Hoàn Nhan Tông Bật đóng tại Bình Châu một mực cự tuyệt bất kỳ thỉnh cầu nào của Lai Châu, đến tư cách giao thiệp cũng không cho Lai Châu, bởi vì dù sao đây vẫn chỉ là việc nhỏ, vì vậy, đầu tiên là Đại Tống lấy danh nghĩa của Lai Châu đề xuất yêu cầu nhập cảnh điều tra với Bình Châu, đáng tiếc, đã bị đối phương lời lẽ nghiêm khắc cự tuyệt.
Tuy rằng trận chiến Hoàng Hà lúc trước quân Tống đại bại quân Kim, nhưng người Nữ Chân vẫn khinh thường người Hán từ trong lòng, bọn họ đều cảm thấy trận chiến Hoàng Hà không phải thua trên thực lực, mà là thua dưới sự giả dối của Lý Kỳ.
Không chỉ như thế, người Nữ Chân còn coi Hiệp ước Vân Tang là sỉ nhục.
Trong đó hai nhân vật đại diện chủ yếu nhất chính là Hoàn Nhan Tông Hàn và Hoàn Nhan Tông Bật, hai người bọn họ trong lòng khinh thường người Hán, hai người bọn họ cũng chưa bao giờ ngừng chủ trương động võ đối với Tống.
Bình Châu này vốn là đại bản doanh của Hoàn Nhan Tông Vọng, khi Hoàn Nhan Tông Vọng tây chinh, đã đem Bình, Doanh nhị châu giao cho Hoàn Nhan Tông Bật.
Kỳ thật a, đội thuyền này cũng chính là thủ hạ của Hoàn Nhan Tông Bật cướp đi, nhưng này mưu kế không phải xuất từ Hoàn Nhan Tông Bật, mà là Hoàn Nhan Tông Vọng. Dụng ý của hành động lần này là Hoàn Nhan Tông Vọng muốn phá hỏng quan hệ giữa Triều Tiên và Đại Tống, dùng hải tặc nhiễu loạn mậu dịch của bọn họ, bức bách Triều Tiên từ bỏ đường thủy, đi đường bộ, như vậy, Triều Tiên sẽ không thể không dựa vào Kim Quốc rồi.
Nhưng mà, sách lược của Hoàn Nhan Tông Vọng là tiểu đả tiểu nháo, cố gắng không nên phát sinh xung đột trực tiếp với đối phương.
Nhưng từ khi Hoàn Nhan Tông Bật chưởng quản Bình Châu tới nay, đã bắt đầu huấn luyện Thủy sư, bởi vì thời điểm đại chiến Yến Vân lúc trước, chính là vì Thủy sư của Hàn Thế Trung ở Kim Quốc giống như vào chỗ không người, làm cho kế hoạch tiến công Yến Sơn Phủ của Hoàn Nhan Tông Vọng chấm dứt trong thất bại, cho nên, Hoàn Nhan Tông Bật cảm thấy đế quốc Đại Kim chúng ta cũng nên có một đội Thủy sư dũng mãnh, đây cũng là chuyện được triều đình phê chuẩn.
Doanh Châu Thủy sư liền ra đời.
Nhưng người Nữ Chân dù sao tố chất không quá cao, các binh lính cũng không biết buôn bán, ngoại trừ săn thú ra, chỉ biết cướp bóc, hải tặc này hết sức thích hợp với bọn họ. Bản thân bọn nó cũng cảm thấy là vô phùng liên tiếp, sau vài lần cướp thành công, dã tâm của bọn họ liền càng lúc càng lớn, muốn thu hoạch tối đa.
Nhưng mà, vụ thu hoạch, là lúc mậu dịch hai bên lui tới mật thiết nhất.
Sau khi Doanh Châu Thủy sư thăm dò được tin tức sẽ có một thương đội đi đến Triều Tiên, liền động ý niệm này, vì thế cũng học kỹ xảo của quân Tống, báo lấy danh nghĩa rời bến diễn tập, xuất động Thủy sư đánh cướp toàn bộ thương đội này.
Đây cũng là lý do vì sao Triệu Giai, Lý Kỳ đều dám khẳng định đây là Kim Quốc gây nên. Bởi vì một đội tàu khổng lồ như vậy, ngươi không có đến mấy chục chiến thuyền, ngươi có thể đánh cướp đi không?
Nhưng hải tặc làm sao có thể có nhiều chiến thuyền như vậy, vậy thì nhất định là Kim Quốc gây nên.
Triều Tiên cũng không có gan này.
