khác cướp thành trì của ta, tàn sát đồng bào của ta sao?”.

“Đúng thế, sao có thể không cứu?” Phong Quân Dương giếu cợt mà cười khẽ, một khi Thái Hưng thật sự rơi vào tay Thác Bạt Nghiêu, nơi hiểm yếu sông Uyển sẽ không cậy nhờ được nữa. Thác Bạt Nghiêu không chỉ có thể xuống thẳng Giang Nam mà còn có thể đoạt thành Nghi Bình trước, biến hai châu Thanh, Ký thành tử địa. Hạ Trăn cũng nắm bắt được điều này nên mới làm thế, buộc chàng không thể không xuất binh. Mà muốn phái binh Tây tiến, nhất định phải đoạt được Tân Dã trong tay Mộ Dung Hằng trước.

Trong tháng Hai, Phong Quân Dương lệnh cho Mạc Hằng dẫn năm vạn đại quân từ Thanh Châu tiếp viện Vũ An, hiệp trợ Trịnh Luân tấn công hai thành Tân Dã, Lam Đồng.

Trịnh Luân đích thân ra ngoài thành đón Mạc Hằng, nói: “Lúc trước Mộ Dung Hằng lĩnh mười vạn đại quân Đông tiến, liên tục công thành đoạt đất, cũng hao tổn chút binh lực. Chỉ có điều bọn chúng thủ thành, vốn chiếm được địa lợi, hơn nữa Tân Dã, Lam Đồng lại hợp thành một góc với nhau, bất kể công nơi nào, chi binh một thành khác tất sẽ mau chóng đến cứu, đến lúc đó quân ta lại hai mặt giáp địch”.

Mạc Hằng tuy nhiều kinh nghiệm nhưng vẫn là người khiêm tốn thận trọng, nghe vậy bèn nói: “Đây cũng là điều lão phu suy nghĩ suốt dọc đường, phải nghĩ cách phá được thế hợp góc này trước mới xong”.

“Đúng thế.” Trịnh Luân gật đầu, thấy vẻ mặt Mạc Hằng mệt mỏi, nói tiếp, “Lão tướng quân đi đường vất vả, chi bằng nghỉ một đêm trước đã, ngày mai lại triệu mọi người đến cùng bàn chiến sự”.

Mạc Hằng nhận lời, Trịnh Luân sai người sắp xếp phòng ốc cho Mạc Hằng và những thân binh đi theo nghỉ ngơi. Một lát sau, thiên tướng phụ trách tiếp đãi lại đến tìm Trịnh Luân, lén bẩm báo: “Tướng quân, bên cạnh Mạc lão tướng quân có một cô gái trẻ đi theo”.

Trịnh Luân nghe vậy có phần kinh ngạc, ngạc nhiên nói: “Cô gái?”.

“Đúng thế”, thiên tướng kia đáp, “Tuy giả dạng thành thân binh nhưng khuôn mặt và dáng người vừa nhìn đã biết là con gái, hơn nữa nhìn còn hơi quen, hình như là Linh Tước cô nương của Thanh Phong trại”.

Viên thiên tướng này từng theo Trịnh Luân đánh Nghi Bình, đã từng gặp Linh Tước, nếu y nói giống, hơn phân nửa đó là Linh Tước rồi. Có điều trước đó Linh Tước đi tìm Lục Kiêu, sao giờ lại xuất hiện ở đây? Trịnh Luân bất giác sinh lòng cảnh giác, nghĩ nghĩ, lại hỏi: “Mạc lão tướng liệu có biết?”.

Thiên tướng đáp: “Ít nhất là biết cô ấy là con gái, bảo cô ấy ở một mình”.

Trịnh Luân mím môi cân nhắc một lát rồi mới hạ lệnh: “Nếu là vậy, ngươi cứ thầm theo dõi cô ta đã, đừng đánh rắn động cỏ”.

