Quy Hư — thung lũng vô đáy giữa lòng biển, nơi mọi dòng nước hội tụ.

Đúng rằm tháng Giêng, khi khắp Cửu Châu là thời khắc sum vầy, đoàn tụ bên gia đình, Quy Hư lại chìm trong tĩnh mịch chết chóc. Trên bầu trời, đừng nói là ánh trăng tròn, ngay đến một vì sao cũng chẳng thể tìm thấy.

Mùa mưa đã bao phủ nơi này suốt một thời gian dài, ngày ngày mây đen cuồn cuộn, gió gào mưa xối, những lúc dữ dội nhất, kết giới nơi đây trông chẳng khác nào một tấm giấy mỏng, dưới những con sóng gầm thét mà run rẩy, mong manh như sắp tan vỡ.

Hôm nay càng dữ dội.

Tại một hiệu thuốc nhỏ ở thị trấn nhỏ phía nam, hơn chục người kéo ghế ngồi quanh đống lửa sưởi ấm, người ngồi xiêu vẹo thành một vòng tròn. Hàng xóm láng giềng ai nấy lim dim, bị hơi nóng hun cho ngái ngủ, chỉ còn lác đác đôi ba người vừa dùng kẹp sắt khều than, vừa uể oải trò chuyện đôi câu.

Bỗng dưng, tiếng gỗ kẽo kẹt vang lên trên bậc thềm trước cửa hiệu thuốc, âm thanh chói tai như cào vào màng nhĩ.

Có người đến rồi.

“Chuyện lạ thật. Trời thế này mà còn có người ra ngoài.” 

Người đàn bà tóc búi gọn ngồi gần cửa nhất lẩm bẩm kinh ngạc.

Chủ nhân y quán suy nghĩ một lúc, trước khi bước ra mở cửa liền hạ giọng: “Là nàng ta.”

Ông vuốt chòm râu hoa râm, khẽ nghiêng đầu nhếch mép ra hiệu về phía nào đó trong trấn: “Người từ Thiên Đô đến ấy.”

Những người còn lại đưa mắt nhìn nhau, ánh mắt mỗi người một vẻ.

Chẳng vì điều gì khác, bởi từ ngày vị ấy đặt chân đến đây đã trở thành đề tài bàn tán trên đầu lưỡi của dân Quy Hư mỗi khi trà dư tửu hậu.

Dân cư Quy Hư thưa thớt, từ đầu cầu đông đến cuối cầu tây cộng lại cũng chỉ hơn ngàn hộ, người người đều quen mặt quen tên. Tất nhiên, cũng bởi vị trí đặc biệt mà nơi này lâu lâu lại có những kẻ chạy trốn thù hận, tìm mọi cách len lỏi vào đây lẩn tránh. Nhưng một khi đã vào được, ai nấy cũng chỉ biết thu mình, cố gắng sống lặng lẽ, giấu nhẹm quá khứ.

Thành ra cũng chẳng ai buồn bàn đến bọn họ làm gì.

Nhưng “vị này” thì khác, nghe nói nàng là người của Ôn gia ở Thiên Đô, trước khi sa cơ, danh tiếng lớn đến mức có thể chấn động cả trời đất, khi bị áp giải đến đây đều là binh sĩ mặc giáp tiên kim sáng chói.

Trận thế như vậy, họ chưa từng được chứng kiến.

Chủ nhân y quán khẽ đẩy hé cánh cửa, chừa lại nửa tấm chắn gió, nhưng khoảnh khắc đó, cơn gió đêm vẫn lùa vào làm ông nheo mắt lại. Ông đưa tay áo rộng che nửa khuôn mặt, chăm chăm nhìn vị khách “không mời mà đến” giữa đêm.

Giữa trời giá rét, người bên ngoài khoác một chiếc áo bông dày cộm, thứ này mặc lên ai cũng béo núc, nhưng kỳ lạ thay, lại càng làm nổi bật gương mặt lộ ra bên ngoài — tinh tế, tái nhợt.

