“Đi đi đi, đừng có mơ mộng viển vông.”

Lý Duy Hán đã ăn xong, mấy bà đàn bà buôn chuyện, ông chẳng mấy hứng thú, cũng chẳng tiện chen vào.

Ông lặng lẽ cầm tẩu nước lên, mở hộp diêm ra thì thấy trống không.

Lý Truy Viễn đặt đũa xuống, chạy ra phía sau bếp lấy một hộp diêm mang đến.

Lý Duy Hán không nhận lấy mà đưa thẳng nõ tẩu ra trước mặt cháu trai.

Lý Truy Viễn cười, rút một que diêm, “xoẹt” một tiếng nhưng lửa chưa lên, lại “xoẹt xoẹt” mấy cái nữa mới quẹt được lửa.

Cậu vội vàng che tay bảo vệ ngọn lửa, cúi xuống châm vào nõ tẩu cho ông nội.

Lý Duy Hán rít liền mấy hơi, khói thuốc tỏa ra, ông hài lòng, nét mặt giãn ra đầy vui vẻ.

Hồi trước, con gái ông cũng thích châm thuốc cho cha, còn nói sau này đi làm sẽ mua hẳn thuốc lá hộp cho ông hút.

“Phù.”

Lý Truy Viễn thổi tắt que diêm, ném xuống đất rồi dùng đế giày dẫm lên mấy lần.

Lúc này, Phan Tử lên tiếng: “Ông ơi, chiều nay chèo thuyền đi hái sen đi ạ?”

Lý Duy Hán liếc qua bàn cơm đạm bạc, gật đầu: “Gọi cả Lôi Tử đi, mang lưới theo, xem có vớt được con cá nào không, để bà mày nấu canh.”

Nghe vậy, Hổ Tử và Thạch Đầu lập tức quên béng Tiểu Hoàng Oanh, đồng thanh reo lên: “Ông ơi, cho cháu đi với!

Cho cháu đi với!”

Đám nhỏ còn lại cũng ồn ào hưởng ứng, sợ có trò vui mà mình lại bị bỏ lỡ.

Lý Duy Hán quét mắt nhìn một vòng, nghiêm giọng dọa:

“Ông bảo cho các cháu biết, trong sông có thủy hầu tử (khỉ nước), chuyên kéo người xuống nước để chết thay chúng.

Hễ bắt được ai, chúng nó sẽ thế mạng để đi đầu thai đấy.”

Lập tức, đám trẻ sợ xanh mặt, không dám hé răng.

Thạch Đầu vẫn không cam lòng, nhỏ giọng hỏi: “Thế sao các anh lại được đi?”

Phan Tử và Lôi Tử dù sao cũng lớn rồi, hiểu chuyện hơn, lập tức phối hợp với ông nội dọa em:

“Anh khỏe, khỉ nước kéo không nổi đâu.”

“Anh bơi giỏi, khỉ nước có rượt cũng không bắt được anh.”

Lý Truy Viễn không bị hù dọa, cậu cũng muốn đi lắm, nhưng lại ngại mở miệng, chỉ biết cúi đầu xoa xoa đôi bàn tay nhỏ, thỉnh thoảng lại len lén ngước mắt nhìn ông nội.

Lý Duy Hán chậm rãi nói: “Tiểu Viễn Hầu cũng đi.”

Hổ Tử lập tức bất mãn: “Thế không công bằng!

Anh Viễn chỉ hơn cháu có một tuổi thôi mà!”

Thạch Đầu cũng phụ họa: “Đúng thế!

Anh Viễn còn không khỏe bằng cháu, sao đánh lại thủy hầu tử được!”

Lý Duy Hán phả ra một vòng khói, rồi chậm rãi đưa ra một lý do vô cùng hợp lý, đến mức ngay cả bọn trẻ cũng không thể phản bác:

“Tiểu Viễn Hầu là người từ nơi khác về, thủy hầu tử ở đây không nhận ra nó.”


Trong thôn, hầu hết nhà cửa đều dựa theo bờ sông mà xây, mặt trước hướng ra đường, mặt sau quay ra sông.

Khi giặt giũ hay rửa rau, chỉ cần xách đồ đi ra cửa sau, bước xuống mấy bậc đá xanh là có thể tới mép sông.

Những người biết tính toán trong sinh hoạt thường dựng một đoạn lưới trên khúc sông nhà mình để nuôi vịt, nuôi ngỗng.

Thuyền của nhà họ Lý được buộc vào gốc cây hồng ở cửa sau.

Lý Duy Hán tháo dây, bước lên thuyền trước, dùng sào trúc giữ thuyền ổn định.

Phan Tử ôm cần câu, Lôi Tử cầm lưới cá, lần lượt nhảy lên thuyền.

Lý Truy Viễn đeo một chiếc sọt tre nhỏ sau lưng, được Lý Duy Hán đưa tay đón lên thuyền.

“Tất cả ngồi vững, xuất phát nào!”

Cây sào trúc trên mặt nước cứ thế dài ra rồi lại thu về, con thuyền cũng từ từ rời bến.

Phan Tử và Lôi Tử vốn đã quen rồi, cả hai đều nằm ngả ngớn trên thuyền, trông rất thư thái.

Còn Lý Truy Viễn thì ngồi thẳng tắp, chăm chú nhìn những đám rong nước trôi qua bên cạnh, thỉnh thoảng có con chuồn chuồn lướt ngang qua mặt sông.

“Này, Viễn Tử.”

Phan Tử đưa cho cậu một nắm đậu rang.

Cậu là con trai trưởng, nhà ở gần ông bà, thường xuyên ghé về, cũng hay lấy chút đồ ăn vặt mang theo.

Nhưng mẹ cậu đã dặn kỹ, những thứ này phải lén ăn một mình, tuyệt đối không được chia cho ai.

Ngược lại, mẹ của Lý Truy Viễn thì khi nhờ người mặc quân phục đưa con về quê, còn gửi theo cả một túi lớn đồ ăn vặt—bánh quy, chà bông, trái cây đóng hộp… Hôm kia lại gửi thêm một thùng nữa, tất cả đều bị Thôi Quế Anh khóa trong tủ, mỗi ngày chia ra một ít cho cả đám trẻ con cùng ăn.

“Cảm ơn anh Phan Tử.”

Lý Truy Viễn nhận lấy, bỏ một hạt vào miệng.

Loại đậu này ở địa phương gọi là “đậu quyền”, thực ra chính là đậu tằm.

Đậu được rang với vỏ, thêm chút gia vị và muối, khi nhai giòn rụm, thơm phức.

Có điều, Lý Truy Viễn lại không thích ăn lắm.

Đậu này cứng quá, khó nhai, dễ làm sứt răng.

Vậy nên, khi hai người anh bên cạnh nhai “rôm rốp rôm rốp”, cậu chỉ đặt một hạt trong miệng, ngậm như đang ngậm kẹo.

“Lai y trúng thị thiên thiên yêu ca, phiêu đãng tại lộ thượng~ Lai y trúng thị thiên thiên yêu ca, lương lương kim dạ yêu lương~”

Phan Tử cất tiếng hát.

“Anh hát sai rồi.”

Lôi Tử bật cười, “Không phải hát như thế đâu.”

Phan Tử bĩu môi: “Hừ, cậu biết hát thì cậu hát đi!”

Lôi Tử mấp máy môi mấy lần, rồi gãi đầu: “Tớ chỉ nhớ giai điệu thôi.”

Lý Duy Hán, đang chống thuyền, hỏi: “Tụi bây hát cái gì thế?

Nghe không hiểu.”

Phan Tử đáp: “Ông ơi, là bài hôm qua Tiểu Hoàng Oanh hát đó, gọi là Việt kịch.”

“Việt kịch?”

Lý Duy Hán ngạc nhiên: “Bài vừa rồi là Việt kịch à?”

Lôi Tử lắc đầu: “Không phải đâu, ông ơi, là Nhạc kịch Quảng Đông, kiểu nhạc bên Quảng Đông, Hồng Kông ấy.”

“À, ra vậy.

Vậy hát đàng hoàng lại cho ông nghe xem nào.”

Lôi Tử nhìn Phan Tử, cười cười: “Phan Tử hát dở lắm, đến lời còn chẳng nhớ, thua xa Tiểu Hoàng Oanh.”