Thiên tướng kia lĩnh mệnh rời đi, Trịnh Luân tuy hoài nghi Linh Tước nhưng cũng không tiện vượt mặt Mục Hằng trực tiếp tìm cô, chỉ hôm sau lúc nói chuyện với Mạc Hằng, như có vẻ tùy ý nói: “Mạc lão tướng quân, bên cạnh ngài có một thân binh ta thấy hơi quen, chính là người vóc dáng không cao, da dẻ trắng trẻo, hắn họ Lỗ phải không?”.

Mạc Hằng sững sờ một lúc mới hiểu ra Trịnh Luân đang nói đến ai, không khỏi cười nói: “Đúng là họ Lỗ, có điều đó là một vị cô nương, sao, cậu quen à?”.

Trịnh Luân gật đầu, nói: “Quen, nhưng không biết tại sao cô ấy ở lại cạnh ngài?”.

Mạc Hằng đáp: “Lúc sắp đến đây, Dương Tập phó thác cô ấy cho ta, nói là bằng hữu của cậu ta ở Tụ Nghĩa trại, tuy là một cô nương nhưng lại toàn tâm muốn ra trận giết địch, đến Thanh Châu cũng không chịu ở lại, Dương Tập hết cách, nên mới để sang chỗ ta”. Nói đến đây, Mạc Hằng đột nhiên nhớ ra Trịnh Luân đã từng liên thủ với Tụ Nghĩa trại tấn công Nghi Bình, lại nói, “Cô ấy đã là người của Tụ Nghĩa trại, hẳn là cậu đã từng gặp ở Nghi Bình”.

“Đúng là đã từng gặp ở Nghi Bình”. Trịnh Luân ngừng lại, nói tiếp, “Nhưng cô ấy đã rời Tụ Nghĩa trại từ sớm, đi quan ngoại tìm Lục Kiêu”.

“Lục Kiêu?”.

Giữa chân mày Trịnh Luân hơi cứng lại, nói: “Chính là tướng tiên phong của Thác Bạt Nghiêu, Bộ Lục Cô Kiêu, Lục Kiêu là tên Hán lúc hắn hành tẩu ở Trung Nguyên. Lúc ấy đánh hạ thành Nghi Bình, ta dẫn binh về Thanh Châu, để Tống Diễm và Tụ Nghĩa trại ở lại Nghi Bình. Nghe Tống Diễm nói, Lỗ Linh Tước chung tình với Lục Kiêu, từ trước khi Hạ Trạch tấn công Nghi Bình đã đi quan ngoại tìm Lục Kiêu rồi”.

Nếu trước kia Linh Tước quả thực ở cùng Lục Kiêu, hiện giờ đột nhiên đến đây trong quân, mục đích là cực kì khả nghi. Mạc Hằng nói: “Ta gọi cô ấy đến, hỏi thử xem”.

Ông bảo thân binh tâm phúc đi ra ngoài, chỉ chốc lát sau đã dẫn Linh Tước ăn mặc kiểu thân binh tới đây. Linh Tước vừa vào cửa nhìn thấy Trịnh Luân, thản nhiên hành lễ với hắn: “Linh Tước bái kiến tướng quân”.

Trịnh Luân khẽ gật đầu, hỏi thẳng cô: “ Lỗ cô nương, không phải cô ở bên cạnh Lục Kiêu sao? Sao lại đến đây?”.

Linh Tước như đã dự liệu trước Trịnh Luân sẽ hỏi câu này, trầm giọng nói: “Trịnh tướng quân, tôi biết ngài chắc chắn hoài nghi tôi đến làm mật thám cho Lục Kiêu. Có điều, ngài nghĩ sai rồi. Tôi là người Hạ, đến để tòng quân, chỉ là muốn giết địch đền nợ nước, cứu đồng bào khỏi mũi đao ngoại tộc. Về cùng với tôi, còn có cả hai người Ôn đại ca và Đại Ngốc. Ôn đại ca võ công không giỏi, nên ở lại Thanh Châu chỗ Dương tướng quân, Đại Ngốc thì trở thành một tên tiểu tốt trong quân. Bởi tôi là con gái, Dương tướng quân không cho tôi vào quân doanh nên mới phó thác tôi cho Mạc lão tướng quân”.

Cô nói rành rọt lưu loát, không giống như đang nói láo. Trịnh Luân nhất thời không phân biệt được cô thật lòng hay giả dối, cùng Mạc Hằng liếc nhau, bèn nói: “Lỗ cô nương, không phải Trịnh Luân không chịu tin cô, nhưng để an toàn, ta không thể để cô và Đại Ngốc ở trong quân, nhất định phải sai người đưa các cô về Thanh Châu”.

Linh Tước từ quan ngoại trở về, một lòng muốn xông trận giết địch, giờ nghe Trịnh Luân không những hoài nghi nàng là mật thám của Tiên Thị mà còn muốn đưa nàng về lại Thanh Châu, khó tránh khỏi sốt ruột, lại tranh luận với hắn mấy câu nữa, thấy vẫn không thể lay chuyển được hắn, không khỏi tức giận nói: “Một khi đã như vậy, ngài cũng khỏi cần đưa chúng tôi về Thanh Châu, chúng tôi tự đi, về trong núi phất cờ khởi nghĩa lần nữa, triệu tập nghĩa sĩ, vẫn có thể giết người Tiên Thị”.

Trịnh Luân không hề nhúc nhích, chỉ thản nhiên nói: “Lỗ cô nương tất nhiên là có thể làm thế, nhưng trước tiên ta cứ phải đưa cô về tay Dương Tập đã”.

Linh Tước tuy căm tức trong lòng nhưng cũng hết cách với Trịnh Luân, nén ngọn lửa giận trong lòng chắp tay với Trịnh Luân và Mạc Hằng, cáo từ rời đi, không ngờ đi tới cửadừng chân, quay lại hỏi Trịnh Luân: “Trịnh tướng quân, có thể phiền ngài dời bước ra đây cho ta hỏi một câu được không?”.

Trịnh Luân nhìn cô hai cái, theo cô ra khỏi phòng, hỏi: “Chuyện gì?”.

Không ngờ Linh Tước lại hỏi: “Trịnh tướng quân có biết Thần Niên hiện đang ở đâu không?”.

Sau cuộc chiến ở Nghi Bình, nhân mã Tụ Nghĩa trại gia nhập quân của Phong Quân Dương, Thần Niên lại đột nhiên mất tăm mất tích, Linh Tước và Ôn Đại Nha đã từng hỏi Dương Tập tăm hơi của Thần Niên, Dương Tập chỉ nói đã theo Triêu Dương Tử và Tịnh Vũ Hiên đi Giang Nam, còn cụ thể hơn thì không hỏi được nữa.

Không biết vì sao, Linh Tước hơi không tin.

Trịnh Luân nghe Linh Tước chợt hỏi đến Thần Niên, bất giác khẽ giật mình. Đã hơn một năm nay, hắn đã cố sức quên đi cái tên này, giờ nghe thấy, tâm tình bất giác hơi phức tạp, vô thức tránh né cái nhìn của Linh Tước, đáp: “Không biết”.

Linh Tước hơi thất vọng, rồi lại không biết làm sao, đành phải theo người rời đi.

Trịnh Luân đứng ở bên ngoài một lúc rồi mới xoay người vào trong nhà, nói với Mạc Hằng: “Xin lão tướng quân hãy phái thêm người đưa Linh Tước và bằng hữu của cô ấy về Thanh Châu”.

Linh Tước do Mạc Hằng đưa đến, tất nhiên nên do ông phái người đưa về. Mạc Hằng rút một vài kỵ binh đến đưa hai người Linh Tước và Đại Ngốc về. Đại Ngốc khó khăn lắm mới có cơ hội được xuất chinh, không ngờ còn chưa kịp đánh trận nào mà đã bị đuổi về, trong lòng khó tránh khỏi ấm ức, Linh Tước cũng bực dọc trong mình, bèn nói: “Chúng ta về bàn bạc kĩ càng với Ôn đại ca một phen, không được thì đến Thịnh Đô tìm Thần Niên, hiệu triệu nghĩa quân một lần nữa, cũng đỡ phải bị ức hiếp dưới tay mấy người này”.

Hai người thúc ngựa nhanh về Thanh Châu, tìm Ôn Đại Nha thương lượng giữa đêm, định đến Thịnh Đô tìm Thần Niên. Không ngờ lúc nói chuyện này với Dương Tập thì Dương Tập lại gạt đi, chỉ nói: “Giờ tình hình Giang Bắc thế này, bất luận ở đâu cũng có thể nghe được tin tức, Thần Niên đã không đến, ắt có chỗ khó xử của cô ấy, không cần phải đi tìm nữa”.

Linh Tước không biết con gái Hạ gia mà Phong Quân Dương lấy chính là Thần Niên, còn tưởng Thần Niên giận dỗi chàng bởi Phong Quân Dương lấy người khác, không nhịn được bảo: “Chúng ta chống lại Tiên Thị là vì dân chúng gặp nạn chứ không phải vì Phong Quân Dương, Thần Niên có gì khó xử? Hơn nữa, Phong Quân Dương cũng đã lấy con gái Hạ gia rồi, Thần Niên còn ở lại Thịnh Đô làm gì? Nếu là tôi, nên quay đầu rời đi, quay về núi Thái Hành của chúng ta mới phải”.

Dương Tập hơi mím môi, nhất thời không biết nên trả lời Linh Tước thế nào. Cậu thạo tin hơn Trịnh Luân, việc Thần Niên xông vào cung tuy bị Phong Quân Dương đè xuống nhưng Dương Tập vẫn nghe ngóng được, láng máng đoán ra Thần Niên đã rời khỏi Thịnh Đô lâu rồi. Nhưng việc này không tiện nói với đám Ôn Đại Nha.

Ôn Đại Nha thấy Dương Tập phản ứng như thế, thấy có phần không ổn, không khỏi nhìn Dương Tập hai cái, hỏi: “Dương Tập, có phải cậu có chuyện gì giấu bọn tôi không?”.

Dương Tập che đậy nở nụ cười, nói: “Ta có gì giấu mọi người chứ?”.

Ôn Đại Nha nghiêm mặt nói: “Tôi biết cậu giờ xem như đã là người của Phong Quân Dương, nhưng cậu cũng đừng quên năm xưa ai đã cứu hai huynh muội cậu dưới lưỡi đao đó. Nếu không nhờ Thần Niên, cỏ trên mộ mấy người chúng ta không biết đã mọc được mấy lứa rồi, làm người phải có lương tâm, không thể uổng công khoác tấm da người này được”.

Ôn Đại Nha luôn thích làm người hiền hậu, rất ít khi nói cứng với người ta, lời này từ miệng hắn đi ra đã là nặng lời lắm rồi, Dương Tập nghe thế lặng người đứng dậy đi đến cửa sổ cẩn thận quan sát tình hình bên ngoài rồi mới quay lại nói nhỏ: “Việc này nói ra thì dài dòng, tình hình cụ thể trong đó ta cũng không rõ ràng lắm, chỉ biết là Thần Niên hiện không ở Thịnh Đô, hẳn là ở Nam Thái Hành”.

Đám Ôn Đại Nha đều sửng sốt, ngạc nhiên nói: “Nam Thái Hành?”.

“Ừm”, Dương Tập gật đầu, đây là do cậu đoán ra từ lời của Thuận Bình, “Đại khái là ở giữa Thanh Phong trại và Nghi Bình, cụ thể là ở đâu thì không biết. Nếu mọi người muốn tìm cô ấy thì cứ đến đó tìm”.

Phạm vi này thoạt nhìn có vẻ không lớn, nhưng nếu tìm một người lại chẳng khác nào mò kim đáy bể. Ba người Ôn Đại Nha và Linh Tước, Đại Ngốc tiến vào Nam Thái Hành từ mùa xuân, tìm suốt hai ba tháng cũng vẫn không thể tìm được tung tích của Thần Niên, rơi vào đường cùng đành phải quay lại Thanh Châu.

Lúc này, Trịnh Luân và Mạc Hằng kinh qua khổ chiến đã đoạt lại được Tân Dã và Lam Đồng từ tay Mộ Dung bộ.

Tháng Tám, Phong Quân Dương tập hợp hai mươi vạn đại quân từ bốn châu Thanh, Ký, Lỗ, Tương của Giang Bắc, từ Thanh Châu đi về phía Tây. Lúc nghỉ ngơi trên đường hành quân, Phong Quân Dương ưng nhất là nhìn về phía Đông Nam xuất thần. Tật xấu này của chàng từ khi tới Thanh Châu đã có, Thuận Bình vừa nhìn thấy vẻ mặt kia đã biết chàng đang nhớ đến Thần Niên và con gái, lòng thầm thở dài rồi mới tiến lên nói nhỏ với Phong Quân Dương: “Vương gia?”.

Phong Quân Dương không nhúc nhích, một lát sau đột nhiên hỏi Thuận Bình: “Ngươi nói xem giờ nàng đang làm gì? Con bé đã biết bò chưa?”.

Thuận Bình thật sự không biết Thần Niên giờ đang làm gì, nhưng câu hỏi thứ hai lại không làm khó được y, cười nói: “Hẳn là bò rồi, tục ngữ có câu ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, tiểu quận chúa chẳng phải đã hơn tám tháng rồi sao, hẳn là biết bò rồi”.

“Con gái của ta nhất định là còn bò nhanh hơn cả con nhà người khác”. Có lẽ nghĩ đến dáng vẻ buồn cười bò qua bò lại của con gái, Phong Quân Dương không khỏi nhếch khóe miệng lên, nhưng khóe miệng chỉ cong một lúc rồi xụ xuống ngay, ngay cả ánh mắt cũng không giấu nổi thoáng ảm đạm.

Chàng ở nơi này nhớ thương con gái, Thần Niên lại bị con gái Tiểu Bảo làm cho nhức đầu, Tiểu Bảo hơn tám tháng chẳng những đã biết bò mà còn bò rất nhanh. Thần Niên đi ra ngoài rót nước một loáng thôi mà bé con đã bò từ trong giường ra đến mép giường, lộn cổ ngã xuống, may nhờ khinh công Thần Niên tốt, trong chớp mắt phi từ cửa vào mép giường mới đỡ được con trước khi con rơi xuống đất.

Thần Niên vừa cuống vừa tức, Tiểu Bảo lại cho rằng đó là một trò chơi vui, cười toét miệng đầy hăng hái. Với một đứa bé chẳng hiểu chuyện gì như thế, Thần Niên cũng không phát cáu nữa, bế bé ra cửa phòng, nói với Dương bà bà chủ nhà rằng: “Đại nương, chúng ta tìm một cái dây thừng buộc Tiểu Bảo lại, đỡ phải lúc không trông nom được, nó lại ngã từ trên giường xuống”.

Dương bà bà đang nhặt rau trong sân, nghe xong câu này kêu “ối giời” một tiếng đầy cường điệu, vứt luôn cả rau đi đến bế lấy Tiểu Bảo từ trong lòng Thần Niên, bất mãn kêu lên: “Người lớn phải xuống ruộng làm việc, ở nhà không có ai trông bé, đấy là cách cực chẳng đã thôi. Nhưng cô không cần xuống ruộng cũng chẳng cần kiếm sống, đến một đứa bé cũng không trông được mà còn không biết xấu hổ đòi cột Tiểu Bảo lại!”.

Thần Niên tự thấy đuối lý, ngượng ngùng ngồi xuống nhặt rau. Dương bà bà đặt Tiểu Bảo xuống chiếu dưới tán cây, dặn Thần Niên trông bé cho kĩ rồi mới xoay người đi vào bếp nấu cơm, Thần Niên đáp lời, thấy Tiểu Bảo hai tay cầm một quả dưa chuột đã được nạo vỏ cắn đến là vui thú, không nhịn được ghé lại gần con gái thì thầm trao đổi: “Tiểu Bảo ngoan, con cho mẫu thân cắn một miếng được không?”.

Tiểu Bảo làm sao nghe hiểu được lời nàng, còn tưởng Thần Niên đang dỗ mình chơi, chỉ há miệng cười khanh khách. Thần Niên cũng cười với bé, thò đầu sang chỗ quả dưa cắn một miếng to, Tiểu Bảo ngẩn người, ngẩng đầu nhìn mẫu thân rồi lại nhìn đoạn dưa chuột ngắn ngủn còn thừa lại trong tay, khóc “óa” lên to tướng.

Dương bà bà vừa mới nhóm được lửa, nghe tiếng bé con khóc bên ngoài vội chạy ra xem, nhìn Tiểu Bảo vẫn đang ngồi trên chiếu, nhất thời thở phào nhẹ nhõm, hỏi Thần Niên: “Đang yên đang lành sao lại khóc?”.

Thần Niên đã gây tai họa, miếng dưa trong miệng còn chưa nuốt hết, không dám lên tiếng, chỉ vội vã ôm lấy Tiểu Bảo dỗ dành. Không ngờ vừa dỗ lại càng làm Tiểu Bảo tủi thân, khóc như ri.

Dương bà bà thủ tiết từ khi còn trẻ, nhờ cả vào tính nết tháo vát đặng gánh vác gia đình, lại vì Thần Niên ở chỗ bà đã lâu, bà đối xử với nàng chẳng khác nào con gái. Thấy Thần Niên không dỗ được Tiểu Bảo, Dương bà bà vừa phủi bụi trên tay vừa đi đến đó, miệng oán trách: “Lớn tướng như thế rồi mà đến đứa bé cũng không biết dỗ?”.

“Tiểu Bảo đừng khóc, bà bế con”. Bà bế lấy Tiểu Bảo từ lòng Thần Niên, vừa mới dỗ hai câu, tình cờ nhìn thấy miếng dưa chuột trong tay Tiểu Bảo, đột nhiên hiểu lí do vì sao bé con khóc, vừa quay người sang đã không thấy bóng dáng Thần Niên đâu. Dương bà bà vừa tức vừa giận, vốn không bắt nổi Thần Niên, căm tức đứng trong sân chửi đổng: “Cô đã là vợ là mẹ, dưa chuột đầy rổ cô không ăn, lại đến cướp miếng ăn của con, làm cho con khóc. May mà cô sống một mình, chứ nếu sống cùng nhà chồng, một ngày tám lượt người ta đánh cho từ sáng sớm đến tận tối đêm nhé!”.

Bà đang mắng mỏ đến là hăng say thì chợt nghe bên ngoài có người gõ cửa, lập tức cáu điên cất giọng hỏi: “Ai đấy?”.

Không ngờ tính tình người ngoài cửa còn xấu hơn, chỉ đáp: “Mở cửa! Là đạo gia!”.

Dương bà bà nghe thấy giọng nói này sững người ra, Thần Niên lại rất nhanh chạy từ trong bếp ra mở cửa viện, kinh ngạc hỏi han: “Đạo trưởng, sao ngài đến đây?”.

Triêu Dương Tử toàn thân phong trần mệt mỏi, vào cửa chỉ giận dỗi lườm Thần Niên trước, không trả lời nàng, chỉ đi đến cạnh Dương bà bà nhìn Tiểu Bảo, hỏi Dương bà bà: “Tiểu Bảo đã lớn thế này rồi sao?”.

Lúc ông đi thì Tiểu Bảo mới đầy tháng, người còn chưa lớn, hiện đã trắng ngần, mập mạp đáng yêu. Bé con vốn xinh xắn vô cùng, lại hay cười, ghé sát vào người ông cười với ông một cái, lộ mấy cái răng sữa xinh xinh mới nhú, ông nom mà cũng vô thức muốn nhếch miệng cười ngớ ngẩn với bé.

Dương bà bà biết đạo trưởng mặt đen này tính nết không tốt, có vài phần e ngại ông, vội nói: “Đạo trưởng từ xa tới, ngồi xuống nghỉ một lúc đã, bà già này đi nấu cơm cho mọi người”.

Dương bà bà giao bé cho Thần Niên, trộm trừng mắt nhìn nàng, cảnh cáo nàng không được làm bé khóc nữa rồi mới vào phòng lấy ấm và chén trà đến, sau đó xoay người vào bếp nấu cơm, nhường chỗ cho Thần Niên và Triêu Dương Tử trò chuyện.

Triêu Dương Tử đi đường khát khô cả cổ, uống liền hai chén nước trà mới dừng lại được.

Thần Niên nhìn ông, hỏVẫn không tìm được sư phụ ta sao?”.

Triêu Dương Tử thở dài đáp: “Tìm thì tìm được rồi, nhưng vô dụng”.

Thần Niên ngạc nhiên nói: “Sao lại nói thế?”.

Triêu Dương Tử lặng đi một lát rồi mới kể chuyện Tịnh Vũ Hiên. Mấy tháng nay, ông một mạch đuổi theo Tịnh Vũ Hiên từ Lĩnh Nam đến Giang Bắc, lần cuối cùng hai người gặp nhau là ở Thái Hưng, chân khí nội lực của Tịnh Vũ Hiên hình như đột nhiên có thể thoái mái khống chế, nhưng cũng chính lần đó, Tịnh Vũ Hiên ra tay làm Triêu Dương Tử bị thương, còn nói bà đã tìm được người có thể giúp mình luyện thành Ngũ Uẩn thần công rồi, nếu ông còn tiếp tục đến nhiễu sự quấy rỗi, đừng trách bà không niệm tình cũ.

“Thái Hưng?” Thần Niên bất chợt nghĩ tới một kẻ, “Lẽ nào là Quỷ thủ Bạch Chương?”.

Triêu Dương Tử chậm rãi gật đầu: “Ta cũng đoán là kẻ đó”.

Thần Niên bất giác nhíu mày, nói: “Sao có thể tin ông ta được? Tuy ông ta từng dùng thuốc mở rộng kinh mạch của ta, nhưng ta luyện thành Ngũ Uẩn thần công lại là vì cơ duyên khéo hợp, không phải toàn bộ nhờ ông ta”.

Nàng vốn bị trọng thương, nội công phế hết, sau bị Bạch Chương ma xui quỷ khiến mở rộng kinh mạch, lại trải qua sinh tử, dòng chân khí cuồn cuộn của Ngũ Uẩn thần công mới phục sinh. Nhưng dù là thế, chân khí cũng không tồn tại lâu trong kinh mạch nàng, chỉ khi nào dùng mới có, sau đó liền mất tăm mất tích.

Triêu Dương Tử thân là thầy thuốc, đương nhiên lại càng rõ ràng, nghe vậy bèn nói: “Đúng thế, ta nghĩ Bạch Chương kia có thể cũng dùng thuốc mở rộng kinh mạch sư phụ cô, nhưng Ngũ Uẩn thần công chú ý đến ngũ uẩn giai không, có sự thay đổi giữa ‘có†và ‘không’, nếu không làm được đến ‘không’, cho dù có mở kinh mạch đến tận cùng cũng không thể trường kì chịu được chân khí bá đạo như thế, cuối cùng cũng không tránh khỏi kết cục kinh mạch đứt hết. Thôi, mỗi người đều có cơ duyên của mình, ta đã tận lực, tùy bà ta thôi”.

Nói xong câu này, Thần Niên và Triêu Dương Tử không khỏi cùng trầm mặc, chỉ có Tiểu Bảo không lo nghĩ gì, tuy ngồi trong lòng Thần Niên nhưng lại tò mò nhìn Triêu Dương Tử, ê a với ông, Triêu Dương Tử thấy bé đáng yêu, không nhịn được vươn tay bế bé vào lòng mình, miệng lại hỏi Thần Niên: “Phong Quân Dương thật sự chưa từng đến nữa?”.

Thần Niên lắc đầu nói: “Không đến”.

Triêu Dương Tử thấy hơi bất ngờ: “Quái lạ, hắn mà lại giữ lời thế à? Chẳng lẽ là tập trung đi tranh thiên hạ?”.

Đang nói, Tiểu Bảo đột nhiên một tay tóm được chòm râu lơ thơ của Triêu Dương Tử, kéo mạnh đến mức Triêu Dương Tử nhe răng trợn mắt, kêu lên: “Ái ui, bảo tiểu nha đầu này buông ra nhanh lên, bằng không chỗ râu này của đạo gia sẽ chôn vùi trong tay nó mất”.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play