Tin tức này, Hoàn Nhan Tông Bật tất nhiên cũng biết, nhưng gã lại không thèm để ý, một chút tổn thất này, đối với Đại Tống mà nói, quả thực chỉ là hạt cát trong sa mạc. Lúc trước chúng ta vừa mở miệng, các ngươi liền đưa một trăm vạn quan, cái này coi như tặng cho chúng ta.
Nhưng ai từng nghĩ đến, chỉ một Tri phủ Lai Châu, mà lại phái người đến Bình Châu, yêu cầu nhập cảnh điều tra, chuyện này lại chọc tức Hoàn Nhan Tông Bật. Người Nam Triều các ngươi có phải là không làm rõ đối tượng không, lại còn nói cái gì mà nhập cảnh điều tra, rốt cuộc ngươi có mấy lá gan, nếu ta cho phép, Đại Kim ta còn có mặt mũi nào nữa.
Bởi vậy có thể thấy, thực lực mới là đạo lý cứng rắn a!
Rõ ràng chính là lỗi của bọn họ, nhưng khi nói chuyện, hình như bọn họ cũng có lý.
Tin tức này rất nhanh đã truyền đến Biện Kinh.
Long nhan đại nộ!
Ngay trước mặt mặt cả triều văn võ, Triệu Giai giận dữ mắng Hoàn Nhan Tông Bật cuồng vọng tự đại, lại còn la hét, "Việc này quyết không thể bỏ qua như vậy".
Đương nhiên, tin tức này rất nhanh liền truyền đến dân gian, tiến thêm một bước gia tăng sự phẫn nộ của của dân chúng, chỉ có thù hận, khuất nhục, bất công, mới có thể làm dân chúng đoàn kết nhất trí.
Tâm trạng thù Kim của dân chúng Đại Tống dường như đã đạt đến đỉnh điểm.
Nhưng mà lúc này, bên phía Tây Hạ lại truyền tới tin tức, Hoàn Nhan Tông Vọng không đến thời gian ba ngày, đã công phá Cam Châu, tương đương vừa ra khỏi cửa, đã lấy được một trọng trấn. Việc này kỳ thật cũng có liên hệ lớn với chính sách của triều đình Tây Hạ, trong thời gian mấy tháng vẫn không phái binh đến cứu viện, đây không thể nghi ngờ chính là bỏ xe bảo vệ soái, thủ đô Tây Hạ phủ Hưng Khánh cho rằng Túc Châu vừa mất, mà Kim binh đã đem chiến tuyến đẩy tới dưới thành Cam Châu, có đi cứu viện cũng chỉ là phí công, vì thế áp dụng chiến thuật kiên thanh bích dã, toàn diện rút lại phòng tuyến, bố trí trọng binh ở Hạ một dải Hạ Lan Sơn.
Hạ Lan Sơn này chính là đường phòng tuyến cuối cùng của phủ Hưng Khánh rồi, nếu Hạ Lan Sơn mà mất, thì phủ Hưng Khánh sẽ nguy hiểm.
Sau khi Hoàn Nhan Tông Vọng lấy được Cam Châu, ngựa không dừng vó, toàn quân tiến công phủ Tây Lương, đây chính là một trọng trấn quân sự hết sức quan trọng của Tây Hạ, binh mã của phủ Tây Lương kia nổi danh là năng chinh thiện chiến.
Cùng lúc, Hoàn Nhan Hi Doãn tích trữ ở thành Hắc Thủy phía bắc Tây Hạ cũng lĩnh quân tiến công bắc địa khu Hà Sáo mặt đông Tây Hạ.
Đây và cục diện lúc trước quân Kim xuôi nam vô cùng tương tự, chẳng qua Tống triều đất lớn, mất Khai Phong rồi, vẫn có Giang Nam, nhưng Tây Hạ đã mất phủ Hưng Khánh, thì tất cả đều xong rồi.
Ngự thư phòng!
Đối mặt với quân tình cấp bách như thế, Triệu Giai lập tức triệu khai một hội nghị cơ mật, Tần Cối, Lý Kỳ, Trịnh Dật và một loạt đại thần trung tâm triều đình.
- Về chiến sự của Tây Hạ, tin tưởng các khanh cũng đã vô cùng rõ ràng, Tây Hạ mà vong, mục tiêu kế tiếp của Kim Quốc, nhất định là Đại Tống ta, so với đợi cho bị động chịu đòn, chi bằng bây giờ liền chủ động xuất kích.
Lần này Triệu Giai lần đầu ngay trước mặt những đại thần mặt trung tâm triều đình này, dứt khoát quyết định sẽ tuyên chiến với Kim, trước kia thái độ y biểu hiện ra ngoài, đều là làm thế nào phòng thủ, nhưng hôm nay, cuối cùng y đã nói ra những lời trong lòng, bởi vì y chờ ngày này quá lâu rồi.