Thực ra, Tiểu Hoàng Oanh hát cũng chẳng chuẩn gì cho cam.

Nhưng đối với dân vùng sâu vùng xa thế này, chuẩn hay không cũng chẳng khác biệt mấy, quan trọng là cái giọng điệu tự tin kia thôi.

Phan Tử đột nhiên chỉ vào Lý Truy Viễn, nói: “Hôm qua Tiểu Hoàng Oanh hát, tớ thấy Viễn Tử cũng hát theo, cậu ấy biết hát đấy.”

Lý Duy Hán liền quay sang cháu ngoại: “Tiểu Viễn Hầu, hát cho ông nghe chút đi.”

Lý Truy Viễn hơi ngại, lí nhí nói: “Cháu chỉ nhớ có một đoạn thôi.”

“Hát đi mà!

Hát đi mà!”

Lôi Tử giục.

“Viễn Tử không chỉ biết hát nhạc Quảng Đông đâu, cậu ấy còn biết cả tiếng Anh nữa kìa!”

Không còn cách nào khác, Lý Truy Viễn đành cất giọng:

“Lai rì dọng sỉ thiên thiên khuế cơ, phiêu du viên phương ngã lộ thượng.
“Lai rì dọng sỉ thiên thiên vãn tinh, lượng quá kim vãn nguyệt lượng.”

Cậu hát xong, gãi gãi má: “Cháu chỉ nhớ đến đây thôi, vì mẹ cháu rất thích bài này, ở nhà thường bật nghe.”

Lôi Tử đắc ý nhìn Phan Tử: “Thấy chưa?

Lời cậu hát sai bét rồi.”

Phan Tử bực mình trừng mắt lườm Lôi Tử.

Mấy anh em cứ vừa trò chuyện vừa cười đùa, con thuyền cũng dần trôi đến khúc sông rộng hơn.

Phan Tử đi giúp ông nội chống sào, Lý Duy Hán bắt đầu vừa chọn vị trí vừa gỡ lưới đánh cá, Lôi Tử thì dựng cần câu lên.

Lý Truy Viễn không được giao việc gì, chỉ ngồi yên trên thuyền, đeo cái giỏ tre nhỏ sau lưng, lúc thì nhìn ông nội và các anh bận rộn, lúc lại nhìn mặt sông, nơi lũ bèo trôi lững lờ, thỉnh thoảng có vài con ếch nhảy lạch bạch trên đó.

Nhìn một lúc, cậu đột nhiên nghi hoặc, hơi nhổm người lên, nheo mắt nhìn chằm chằm về phía trước.

Lý Duy Hán vẫn luôn để ý đến “cháu ngoại”, thấy thế liền nhắc: “Tiểu Viễn Hầu, ngồi vào trong, coi chừng ngã xuống sông đấy!”

Lý Truy Viễn chỉ về phía mặt nước trước thuyền, hỏi: “Ông ơi, anh ơi, đằng kia có một đám rong đen kìa.”

“Đâu?”

Lôi Tử nhìn theo hướng cậu chỉ, chợt kêu lên: “Ủa?

Đúng là có một đám rong màu đen thật!”

“Đâu đâu? Ở đâu?”

Phan Tử lúc này đang ở đuôi thuyền, lo chống sào nên không nhìn rõ, bèn chủ động đẩy thuyền tiến lại gần chỗ đó.

Ban đầu, Lý Duy Hán cũng chẳng để tâm, ông còn đang bận tháo gỡ lưới đánh cá.

Nhưng nghe Lý Truy Viễn và Lôi Tử cứ ríu rít bàn tán, ông mới ngẩng đầu nhìn về phía trước—

Chỉ một cái nhìn, sắc mặt ông lập tức thay đổi!

Đám rong đó… đen nhánh mà mảnh mượt, tỏa ra rồi lại kết chặt, tuy trôi nổi nhưng không hề tan rã—

Đây nào phải rong rêu gì, đây rõ ràng là tóc người!

Lúc này, vì Phan Tử không ngừng chống thuyền tiến gần hơn, khoảng cách ngày càng rút ngắn, phần dưới mặt nước cũng dần hiện rõ.

Những đường vân đen, những chiếc cúc áo trắng, những đường nét uốn lượn…

Do Lý Truy Viễn đang ngồi, nên người đầu tiên nhìn thấy phần dưới mặt nước chính là Lôi Tử đang đứng bên cạnh cậu.

Lôi Tử lập tức hét lớn:

“Ông ơi!

Là người!

Có người rơi xuống nước!

Phan Tử, mau chống thuyền qua cứu người!”

Chuyện thủy hầu tử (khỉ nước) từ lâu đã không còn dọa được bọn trẻ lớn như chúng.

Bản tính thuần hậu khiến chúng ngay lập tức nghĩ rằng có người gặp nạn, phản ứng đầu tiên chính là lao vào cứu giúp.

“Con mẹ nó, đừng có nói bậy!”

Lý Duy Hán bỗng nhiên quát lớn.

Vị ông nội trước nay nghiêm khắc nhưng hiền hậu, hiếm khi nổi nóng với cháu chắt, nay lại đột nhiên mất kiểm soát.

Làn da sạm nắng, thô ráp của ông nổi rõ gân xanh, bàn tay cứng cáp lập tức ném chiếc lưới đánh cá xuống thuyền, sải bước về phía đuôi thuyền, quát lên với Phan Tử:

“Quay thuyền!

Quay thuyền ngay!

Đưa sào cho ông, đừng có lại gần!”

Thuyền nhà mình đã vào khu vực này một lúc lâu, hoàn toàn không nghe thấy tiếng ai rơi xuống nước.

Hiện tại mặt sông lại yên ắng, chẳng một gợn sóng.

Nếu thật sự có người gặp nạn, thì lúc này chắc chắn đã chết từ lâu rồi!

Nhưng theo lẽ thường, dù có gặp thi thể trôi sông, cùng lắm chỉ thấy xúi quẩy mà thôi, có gì đáng để ông phải thất thố đến mức này?

Lý Duy Hán thừa biết, lúc này điều duy nhất có thể làm chính là nhanh chóng rời khỏi nơi này càng xa càng tốt.

Vùng này sông ngòi chằng chịt, kề sông giáp biển, chuyện chết đuối chẳng phải chuyện gì lạ.

Gần như mỗi làng đều có một người chuyên làm nghề vớt xác trên sông.

Thông thường, đây không phải nghề chính, nhưng người đảm nhận thì lại rất cố định.

Một là vì xúi quẩy, hai là do điều kiêng kỵ quá nhiều, không phải thợ vớt có truyền nghề thì chẳng ai dám động vào công việc này.

Ở thôn Tư Nguyên cũng có một người làm nghề này, tên là Lý Tam Giang.

Xét theo vai vế trong họ, Lý Duy Hán còn phải gọi ông ta một tiếng thúc.

Lý Tam Giang không con không cái, ruộng đất được chia cũng chẳng buồn trồng trọt, mà cho thuê để lấy chút lương thực sống qua ngày.

Thế nhưng, ông ta chẳng phải kiểu kẻ lười biếng bữa đói bữa no.

Nghề của ông có hai loại, một là làm hàng mã, hai là vớt xác trên sông.

Cả hai công việc này đều kiếm được không ít tiền, hơn hẳn mấy người chỉ biết trồng trọt.

Thành ra, dù sống một mình, nhưng ông ta ngày nào cũng rượu thịt đủ đầy, hưởng thụ không thiếu thứ gì.

Mấy năm trước, vì muốn giúp bốn đứa con trai lập gia đình, Lý Duy Hán đã thuê lại ruộng đất của Lý Tam Giang để canh tác.

Đó là một món lợi lớn, bởi vậy, những khi có người thuê Lý Tam Giang đi vớt xác, Lý Duy Hán cũng thi thoảng theo giúp một tay.

Dù Lý Tam Giang chưa bao giờ để ông lên thuyền đụng vào thi thể, chỉ bảo ông ở trên bờ phụ trách bày bàn cúng, chuẩn bị máu gà, máu chó, nhưng làm lâu ngày, Lý Duy Hán cũng ít nhiều học được một số điều về nghề vớt xác.

Trong nghề này, thi thể nổi trên sông được gọi là “tử đảo”.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play