Mắt hạnh má đào, da tuyết tóc đen như suối, khuôn mặt phù dung. Đó là ngũ quan và cốt cách trời sinh, thanh tú như giọt sương, ánh lên từng tia linh khí.

Tóm lại, vừa liếc mắt là biết không phải người sạch sẽ mà cái nơi nát bét như Quy Hư này có thể nuôi dưỡng nên.

Ôn Hòa An chẳng buồn liếc vào trong, nàng chỉ cụp mắt, lặng lẽ nhét nửa khối linh thạch vào tay chủ nhân y quán, nói:

“Lấy cho ta ba thang thuốc cầm máu.”

Chỉ nghe giọng thôi cũng nhận ra nàng đã cố ý điều chỉnh, hạ thấp và thanh trong, nghe một lượt mà khó phân biệt nam nữ, toát lên vẻ thần bí khó lường.

Chủ nhân y quán thì đã sớm bị diện mạo này làm cho chấn động một lần. Ông vốn là người đã bước nửa chân vào quan tài, đối với vẻ đẹp trước mắt cũng chẳng mấy bận tâm. Ngược lại, chẳng rõ là vì nghe quá nhiều lời đồn từ hàng xóm, hay do trực giác lâu năm cảnh báo, mỗi lần gặp nàng ông đều ngửi thấy một tia nguy hiểm mơ hồ.

Nên ông chẳng buồn thắc mắc, chẳng hỏi nhiều.

Nhận lấy linh thạch, ông cân thử  rồi gật đầu nhét vào tay áo, cũng không mời vào nhà, mặc kệ nàng đứng ngoài cửa gió rét thổi, mình thì quay lại tủ thuốc trong phòng, lấy ba gói bột dược bọc qua loa bằng một tờ giấy nhăn nhúm, rồi từ khe cửa đẩy ra cho người bên ngoài.

Nhận lấy thuốc, Ôn Hòa An nhanh chóng rời đi.

“Người Thiên Đô đều vậy à?” 

Bà thím tóc búi vươn cổ nhìn về phía cửa sổ, lẩm bẩm: “Sao cứ như có ai dí theo sau ấy?”

Quả thực Ôn Hòa An cũng đang cảm nhận được có người bám theo mình từ xa, hơn nữa càng lúc càng rút ngắn khoảng cách. Từ giờ Mùi đến giờ, đã nửa ngày rồi.

Nàng đã bị chặn tu vi, nhưng cảm giác đối với sát ý vẫn còn.

Gió bấc gào thét, mấy lọn tóc lòa xòa bên trán và thái dương của Ôn Hòa An bị thổi tung loạn, nàng cắm đầu đi nhanh, con đường càng lúc càng hoang vắng, cuối cùng ngoặt hẳn vào một lối mòn dẫn lên núi.

Quả nhiên, bọn họ vẫn bám theo.

Thị trấn này nằm ở cuối phía nam của Quy Hư, vì quá gần kết giới nên vốn đã ít người qua lại, mà ngọn núi Ôn Hoà An đang leo lại nằm ở rìa ngoài cùng của thị trấn. Dẫm chân lên đường núi, ngoài tiếng gió hú kinh hoàng, thậm chí còn có thể nghe thấy tiếng sóng dữ vỗ vào kết giới, tạo thành những đợt chấn động nhẹ.

Đừng nói là người, đến cả thú hoang cũng chẳng còn lại mấy con, cả ngọn núi chìm trong bóng tối giống như một chiếc chum úp ngược kín mít.

Ôn Hòa An siết chặt mảnh vải trong tay áo, đi quá xa, nàng cảm nhận rõ thể lực mình đang nhanh chóng cạn kiệt, mồ hôi không ngừng rịn ra trên trán rồi lại bị gió lạnh quất khô ngay tức khắc, cổ họng hít gió lạnh vào khô rát, hơi thở cũng trở nên gấp gáp.

Tất cả những thay đổi ấy của cơ thể đang âm thầm chứng minh, giờ đây nàng chẳng khác gì một người thường yếu ớt.

Những kẻ như phía sau kia, nếu là trước đây, nàng tiện tay vung một chiêu là quét sạch được mười tên.

Chỉ tiếc nay đã khác xưa.

Nàng lập tức tăng tốc lao đi, cảm thấy tiếng gió rít bên tai, tiếng sóng biển mỗi lúc một gần, những bóng cây đen sì như mây đen vần vũ lướt qua nơi khóe mắt. Động tác bất ngờ này khiến đám người phía sau lập tức nhận ra bản thân đã bại lộ, liền nhún mình lao vút tới, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách.

Chớp mắt hai bên đã chỉ cách nhau hơn mười bước.

Chênh lệch lớn giữa tu sĩ và người thường chính là như vậy.

“Mày cũng biết tìm nơi vắng vẻ như này làm huyệt mộ cho mày.” 

Lần này chỉ có ba người truy sát Ôn Hòa An, ai nấy đều mặc dạ hành y, che kín mặt, chỉ lộ ra đôi mắt lạnh băng. Kẻ cầm đầu giọng khàn khàn, lãnh đạm đến ghê người: “Lát nữa bọn tao khỏi phải tốn công dọn dẹp tàn cục.”

Biết không trốn nổi, Ôn Hòa An dừng bước, chống tay lên thân một cây đa cổ thụ trăm năm, run rẩy thở dốc, ép luồng khí tức nghẹn trong lồng ngực ra ngoài. Trời quá lạnh, ngón tay đặt trên lớp vỏ cây nứt nẻ nhanh chóng đỏ tím, phần bắp chân đến đầu gối dường như đã tê dại, mất đi cảm giác.

Nghỉ một lát, nàng bất chợt khẽ cười một tiếng, thẳng nửa người, ngước mắt liếc về phía ba kẻ kia.

Có một kiểu người, sống nơi quyền thế quá lâu, dù rơi vào cảnh đường cùng, cũng vẫn mang khí thế đè ép người khác, nữ tử trước mắt chính là kiểu đó.

Tên vừa lên tiếng ban nãy vô thức nheo mắt lại. Chỉ một ánh nhìn ấy thôi cũng khiến hắn rợn ngườ như bị kim châm.

Làm sát thủ, bản tính đề phòng, sợ nhất là chậm trễ có thay đổi.

Vì thế ngay giây tiếp theo, hắn rút đao lao đến trước, một đao xé gió bổ thẳng vào cổ nàng.

Khi tu sĩ xuất chiêu luôn kèm theo khí cơ khóa chặt đối phương, người thường đừng nói là tránh, đến cử động cũng vô cùng khó khăn, chỉ có thể trợn mắt mà chịu chết.

Thế nhưng đúng vào khoảnh khắc lưỡi đao sắp chạm xuống, ngón tay cứng ngắc của Ôn Hòa An bất ngờ bám chặt lấy thân cây, dồn hết sức xoay nghiêng người đi một vòng. Nhát đao không chém trúng yết hầu chí mạng mà lướt ngang cắm sâu vào cánh tay trái nàng.

Chiếc áo bông bị chém toạc tung tóe, máu tươi bên trong phun trào.

Lấy thân chống xe, vô ích thôi. Cả ba sát thủ gần như cùng lúc lóe lên suy nghĩ ấy trong đầu.

Nào ngờ, biến cố lập tức xảy ra tại đây.

Trước tiên là tiếng “rắc rắc” vang lên dưới chân chúng, cành khô lá mục bị đạp vỡ và ngay dưới lớp đất ấy như có một thanh củi mục chịu không nổi sức nặng, kéo cả mặt đất sụp xuống. Ba tên còn chưa kịp phản ứng sau kinh ngạc, sắc mặt đã nhanh chóng thay đổi, định lao người lên không. Mà ngay khoảnh khắc ấy, giữa tầng không bỗng chốc hiện ra một tấm lưới đỏ bằng tơ kết thành, lồng thẳng xuống đầu họ.

“Dưới đất có bẫy!” 

Một tên trong bọn hét to khi cơ thể đang bị hút xuống, vì quá bất ngờ mà giọng hắn vỡ hẳn: “Sao có thể như vậy!”

Bọn chúng dẫm vỡ hết lớp đất mỏng, tấm lưới từ trên trời ép xuống, họ rơi thẳng xuống hố. Hố ấy không lớn, nhưng rất sâu. Dưới đáy hố một nửa cắm đầy những cọc gỗ nhọn hoắt, một nửa lởm chởm những hòn đá sắc lẹm, tựa như hai hàng nanh dữ tợn đang ngoác miệng đợi chực.

Đây là một cái bẫy!

Ba kẻ kia phản ứng cũng coi là kịp, nhưng dẫu kịp cũng chỉ đủ vận linh khí bảo vệ đầu và thân. Trong cú ngã lộn nhào ấy, một tên bị cành gỗ sắc nhọn đâm xuyên bàn tay, bật ra tiếng rên không kìm nổi, hai kẻ còn lại đập mạnh vào đá, khuỷu tay và đầu gối đều bị thương, gãy hoặc trầy xước.

Họ không  bận tâm đến những điều này, trong mắt co rút, vội vàng ngước đầu nhìn lên miệng hố.

Đêm tối dày đặc, Ôn Hòa An không màng đến cánh tay trái vẫn đang tuôn máu ròng ròng, tay còn lại mò mẫm quanh đám cây bụi, một lúc lâu sau mới lần ra được một cây đuốc đã tắt ngấm, lại lấy từ trong người ra một cái bật lửa thô sơ, châm lửa, đốt cháy đuốc rồi giơ lên soi xuống đáy hố.

“Ngẩng đầu.” 

Nàng cất giọng, cuối cùng để giọng sắc thật — trong trẻo đến thấu xương.

“Đại ca… không động đậy nổi…” 

Ngay lúc rơi xuống hố, ba người họ đã lập tức vận linh lực muốn thoát thân, nhưng phát hiện không làm được. Lúc dò xét mới phát hiện dưới thân bọn họ đè lên một tấm lưới bạc. Tấm lưới giống lưới bắt cá, sợi nhỏ và dày vô cùng, sắc đỏ lấp lánh trên đó không phải màu nhuộm, mà là một loại lực lượng đang di chuyển.

Khoảnh khắc ấy, trong đầu cả ba người đồng thời hiện lên câu nói mà kẻ kia từng quả quyết bên trong kính Lưu Quang.

“Ả ta đã bị phế tu vi, không nơi nương tựa, chẳng khác nào người thường. Các ngươi không cần dùng pháp khí, một đao cũng đủ lấy mạng nàng ta.”

“Sau khi xong việc, ba trăm nghìn linh thạch, một phần không thiếu, sẽ chuyển thẳng vào danh sách tại Linh Trang của các ngươi.”

Toàn là lời lừa bịp!

“Không đúng.” 

Tên thứ ba nãy giờ im lặng, giờ chết trân nhìn người đang đứng sừng sững trên miệng hố. Tu sĩ nhìn được xa hơn, rõ hơn, huống chi Ôn Hòa An chẳng hề che giấu. Nàng giơ cao cây đuốc, cánh tay trái vẫn rỉ máu, nhưng dòng máu ấy không chảy loang xuống đất mà tự động kết thành từng sợi chỉ đỏ mảnh, len vào trong tấm lưới.

Một tên khác cũng nhận ra: “Không phải công kích bằng linh lực… là trận pháp!”

Cái bẫy này là trận pháp bố trí sẵn, máu tươi là vật dẫn.

Bọn họ bị nàng cố ý dẫn dụ tới đây.

Nếu nàng không còn linh lực, nếu thật không còn tu vi, với bản lĩnh từng khiến sóng gió long trời lở đất ở Thiên Đô, liệu nàng có thể cắn răng chịu nhát đao kia? Có thể phí công dây dưa với bọn họ lâu đến thế?

Tưởng rằng bọn họ theo đuôi từ giờ Mùi đến tận đêm khuya đã đủ cẩn trọng, cuối cùng vẫn khinh địch mà sa vào bẫy.

“Ánh mắt cũng khá đấy.”

Mất máu quá nhiều, sắc mặt Ôn Hòa An càng thêm tái nhợt, trong đầu có chút choáng váng mơ hồ. Nàng cẩn thận quan sát kỹ diện mạo ba kẻ dưới hố, so từng nét với những người nàng từng biết, tiếc là chẳng khớp nổi ai.

“Ta chưa từng gặp các ngươi.”

“Nói đi, ai sai đến?”

“Ôn Tam, hay là Giang Triệu?”

Ánh mắt cả ba trầm xuống, im lặng không nói.

Bọn họ chẳng phải tử sĩ của ai nuôi, chỉ nhận tiền làm việc thay người ta. Giờ chuyện đã bại lộ, cũng chưa cầm được tiền, nếu khai ra có thể giữ được mạng, chắc chắn họ sẽ chẳng do dự.

Nhưng vấn đề là bọn họ hoàn toàn không biết người đứng sau tấm kính Lưu Quang rốt cuộc là thần thánh phương nào. Khi gặp họ, đối phương còn che chắn kín mít hơn bọn họ đi giết người lúc này.

Ôn Hòa An vừa nhìn vẻ mặt của họ đã đại khái đoán ra chuyện gì.

Trong lòng lập tức hạ quyết tâm.

Không cần phí thời gian nữa.

Càng chần chừ, máu càng chảy nhiều.

Nàng lấy ra mấy gói thuốc cầm máu lấy từ y quán lúc nãy từ trong tay áo, và một chiếc bình nhỏ bằng thạch anh đen, bình trong suốt lờ mờ, nhìn thấy bên trong còn non nửa chất lỏng, khi ánh sáng chuyển động có sự nguy hiểm khó lường.

“Xem ra cũng chẳng moi được gì từ miệng các ngươi, ta thật thất vọng.”

Thấy nàng dứt khoát rút nắp bình, nghiêng miệng bình về phía họ dưới hố, một tên lập tức hoảng loạn hét ầm lên:

“Ta nói! Là Giang Triệu! Giang Triệu!”

Mồm thì hét vậy, nhưng vừa nhìn cũng biết, hắn hoàn toàn không biết Giang Triệu là ai.

Dẫu thế, cái tên “Giang Triệu” vừa bật ra, trong đáy mắt Ôn Hòa An lập tức nổi lên một tầng u ám, sắc mặt lạnh đi, như mặt băng chịu phải cú va đập nặng nề, lập tức nứt toác một khe sâu.

Cánh tay trái nàng bị thương nhưng tay phải cầm bình thì vô cùng vững, khi nghiêng đổ xuống chẳng hề run rẩy.

Đối mặt với thứ chất lỏng không rõ nguồn gốc ấy, cả ba tên lập tức vận khí dựng lên phòng ngự. Nhưng những giọt đen ấy vừa rơi xuống đã xuyên thẳng qua tầng phòng hộ.

Trong tích tắc.

Giống như sắt nung đỏ bị đổ vào xương cốt, ba người mở to mắt, đến cả tiếng hét cũng không kịp bật ra, tứ chi co quắp, da thịt như bị ai vò nát thành giấy vụn, nhanh chóng khô quắt, mềm oặt nằm lại trong tấm lưới.

“Cũng đúng thôi.” 

Ôn Hòa An ngước mắt nhìn bầu trời mù mịt, ngón tay run run mở gói thuốc cầm máu lấy từ y quán, đổ bột thuốc vào lòng bàn tay, ấn chặt lên vết thương trên cánh tay trái: “Chỗ này quả thật hẻo lánh, rất hợp làm nơi chôn xác.”

Ôn Hòa An không có tiền, mua thuốc cũng không phải loại tốt nhất, tác dụng cầm máu thì có, nhưng lại vô cùng xót vết thương. Vừa đặt thuốc lên, nàng nhắm chặt mắt, cơ thể tựa vào gốc cây, rít lên một tiếng ghìm nén.

Gió lạnh gào rú, nàng cẩn thận kéo chặt lớp áo bông bị nhát đao rạch toạc, đợi sau khi máu ngừng hẳn mới nhặt lấy cây đuốc kẹp tạm vào nhánh cây, lom khom lần mò xuống đáy hố.

Dưới đáy hố, ba kẻ kia đã bị chất độc nuốt chửng máu thịt, chỉ còn lại lớp da bọc xương khô quắt, hình dạng vặn vẹo, bộ dạng dữ tợn.

Ôn Hòa An lần ra cây đao khi nãy chém trúng tay mình, dùng mũi đao lật tìm trên người bọn chúng, chẳng mấy chốc đã moi được ba tấm thẻ. Đó là thẻ chuyên dụng của Linh Trang, tuy nàng đã đoán được từ lâu nhưng khi cầm ba tấm này, nàng vẫn nhíu mày, cảm thấy dạo này nàng thật sự quá xui xẻo.

Linh Trang là nơi buôn bán lớn khắp Cửu Châu, để bảo vệ tối đa tài sản khách hàng, mỗi người khi rút tiền từ thẻ đều phải áp thẻ lên má, thẻ sẽ tự nhận diện hơi thở, trùng khớp thành công mới có thể tự do cầm sử dụng.

Mà giờ đây người đã hóa thành đống xương khô chứ đừng nói có hơi thở gì?

Ôn Hòa An thở dài, ném ba tấm thẻ vô dụng sang một bên, tiếp tục dùng đầu đao lật tìm trên quần áo bọn chúng, cuối cùng cũng tìm được một miếng ngọc bội, một túi hương và một bình thuốc cổ dài.

Chất liệu ngọc bội này không trong, không mịn màng, đường khắc cũng thô ráp không thể tả, mặt trước không rõ là chạm hình gì, mặt sau bị khoét một khoảng lớn, rõ ràng chẳng phải tay nghề thợ giỏi, nhìn rất giống thứ mấy tên thất nghiệp rảnh rỗi khắc vớ vẩn cho vui.

Túi thơm thì khỏi phải nói, mùi nồng sộc vào mũi, đeo trên người chắc chỉ để che đi mùi máu lúc cần thiết.

Ôn Hòa An đặt nó vào lòng bàn tay, ước chừng hai thứ này cùng lắm đáng giá ba văn tiền.

Tuy nói vậy, nàng vẫn xé một mảnh vải từ người một tên xuống, quấn ngọc bội và túi thơm lại rồi ném lên trên, sau đó ánh mắt dừng lại ở lọ thuốc kia.

Nàng lắc lắc cái lọ, bên trong vang lên tiếng viên thuốc va vào nhau, không nhiều, chỉ mấy viên.

Nàng nghĩ một lúc, rút nút bấc ra, miệng lọ lăn ra ba bốn viên thuốc tròn trịa, màu nâu, không có mùi gì lạ, trên lọ cũng không ghi nhãn, Ôn Hòa An không đoán ra công dụng nên không dám tùy tiện dùng.

Sự chú ý của nàng dời sang cái lọ trên người.

Thứ này không tệ, đem ra chợ Quỳ Hư bán cũng có thể được năm sáu khối linh thạch, nhưng nghĩ đến việc dân bản địa ở đây không ưa mấy thứ màu mè như vậy, còn đám trốn nạn trốn nợ kia thì càng không chịu chi tiền cho cái lọ này, nàng tính toán một hồi, thấy có lẽ phải bán giảm giá một nửa mới được.

Không còn cách nào khác, nàng không đợi nổi nữa, nàng rất thiếu tiền.

Ôn Hòa An chưa bao giờ nghĩ rằng, sẽ có một ngày mình nghèo túng đến thế này.

Nàng xoay một vòng tại chỗ, xác nhận trong hang không còn sót thứ gì, xách theo đám tơ nhện bạc màu cùng ngọc bội và túi thơm, bước ra khỏi cái bẫy vừa thô sơ vừa trực tiếp này. Khi lên mặt đất, nàng buông tay, ngọn đuốc trong lòng bàn tay lăn lốc xuống theo con đường vừa đi.

Trong hang lập tức bùng lên một luồng lửa cao ngang người rồi nhanh chóng lan rộng. Ngọn lửa như muốn nuốt trọn cả lối đi, từng đốm sáng mảnh mai vây lấy nàng, ánh lên quanh gương mặt Ôn Hòa An một quầng sáng mờ – nàng xinh đẹp, nhưng không phải kiểu nhạt nhòa lạnh lùng, kiêu ngạo khiến người ta cảm thấy xa cách, giờ đây, dưới ánh lửa hắt lên, đôi mắt trong veo thuần khiết lại có cảm giác ấm áp, vô hại.

Nếu bỏ qua chuỗi hành động lưu loát, dứt khoát của nàng lúc trước, miêu tả này lại càng chính xác.

Ôn Hòa An lặng lẽ ngắm nhìn ánh lửa một lúc, siết chặt áo choàng quanh người, xoay người xuống núi, từng bước từng bước đến “nhà” của mình.

Trong rừng hoang tối tăm, từng bước sâu bước nông lần mò xuống núi trong bóng đêm, vậy mà nàng vẫn còn lòng dạ phân tâm, lấy ra chiếc lọ lưu ly đen từng dùng từ trong tay áo để đối phó ba thích khách trước đó, đặt vào lòng bàn tay lật qua lật lại xem xét.

Nhìn kỹ mới thấy, chiếc lọ đó không phải lưu ly thật, chỉ là có ánh sáng của lưu ly. Đó là loại tiên kim mà chỉ những thế gia đại tộc dùng đến.

Mặc kệ những người ở Quỷ Hư đồn nàng tà ác ra sao, nhưng sự thật là bây giờ lục soát sạch sẽ cả người nàng, có lẽ chỉ mỗi chiếc lọ này còn có thể chứng minh nàng từng có "thân phận không tầm thường", từng có liên hệ với đại thế gia khổng lồ trong mắt người đời: Ôn gia.

Ôn Hòa An khẽ lắc lắc chiếc lọ, nhíu mày: “Hết rồi…”

Tổng cộng cũng chỉ có một lọ, nhưng hôm nay ba tên kia đã là đợt ám sát thứ ba nàng gặp phải. Bất kể là thế lực nào muốn nàng chết, chưa có được lời xác nhận chính xác, nhất định sẽ tiếp tục ra tay. Mà thủ đoạn giữ mạng của nàng gần như đã cạn kiệt.

Có thể sống sót đến giờ, phần lớn là nhờ vào địa thế đặc biệt của Quỷ Hư, nhiều kẻ không tiện làm ầm ĩ mời Quỷ thần hiện thân tự mình qua sông đón hồn.

Mà dù có như vậy, với thân thể tàn tạ này mà phải đối mặt với bọn sát thủ, chẳng khác nào đang đi qua lưỡi hái của tử thần, cơ hội sống sót ít đến mức có thể bỏ qua.

Thứ trong lọ đã hết, cái bẫy dùng hôm nay cũng không còn hiệu quả. Nếu lúc này lại có thêm một nhóm thích khách được ra lệnh đến, nàng chỉ còn cách dẫn họ về phía bờ biển chết.

Nếu thực sự phải đến bước đó, thì cũng là "giết địch một nghìn, tự tổn thất tám trăm" trong truyền thuyết.

Ôn Hòa An chắp hai tay giấu trong tay áo, chậm rãi thở dài một tiếng.

Trời quá lạnh, thân thể này lại quá yếu, những "người cũ" và kẻ thù không đội trời chung trước đây thì như u hồn bám riết không buông—tất cả khiến tâm trạng nàng cực kỳ tệ. Nàng phải nghĩ đến chuyện gì đó vui vẻ chút.

Ngày mai nàng phải dậy sớm chút, đem cái bình ngọc đựng thuốc đi bán, cả khối ngọc bội và túi hương nữa—bây giờ sống khó, muỗi nhỏ cũng là thịt.

Tiền bán được của những món đồ này, nàng để dành một nửa, nửa còn lại chắc phải mang đến y quán. Hôm nay cánh tay bị chém một nhát, chỉ đắp thuốc cầm máu thì vẫn không đủ. Nếu không xử lý kịp thời sẽ nhiễm trùng, dẫn đến sốt cao. May là lần trước nàng mua thuốc còn sót lại một thang, tối nay có thể dùng.

Chừng nửa canh giờ sau, Ôn Hòa An vòng về từ một con đường nhỏ phía sau núi , bước chân nàng rất nhẹ, người mặc áo quần cồng kềnh, tư thế lại như mèo, không phát ra một tiếng động.

Ngôi “nhà” nàng chọn nằm ở góc khuất nhất, trong hai ba dặm xung quanh, ngoài nàng ra chỉ có ba hộ dân khác. Nói thẳng ra, có chết trong nhà một hai tháng cũng chưa chắc có ai biết.

Ôn Hòa An không dám lập tức quay về. Nàng tìm một chỗ có thể ẩn nấp cách nhà vài chục mét, trốn vào đó, dán mắt nhìn chằm chằm căn nhà tranh xiêu vẹo trong gió kia khoảng bằng một nén nhang. Sau khi chắc chắn không có gì bất thường, nàng mới chậm rãi đẩy cửa bước vào.

Trong nhà tối đen như mực, yên lặng đến đáng sợ.

Nàng cúi người tìm trong tủ gỗ nhỏ một cây nến, châm lên soi sáng. Sau đó đun nước, sắc thuốc, đợi nước sôi rồi cố chống chọi với đầu óc và cơ thể mơ màng, đi tắm một lượt bằng nước lạnh thấu xương.

Thu dọn xong xuôi, nàng bưng bát thuốc đen đặc, đắng đến chết người từ trên bếp lên, uống cạn trong một hơi, không biểu lộ cảm xúc gì thay thuốc cho vết thương của mình.

Cuối cùng tắt nến, cuộn mình qua loa trong chăn bông đi ngủ.

Chăn bông sạch sẽ và mềm mại, đến gần còn ngửi thấy một mùi hương nhè nhẹ của dược thảo. Nhưng nó quá mỏng, hoàn toàn không đủ để chống chọi lại tiết trời cực kỳ giá lạnh đến này. Ôn Hòa An cừa đặt lưng xuống giường đã trùm chăn kín đầu, nhưng cho dù như vậy vẫn liên tục bị rét đến tỉnh giấc giữa cơn mơ.

Từ đầu đến chân, từng sợi tóc cũng đang rét run.

Sau nửa đêm, Ôn Hòa An bất ngờ hất tung chăn ngồi bật dậy. Nàng cụp mắt xuống, lông mi yên lặng rũ thấp, ánh nến sắp tắt vẫn cố gắng làm tròn bổn phận, chiếu lên vùng hốc mắt trong suốt của nàng một mảng bóng tối rõ rệt—thứ bóng tối ấy hoàn toàn không ăn khớp với khí chất sạch sẽ trên gương mặt nàng.

Nàng hít sâu một hơi, trong đầu chỉ còn lại hai ý định.

Không thể ở lại Quỷ Hư nữa, nàng phải tìm cách rời đi, trừ phi nàng thực sự định nằm chờ chết.

Và điều thứ hai.

Nàng nhất định phải giết chết Giang Triệu.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play