Hoàng đế cũng đã quyết định rồi, đám người Tần Cối cũng không tiện nói gì thêm nữa, hơn nữa bọn họ cũng ủng hộ xuất binh.
Bởi vì hiện tại Đại Tống bức thiết cần một cuộc chiến tranh rồi, những năm gần đây Đại Tống nghỉ ngơi dưỡng sức, tuy rằng ba mặt tây, bắc, đông đều đang đánh giặc, nhưng do bởi sử dụng chính sách thích đáng, Đại Tống vẫn luôn thu hoạch ích lợi trong chiến tranh, chứ không phải là tổn thất. Hiện giờ quốc nội là binh tinh lương đủ, trữ nhiều lương thực như vậy, chiêu mộ nhiều binh lính như thế, chế tạo vũ khí nhiều như vậy, ngươi không đánh giặc thì ngươi làm gì, tiền của quốc khố đã không có chỗ dùng rồi, chỉ có thể dựa vào chiến tranh để tiêu hao.
Hơn nữa, một núi không thể chứa hai cọp, Kim Quốc không tha cho Đại Tống, Đại Tống cũng không tha cho Kim Quốc. Trước kia Đại Tống quả thật không đánh thắng Kim Quốc, chỉ có thể tạm nhân nhượng vì lợi ích toàn cục, dùng hàng hóa giá thấp để đổi lấy hòa bình, nhưng hiện tại đã khác, quốc lực của Đại Tống càng ngày càng tăng, Triệu Giai cảm thấy cũng là lúc cùng Kim Quốc thảo luận ngôi vị bá chủ này, xem hoa rơi nhà nào rồi.
Tần Cối hết sức cẩn thận hoi: - Nhưng thưa hoàng thượng, chúng ta nên lấy phương thức nào để xuất binh? Là xuất binh viện trợ Tây Hạ, hay là trực tiếp tiến công Kim Quốc?
Triệu Giai nói: - Điểm này trẫm cũng đang do dự. Lý Kỳ, khanh thấy thế nào?
Lý Kỳ nói: - Hoàng thượng, là cứu hay đánh, chuyện này phải căn cứ tình thế mà xem. Nếu Tây Hạ không ngăn cản nổi, thì chúng ta nhất định phải xuất binh đi cứu viện, nhưng đồng thời với cứu viện, chúng ta cũng có thể xuất binh đối với Yến Vân, kỳ thật chiến lược chiến thuật nên là người của Bộ tổng tham mưu nghĩ biện pháp. Nhưng hiện giờ nhân viên của Bộ tổng tham mưu đều ở Yến Vân, Tây Bắc, vì vậy vi thần nghĩ hỏi ý kiến của bọn họ trước, rồi đưa ra tính toán cuối cùng.
Xu Mật Sứ hiện giờ chỉ quản điều binh khiển tướng, về phần trận này đánh như thế nào, đã không nằm trong phạm vi trách nhiệm của Xu Mật Viện.
Triệu Giai gật gật đầu, dù sao Lý Kỳ cũng không phải người vạn năng, lại dò hỏi: - Hiện giờ có thể điều dụng bao nhiêu tinh binh?
Lý Kỳ nói: - Chỉ riêng quân khu Bắc Bộ, quân khu Trung Bộ và quân khu Tây Bộ đã có thể xuất động ít nhất hai mươi vạn tinh binh.
Bởi vì cải cách binh chế, trừ một số địa phương đặc thù, như địa khu Yến Vân, đại bộ phận địa khu đều huỷ bỏ những thứ như hương binh, sương binh, phiên binh.
Hiện thời Đại Tống chỉ có hai loại binh, một loại chính là cấm quân, một loại chính là quân hậu cần. Hơn nữa bởi vì diễn tập hàng năm, cùng với mấy năm nay chinh chiến khắp nơi, những binh này mỗi người đều là tinh binh, không còn là giá áo túi cơm lúc trước nữa. Đây cũng là lý do vì sao Triệu Giai quyết chí đánh một trận.
Triệu Giai gật đầu, nói: - Còn lương thảo và quân lương?
Trịnh Dật lập tức nói:
- Hồi bẩm hoàng thượng, chỉ riêng các địa phương như Thái Nguyên, Hà Gian, Trung Sơn, Yến Vân, Đăng, Lai, đã có thể điều dụng hai ngàn vạn thạch lương thảo, nếu như vẫn chưa đủ, có thể điều vận thêm lương thực từ phủ Đại Danh, sau đó lại từ từ vận chuyển lương thảo từ Giang Nam qua bổ khuyết những kho lương này, về phần quân hướng quốc khố có thể thông qua hai ngàn vạn quan.
Bởi vì lương thảo sẽ tổn thất rất nhiều trên đường vận chuyển, đặc biệt là khi đi gấp gáp, cho nên Trịnh Dật không đề nghị lập tức điều vận lương thực từ Giang Nam lên ngay lúc này, mà là ngươi mở lương thực của phương bắc trước, hai ngàn vạn thạch lương thảo, nuôi sống đại quân hai mươi vạn đó cũng là dư dả, căn bản không cần triệu tập lương thực từ phủ Đại Danh, Biện Kinh thì càng không nói tới, nhưng ngươi dùng hết rồi, nhất định phải lập tức bổ sung, kho lương ở mấy địa phương này nhất định phải duy trì ở một mức nhất định, nhưng mà, có thể từ từ theo điều lương thực từ Giang Nam tới, như vậy cũng sẽ không ảnh hưởng giá hàng của Giang Nam.
Thật ra ở thời điểm bình thường, việc Lý Kỳ áp dụng chính là tích trữ bắc lương, điều lương thực từ phía nam lên, đây cũng là để cân bằng quân lương các nơi, bởi vì chiến hỏa rất khó đánh tới phía nam, muốn đánh chính là đánh ở phương bắc, nếu đợi đến khi đánh trận, mới vận chuyển lương thực từ Giang Nam đến, thì phải đợi bao lâu, còn chưa tính đến tổn thất trong đó, đánh cuộc chiến này chính là hậu cần, nếu Lý Kỳ, Triệu Giai đều biết sớm hay muộn cũng sẽ có một trận chiến, đương nhiên bọn họ đã sớm làm chuẩn bị, dứt khoát đặt kho trữ lương thực ở những trọng trấn này.
Phải biết rằng Trịnh Dật vẫn chỉ là nói có thể điều dụng, cũng chính là trong tình huống không ảnh hưởng đến dân sinh của những địa phương này, không phải giống là cách trưng thu lương thực bạo lực của Vương Phủ.
Dù sao Giang Nam quá nhiều lương thực rồi, nông nghiệp coi như phát đạt, đủ có thể nuôi sống toàn bộ Đại Tống, hơn nữa bởi vì Pháp bình thương, lương thực đều đang thay đổi, đem lương thực cũ ra bán, cân bằng giá cả, rồi tích trữ lương thực mới, vì vậy chỗ lương thực này đều là hàng thượng đẳng, nhưng cho dù như vậy, lương thực của Giang Nam vẫn là ăn không hết, vẫn đang không ngừng xây dựng thêm kho lương, bởi vì từ sau khi Phương Lạp tác loạn, Giang Nam chưa từng trải qua chiến hỏa nữa, mấy năm gần đây lại là mưa thuận gió hoà, hàng năm bội thu, cho nên dân chúng Giang Nam đều vô cùng giàu có bậc nhất.
Phải biết rằng hiện tại đất trồng trọt của Đại Tống sớm đã đột phá một tỷ mẫu đất, đây cũng chưa tính đến Thổ Phiên, đây là một khái niệm gì, hơn nữa kỹ thuật nông canh đạt đến mức đồng đều hết sức lớn, bình quân mỗi mẫu đất có thể sản xuất ba thạch lương thực trở lên, nhưng mà tiền ít a, dân chúng đều dùng lương thực nộp thuế, cho nên triều đình thu thuế toàn bộ đều là thu lương thực, dẫn đến kho lương nháy mắt đã đầy tràn, kỳ thật chỉ lương thực của dân gian đã đủ để chi viện nho nhỏ cho Tây Hạ rồi, đây kỳ thật đều không cần triều đình xuất lực.
Đương nhiên, nguyên nhân thúc đẩy hết thảy chuyện này, chính là chế độ sử nhiên, tham quan sậu giảm, nội bộ tiêu hao tương đối ít, mức thang thu thuế cũng ở mức độ nhất định giành ích lợi hóa lớn nhất cho triều đình, hơn nữa dân chúng và triều đình làm mua bán, mặc dù có rất nhiều lương thực vẫn nằm trong tay thương nhân hoặc địa chủ, nhưng xét về Pháp bình thương, mọi người đều biết triều đình tích trữ rất nhiều lương thực, vì vậy cũng không chịu trữ hàng, tận lực đổi tiền, sau đó lại đi làm buôn bán khác, chứ không phải giống như trước, chỉ biết chơi trò trữ hàng trữ tiền này, hiện tại ai còn muốn lấy hầm trữ tiền, thì chính là tên ngốc trong mắt người khác.
Tư tưởng dân giàu, thì nước giàu thể hiện hết sức cụ thể trên những con số mặt này.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT