Hơi thở phả vào tay Trịnh Luân, lại làm lòng hắn hốt hoảng, tay không khỏi run lên, bình sứ trong tay suýt thì rơi xuống đất, Thần Niên sợ chết khiếp vội đưa tay ra đón, kêu lên: “Đừng có ném đi nữa!”.
Nàng cầm lọ thuốc giải lên, cho Khâu Tam ngửi, cười bảo: “Thuốc này sao có thể ngửi linh tinh được!”.
Khâu Tam chưa từng luyện nội công, lại trực tiếp dùng mũi hít thuốc mê nên nửa ngày sau mới bình thường trở lại, líu lưỡi nói: “Rốt cuộc đây là thuốc gì? Sao lại lợi hại như vậy?”.
Nàng đậy nắp bình sứ rồi lại giấu vào ngực áo lần nữa, vừa nghĩ vài thứ kia của mình vẫn đang nằm trong tay Trịnh Luân, liền xoay người đến chỗ hắn đòi. Trịnh Luân đưa cái khăn vào tay nàng, rồi đột nhiên nhặt một quả táo trong số đó, ném về phía sau lưng nàng. Quả táo xuyên qua giàn dây mây dày đặc, một tiếng thét kinh hãi truyền đến ở chỗ nó hướng tới. Thần Niên vội chạy đến xem, chỉ thấy trong góc tường cách đó không xa, một hộ vệ của Tiết Thịnh Hiển ôm trán ngã ngửa ra.
Trịnh Luân cũng theo sau mà đến, đạp chân lên trước ngực hộ vệ nọ, lạnh lùng hỏi: “Ngươi đến đây lúc nào? Đã nhìn thấy gì? Nghe thấy gì rồi?”.
Trán hộ vệ nọ đã rớm máu, cuống cuồng đáp: “Tiểu nhân vừa tới, chúa thượng nhà tiểu nhân thấy Tạ cô nương đi lâu chưa về, sợ cô ấy có điều gì bất trắc nên lệnh cho tiểu nhân đến nhìn trộm một cái, chỉ nghe thấy cái gì mà thuốc mê thần y cho, còn những điều khác thì không nghe được”.
Trịnh Luân nheo mắt lại, sát khí thoáng hiện, chân chậm rãi dùng sức, cuối cùng lại muốn giết hộ vệ nọ diệt khẩu. Hộ vệ nọ cũng là kẻ cơ trí, kêu thảm thiết, vội vã nhìn Thần Niên, mở miệng cầu cứu: “Tạ cô nương cứu mạng!”.
Thần Niên không đành lòng, chính nàng cũng đã từng hứa sẽ cứu mạng bọn họ, vội khuyên Trịnh Luân: “Nếu còn muốn hợp tác với Tiết Thịnh Hiển, đừng tuyệt tình quá”.
Trịnh Luân dừng lại một chút rồi mới từ từ nhấc chân lên, lạnh lùng đưa mắt nhìn hộ vệ nọ, nói: “Ta giữ mạng cho ngươi, tự mà thu xếp cho ổn thỏa!”.
Hắn nói xong liền vòng đến góc phòng bên kia, men theo đường đá trong viện đến trước căn nhà chính giữa, đề khí cao giọng nói với cánh cửa phòng đang đóng chặt: “Tiết nhị công tử, mời ra ngoài gặp mặt”.
Một lúc sau, cửa phòng mới chậm rãi mở ra, Tiết Thịnh Hiển mặt mày tái nhợt, cố trấn định đứng ở cửa nói: “Trịnh tướng quân”.
Trịnh Luân chắp tay với Tiết Thịnh Hiển, nói: “Tiết nhị công tử, Trịnh Luân không nói với ngươi những điều vô căn cứ, ngươi nên biết trong hai năm qua ta đã làm cho lệnh huynh bao nhiêu việc. Ta trung thành tận tụy với Tiết Thịnh Anh, không ngờ hắn lại muốn đẩy ta vào chỗ chết. Thực sự ép ta đến mức không còn cách nào nên mới không thể không khởi binh phản kháng, lại liên lụy đến người vô tội, mong Tiết nhị công tử lượng thứ”.
Tiết Thịnh Hiển sững sờ cả người rồi mới kịp phản ứng, vội nói: “Trịnh tướng quân trung thành, thiên hạ ai mà không biết? Là Tiết Thịnh Anh nuốt lời lật lọng, phụ tướng quân trước, tướng quân đã chí tình chí nghĩa với hắn lắm rồi!”.
Hai người họ đối đáp như vậy, tất cả mọi người cũng dần dần hiểu ra Trịnh Luân tạm thời tha mạng cho Tiết Thịnh Hiển, đừng nói những kẻ đi theo Tiết Thịnh Hiển có cảm giác sống sót sau tai họa, ngay cả Thần Niên cũng thở phào nhẹ nhõm một hơi.
Chợt nghe Trịnh Luân nói tiếp: “Nơi này sơ sài, ở lại bất tiện, trong thành lại không thái bình, chi bằng Tiết nhị công tử theo ta về phủ thủ thành ở tạm, được không?”.
Tiết Thịnh Hiển nhìn áo giáp Trịnh Luân dính máu, nghĩ trong phủ thủ thành ắt máu chảy thành sông từ lâu, bản thân vào đó khác chi dê vào miệng cọp, sống chết khó lường, nghe vậy tay không khỏi run lên, vô thức nhìn về phía Thần Niên, chỉ mong sao nàng có thể ngăn cản.
Thần Niên nhận ra ý khẩn cầu trong mắt Tiết Thịnh Hiển, nhưng bên cạnh y vẫn còn bao nhiêu hộ vệ, một mình nàng chưa chắc đã coi chừng được hết, đến phủ thủ thành thực ra cũng tốt, liền cười nói: “Lời Trịnh tướng quân phải lắm, Tiết công tử chi bằng dọn về phủ thủ thành đi, cũng đỡ cho Trịnh tướng quân phải phái binh đến bảo vệ công tử, làm tướng quân phân tâm”.
Ý nàng nói đã rất rõ ràng, dù Tiết Thịnh Hiển không về phủ thủ thành thì Trịnh Luân cũng sẽ phái binh đến trông giữ, ở đâu cũng khó thoát như nhau. Thần Niên thấy sắc mặt Tiết Thịnh Hiển xám ngoét, lại tươi cười bảo: “Tiết công tử yên tâm, ta đi theo ngài”.
Giờ Tiết Thịnh Hiển mới an lòng, thầm nghĩ Thần Niên đã có thể khuyên nhủ được Trịnh Luân không giết mình, có lẽ thật sự cũng có thể giúp y trốn về Ký Châu. Hơn nữa việc đã đến tình cảnh này rồi thì y cũng chỉ có thể đi từng bước từng bước một, theo Trịnh Luân trở về trước.
Ai nấy đều theo Trịnh Luân xuất phủ, vừa ra khỏi cửa, đã có một viên tướng phóng ngựa đến bẩm báo Trịnh Luân: “Tướng quân, vẫn không tìm thấy tung tích Hạ Trạch, nghe nói có người thấy gã chạy thoát thân theo hướng Nam”.
Trịnh Luân vẫn luôn mím chặt môi, trên đôi lông mày càng toát ra sát khí lạnh thấu xương, nghe vậy chỉ lạnh giọng nói: “Đóng cửa thành, lục soát từng nhà một, bất kể sống hay chết cũng phải tìm bằng được mới thôi!”.
Viên tướng vâng mệnh giục ngựa rời đi, Trịnh Luân giờ mới quay đầu mời Tiết Thịnh Hiển lên ngựa. Hai đùi Tiết Thịnh Hiển vẫn run lẩy bẩy, phải nhờ vào thuộc hạ đỡ mới có thể lên ngựa mà đi. Thần Niên cũng xoay người lên ngựa, vừa mới lên ngựa thì thấy Khâu Tam đuổi theo đến cửa, đưa một bộ quân trang Thanh Châu cho nàng, nói nhỏ: “Lát nữa thay bộ đồ này ra, hành động cho tiện”.
Thần Niên vội nhếch môi cười, nói: “Đa tạ”.
Khâu Tam vội xua tay, lại dặn với: “Cẩn thận một chút”.
Trịnh Luân lạnh nhạt liếc nhìn bọn họ một cái, giục cương dẫn đầu đi ra ngoài. Hai chân Thần Niên kẹp bụng ngựa, thúc ngựa đi đến bên cạnh Tiết Thịnh Hiển, cười nói: “Tiết tướng quân, chúng ta cũng đi thôi”.
Ngoại trừ mấy hộ vệ của Tiết Thịnh Hiển, bốn phía đều là binh mã của Trịnh Luân, cả đám đông nghìn nghịt, phong kín hai đầu phố. Tiết Thịnh Hiển không còn cách nào khác, đành phải thúc ngựa theo Thần Niên đi về đằng phủ thủ thành. Khâu Tam đứng ở cửa nhìn theo đoàn người đi xa, ngơ ngẩn nhìn thêm một lát rồi mới phục hồi tinh thần, vừa sai gia binh đóng cửa vừa đi nhanh vào phủ, miệng gọi khẩn cấp: “Tiểu Bảo, vào thư phòng với ta!”.
Khâu Tam chỉ biết vài con chữ, chẳng dễ gì đến thư phòng chịu khổ, phàm đã đến, ắt là chuyện cực gấp. Tiểu Bảo không dám trễ nải, chạy một mạch đuổi theo, đến khi vào thư phòng đã thấy Khâu Tam đang kéo tay áo mài mực, giương mắt nhìn cậu bảo: “Ta nói, đệ viết”.
Tiểu Bảo gật đầu, tiến đến dùng chữ Khải bé tí xíu chép lại từng chữ những lời Khâu Tam nói, nghe y kể lại tỉ mỉ không gì sánh được chuyện đêm qua, thậm chí ai làm động tác gì, nói câu gì cũng phải viết hết cả ra, bất giác lấy làm lạ, hỏi: “Tam ca, không cần viết chi tiết thế này chứ?”.
Khâu Tam nghiêm chỉnh đáp: “Cần, hai ta chỉ có tròng mắt với lỗ tai thôi, không có đầu óc, chúng ta phải viết những gì nhìn thấy nghe thấy ra, để vị gia kia tự cân nhắc”.
Tiểu Bảo gật đầu, viết xong xuôi bức thư, chần chừ một chút, cuối cùng không dằn nổi lòng, hỏi nhỏ: “Tam ca, huynh có phát hiện ra không? Môi Trịnh tướng quân hình như bị cắn, lúc trước khi hắn đến, đệ không thấy có…”.
“Tiểu Bảo!”. Khâu Tam bỗng dưng quát khẽ ngắt lời Tiểu Bảo, nhìn cậu chòng chọc, chậm rãi nói: “Đệ nhớ cho kĩ, nếu đệ muốn yên lành sống tiếp, chuyện không nên biết, cho dù xảy ra trước mắt đệ thì đệ cũng phải coi như không nhìn thấy”.
Tiểu Bảo nhất thời bị thần sắc nghiêm khắc của y dọa sợ, ngơ ngác gật đầu: “Đệ nhớ rồi, tam ca”.
Khâu Tam thấy cậu sợ hãi như thế, cúi đầu thở dài, nói: “Tiểu Bảo, thông minh không phải chuyện xấu, nhưng đôi khi không cần đệ quá thông minh, đệ phải giả vờ hồ đồ”.
Cho dù Tiểu Bảo thông tuệ, song chẳng qua cũng chỉ là một thiếu niên mười ba tuổi, nghe cái hiểu cái không gật đầu. Khâu Tam bảo cậu đọc lại bức thư một lần nữa, nghe không còn sai sót chỗ nào mới bí mật gửi thư đến Thịnh Đô.
EFF – lưu hành nội bộ
Thịnh Đô, phủ đại tướng quân, khi Phong Quân Dương nhận được thư đã là bảy ngày sau.
Trên án thư của chàng đồng thời đặt ba lá thư, một từ Khâu Tam, một từ Trịnh Luân, còn một lá khác là mật báo do tai mắt ở Thanh Châu gửi về. Nội dung của ba lá thư đại để giống nhau, đều nói về sự thay đổi ở Thanh Châu, chỉ khác ở góc nhìn. Trong số này thư của Khâu Tam dày nhất, nội dung cũng lộn xộn nhất, tuy không hề có trọng điểm nhưng lại khiến chàng tường tận đêm đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, giống như đích thân đến đó, chua chát đắng cay, một mình nhấm nháp.
Phong Quân Dương tựa như có phần mệt mỏi, lấy tay day day huyệt thái dương, tựa người về phía sau ghế dựa, một lát sau, nhẹ nhàng cười một tiếng, tự giễu nói: “Cho dù lòng người lương thiện thì sao chứ? Suy cho cùng, chẳng qua cũng chỉ là bất đắc dĩ”.
Thuận Bình nhất mực đứng hầu bên cạnh, nghe vậy trù trừ một lát, cuối cùng vẫn cẩn thận nói: “Tiểu nhân cảm thấy hắn sẽ không phản chủ. Người rõ tính nết của hắn nhất, vừa bướng bỉnh vừa cứng nhắc. Hạ Trạch và Tiết Thịnh Anh bức bách hắn như thế, làm việc ti tiện đến vậy, nếu hắn không muốn ngồi chờ chết thì chỉ có thể khởi binh cướp lấy. Người xem hắn không giấu giếm người chút nào, đến cả việc Tạ cô nương cũng nói đúng chân tướng, có thể thấy được lòng trung”.
Phong Quân Dương lãnh đạm cong khóe miệng, nhẹ giọng nói: “Thuận Bình, ngươi không hiểu, lòng người sẽ thay đổi, ta tin hiện giờ hắn sẽ không phản chủ, nhưng không có nghĩa sau này sẽ không”. Chàng lại im lặng ngồi thêm lát nữa, thờ ơ sai bảo: “Xử lý hết đống thư này đi, chuẩn bị một chút, ta muốn tiến cung”.
Bởi loạn lạc liên miên, tổn hại mọi chốn trong hoàng cung khá nghiêm trọng, sau khi Phong Quân Dương đón Phong thái hậu và tân đế về Thịnh Đô, từng có ý xây lại hoàng cung, nhưng Phong thái hậu từ chối, nói tân đế còn nhỏ, lại không có phi tần, không ở hết nhiều chỗ, quốc gia lại đang lúc nguy nan, không nên hao tài tốn của vì việc này. Cho dù là vậy, Phong Quân Dương vẫn ra lệnh sửa sang đàng hoàng lại mấy đại điện lẫn chỗ ở của Phong thái hậu và tân đế mới thôi.
Lúc Phong Quân Dương vào cửa, Phong thái hậu đang ở trong điện dỗ con trai, nghe cung nữ bẩm báo, chỉ mỉm cười liếc em trai một cái rồi lại lắc lắc cái trống bỏi trong tay trêu cậu bé trên giường, cười nói: “Hạnh Nhi, cậu đến thăm chúng ta này”.
Phong Quân Dương cởi áo choàng ném cho cung nữ bên cạnh, lại đứng trong điện một lúc, chờ khi hàn khí trên người tan đi hết mới tiến đến phía trước ngắm bé con, thấy bé mặt mày đầy đặn, trắng trẻo bụ bẫm, hết sức đáng yêu, bất giác cười bảo: “Đại tỷ, đệ thấy Hạnh Nhi hình như lại mập lên rồi đấy”.
“Ta bế cũng thấy nặng trĩu rồi.” Khóe miệng Phong thái hậu cong lên thành nụ cười dịu dàng, nói: “Thằng nhóc tuy sinh non, nhưng ăn được ngủ được, âu cũng là cái phúc”.
Phong Quân Dương nhìn cậu bé một chốc, thấy hai cánh tay nhỏ xíu quơ cào lung tung, không cầm nổi lòng đưa ngón tay đến chọc bé, lại bị bé túm được ngón trỏ, cho vào miệng ngậm. Chàng nhìn đến là thích thú, bất giác bật cười, Phong thái hậu đẩy tay chàng ra, sẵng giọng: “Bắt nạt con ta ít thôi, đợi sau này đệ có con còn phải để Hạnh nhi dẫn đi chơi đấy, giờ mà đệ bắt nạt con ta, ta sẽ bảo nó sau này bắt nạt con đệ!”.
Phong Quân Dương nghe mà thoáng ngẩn ra, không khỏi nhỏ giọng nói: “Còn chẳng biết con đệ đang ở đâu nữa kìa”.
Giọng chàng rất nhỏ, Phong thái hậu không để ý đến, chỉ đưa mắt nhìn sắc trời bên ngoài, hỏi chàng: “Sao lại đến giờ này?”.
Phong Quân Dương phất tay đuổi cung nữ trong điện ra rồi mới lên tiếng: “Thanh Châu có chuyện, Trịnh Luân giết Tiết Thịnh Anh rồi”.
Phong thái hậu sững người, nhất thời quên cả trêu con, ngẩng đầu nhìn Phong Quân Dương, cả kinh nói: “Trịnh Luân giết Tiết Thịnh Anh? Vì cớ gì?”.
Phong Quân Dương giấu việc Hạ Trạch và Tiết Thịnh Anh dùng Thần Niên bẫy Trịnh Luân, chỉ nói công trạng Trịnh Luân ngày một lớn, Tiết Thịnh Anh không thu nạp hắn được, kể sơ sơ lại việc ở Thanh Châu. Phong thái hậu nghe xong, gương mặt bất giác lộ vẻ tức giận, nói: “Tiết Thịnh Anh, đố kị người tài, quả nhiên là bùn nhão không thể trát được tường, may mà còn chưa gả tiểu muội cho hắn”.
Phong Quân Dương chậm rãi gật đầu, lại nói: “Hạ Trạch chạy rồi, có điều Tiết Thịnh Hiển lại bị Trịnh Luân bắt giữ”.
Phong thái hậu nghe thế nhíu mày: “Trịnh Luân còn muốn đoạt Ký Châu?”.
“Đệ cũng không biết rốt cuộc hắn tính toán gì.” Phong Quân Dương đáp.
Phong thái hậu im lặng một lát, cuối cùng không nén nổi thở dài, nói: “Ta thấy Trịnh Luân không phải loại vong ân bội nghĩa, hắn làm thế cũng là vì bị Tiết Thịnh Anh chọc giận. Nhưng giết thì cũng giết Tiết Thịnh Anh rồi, không nên trở mặt với Hạ Trạch, khiến đệ khó xử”.
Phong Quân Dương lại lạnh lùng cười, nói: “Giết Hạ Trạch mới đúng, để gã chạy lại có lợi cho gã”.
Phong thái hậu có phần bất ngờ, đưa mắt nhìn em trai, hỏi: “Sao lại nói thế?”.
“Nếu không có Hạ Thập Nhị, Tiết Thịnh Anh có lẽ đã không ra tay với Trịnh Luân.” Phong Quân Dương đáp, “Trong chuyện này không thể thiếu mưu tính của Hạ Thập Nhị, thấy Trương gia sắp diệt vong, gã hận không thể nuốt trọn Giang Bắc, làm sao chịu để đệ đặt Trịnh Luân ở đó, làm cái gai trong lòng gã”.
Phong thái hậu không nói gì, một hồi sau mới lên tiếng: “Người đời đều biết Trịnh Luân xuất thân từ vương phủ Vân Tây chúng ta, phải mau chóng hành động trước khi nhà họ Hạ gây khó dễ, để tránh rơi vào thế bị động”.
Phong Quân Dương gật đầu, đáp: “Đệ biết”.
Phong thái hậu lại thở dài: “Chỉ tiếc giờ Giang Nam chưa ổn định, bằng không A Sách có thể xua thẳng quân lên Bắc, xem Hạ gia có thể làm gì đệ. Dượng cũng thật là, địa bàn Trương gia còn chưa đoạt được hết mà đã muốn trở mặt với chúng ta rồi, không biết hôn sự của đệ và Vân Sinh có thể thành hay không nữa?”.
Phong Quân Dương cụp mắt xuống, trầm mặc không nói không rằng.
Phong thái hậu nhìn kĩ sắc mặt của chàng, dò hỏi: “A Sách, đệ có từng nghe nói Tống tể tướng có một tiểu nữ? Nghe nói là tư thái khuynh thành, nhưng không biết thật hay giả, chi bằng hôm nào đó đại tỷ gọi nàng vào cung, chúng ta nhìn xem sao?”.
Phong Quân Dương cúi đầu giỡn với đứa bé con, thờ ơ nói: “Đại tỷ, giờ tỷ muốn chọn nàng dâu cho Hạnh Nhi rồi sao? Sớm quá đấy”.
Phong Quân Dương nghe thế cười nhạt, nhưng lại nói nhẹ: “Nhưng đệ chỉ muốn lấy con gái họ Hạ”.
Thấy chàng như vậy, Phong thái hậu không khỏi đau lòng, đưa tay sang khẽ khàng vỗ cánh tay em trai: “Thằng bé này, tính khí bướng bỉnh thế đấy”. Nàng dừng lại, giống như bất chợt nhớ ra điều gì, đưa mắt nhìn Phong Quân Dương, hỏi: “Ta nghe nói lần trước lúc đệ đi Thanh Châu đã đến núi Thái Hành thăm một cô nương, cô ấy chính là người đệ nhắc với đại tỷ từ lâu đó sao, muốn lấy cô nương ấy?”.
Phong Dương Quân trầm mặc một lát, đoạn đáp: “Phải”.
Phong thái hậu bất giác tỉnh táo tinh thần, cười như có như không nhìn em trai, nói: “Đàn ông các người ấy à, nói dễ nghe thì là đa tình, nói khó nghe thì là do dự đa mang, lòng tham vô đáy, nhìn đã thích chỉ hận không thể giữ lại bên cạnh. Nếu đã không phải con gái họ Hạ thì không cưới, sao còn nhớ nhung cô nương khác? Rốt cuộc đệ muốn gì? Chúng ta cũng không phải thương gia, có thể chuẩn bị cho đệ cưới hai bình thê cơ mà”.
Phong Quân Dương cũng bật cười, nói: “Đại tỷ, đệ có chỗ nào giống lời tỷ nói sao?”.
Phong thái hậu cũng cười, truy hỏi: “Vậy đệ nói thật cho đại tỷ biết, rốt cuộc đệ thích ai?”.
Phong Quân Dương thoáng rũ mắt xuống, lãnh đạm nói: “Thích ai thì có liên quan gì? Chúng ta xuất thân thế này, việc cưới hỏi đã không dính dáng gì đến ái tình nam nữ nữa rồi. Cưới thê tử về, có thể tương kính như tân, nâng khăn ngang mày thôi đã là may mắn rồi”.
“Tại sao lại không liên quan?” Chân mày Phong thái hậu khẽ nhướng lên, nói: “Trước kia chúng ta không thể tự mình làm chủ, hiện giờ đã làm chủ rồi, dù làm theo ý mình một lần cũng chẳng sao cả. Nếu đệ thật sự thích cô nương trên núi kia, đón cô ấy về Thịnh Đô đi, đại tỷ sẽ nghĩ cách bịa ra một thân phận cho cô ấy, để đệ có thể cưới hỏi cô ấy đàng hoàng!”.
Phong Quân Dương đưa mắt nhìn Phong thái hậu, lặng lẽ một chốc rồi mới nói khẽ: “Đại tỷ, tỷ đã từng nghe qua câu này chưa? Gần người là lẽ, xa người là duyên. Nếu có cách nói như vậy, đệ và con gái họ Hạ có lẽ, còn với cô nương kia là có duyên”.
Phong thái hậu khẽ cau mày, như có phần không hiểu lời em trai nói, hỏi: “Có duyên chẳng phải rất tốt ư?”.
“Tuy có duyên, song không có phận.” Phong Quân Dương không khỏi cười khổ: “Đại tỷ, đừng nhắc đến nàng nữa, nàng đã không còn tình ý gì với đệ nữa rồi, trong lòng đã có người khác”.
Phong thái hậu không nén nổi kinh ngạc, một hồi lâu không thốt nên lời, mãi đến khi đứa bé khóc ré lên, nàng mới vội bế con vào lòng, vừa nhẹ nhàng đung đưa dỗ dành, vừa khuyên Phong Quân Dương: “Đại trượng phu lo gì không có thê tử, nếu cô ta đã vô tình, đệ cũng bỏ đi thôi”.
Phong Quân Dương mỉm cười gật đầu, nghĩ ngợi một chút, lại nói: “Đại tỷ, tin tức về biến Thanh Châu sẽ truyền vào trong triều rất nhanh thôi, đến lúc đó đệ sẽ nói Trịnh Luân là phản chủ tự lập, xem như quân phản nghịch, xuất quân chinh phạt”.
Phong thái hậu hơi kinh hãi, nhất thời quên cả đứa con đang khóc trong lòng, nhìn thẳng vào Phong Quân Dương, hỏi: “Vậy chẳng phải là thật sự muốn đẩy Trịnh Luân ra ư? Một khi đã vậy, kế hoạch vài năm ở Giang Bắc của đệ, tất cả đều uổng phí rồi”.
“Uổng phí thì uổng phí.” Phong Quân Dương trầm giọng nói, “Chỉ có đẩy hắn làm bia thì chúng ta mới có thể dần dần đóng quân Nghi Bình, để sau này dùng tới”.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT