“Cậu Baker!”
Linus thầm rên rỉ. Ngày hôm nay vốn đang trôi qua trong êm đẹp. Đại loại là vậy. Áo sơ mi trắng của anh bị dính một đốm sốt cam vì món salad sũng nước anh mua ở căng tin. Đó là một vết ố cứng đầu chỉ lan ra khi anh cố lau nó đi. Mưa vẫn rào rào dội lên mái nhà trên kia, không có dấu hiệu gì là sẽ sớm tạnh. Và anh lại quên ô ở nhà.
Nhưng ngoài những chuyện đó ra, ngày hôm nay của anh vốn đang êm đẹp.
Gần như là vậy.
Tiếng gõ phím lách cách quanh anh tắt ngấm khi bà Jenkins tới gần. Bà cô này là một người phụ nữ khắc nghiệt, tóc búi sau đầu căng đến nỗi kéo cặp lông mày dính liền nhau lên tận giữa trán. Thi thoảng anh vẫn tự hỏi liệu cả đời bà ta có bao giờ mỉm cười chưa. Anh nghĩ là không. Bà Jenkins là một người phụ nữ cay nghiệt có tâm tính của một con rắn độc địa.
Bà ta cũng là cấp trên của anh, và Linus Baker không dám cãi lại bà.
Anh căng thẳng xốc lại cổ áo sơ mi khi bà Jenkins tới gần, luồn lách giữa những cái bàn, gót giày lạch cạch trên sàn đá lạnh lẽo. Trợ lý của bà, một tên đáng ghét đáng khinh tên là Gunther, theo sát phía sau, cầm một bảng kẹp và cây bút chì dài quá mức dùng để đánh dấu những người trông như đang lười nhác không làm việc. Danh sách sẽ được tổng kết vào cuối ngày, và điểm trừ sẽ được thêm vào một bảng điểm hàng tuần mà hắn đang chấm. Vào cuối tuần, những người bị trừ năm điểm hoặc hơn sẽ bị ghi lỗi vào hồ sơ cá nhân. Không ai muốn bị như vậy cả.
Những người mà bà Jenkins và Gunther lướt qua đều cúi gằm mặt, giả vờ làm việc, nhưng Linus biết thừa họ đang hết sức nghe ngóng xem anh đã làm sai điều gì, và hình phạt của anh là gì. Có lẽ anh sẽ bị buộc phải về sớm và trừ lương. Hoặc có lẽ anh sẽ phải ở lại lâu hơn thường ngày nhưng vẫn bị trừ lương. Trong trường hợp xấu nhất, anh sẽ bị đuổi việc. Cuộc sống làm công ăn lương của anh sẽ kết thúc, và anh sẽ không bao giờ có lương để bị trừ nữa.
Anh không thể tin nổi hôm nay mới chỉ là thứ tư.
Và cảm giác còn tệ hơn khi anh nhận ra rằng hôm nay thật ra là thứ ba.
Anh không nghĩ ra được dù chỉ một việc phạm quy mình đã làm, trừ việc anh đã về muộn một phút so với mười lăm phút ăn trưa Sở cho phép, hay báo cáo gần đây nhất của anh không đầy đủ. Não anh điên cuồng hoạt động. Anh đã mất quá nhiều thời gian để cố lau sạch vết sốt ư? Hay có lỗi đánh máy trong báo cáo của anh? Chắc chắn là không rồi. Báo cáo của anh không chút tì vết, không như cái áo này.
Nhưng trên mặt bà Jenkins là một biểu cảm vặn vẹo, biểu cảm khiến Linus có cảm giác lành ít dữ nhiều, vì căn phòng mà anh luôn cho là lạnh băng giờ lại đang nóng đến khó chịu. Dù gió thông thốc lùa vào phòng - thời tiết xấu chỉ khiến mọi chuyện thêm tồi tệ - cũng không ngăn được mồ hôi lăn dọc gáy anh. Ánh sáng xanh lục tỏa ra từ màn hình máy tính khiến anh thấy lóa mắt, và anh gắng sức giữ cho nhịp thở của mình chậm rãi và đều đặn. Vào lần kiểm tra sức khỏe cuối cùng, bác sĩ đã bảo rằng huyết áp của anh quá cao, và anh cần phải giảm bớt những yếu tố gây căng thẳng trong đời mình.
Bà Jenkins là một yếu tố gây căng thẳng. Anh giữ suy nghĩ ấy trong lòng.
Cái bàn gỗ nhỏ của anh gần như đặt chính giữa phòng: Hàng L, Bàn Bảy trong một phòng làm việc có hai mươi sáu hàng với mười bốn bàn mỗi hàng. Hầu như chẳng có chỗ trống giữa các bàn. Một người gầy còm sẽ đi qua đi lại mà không gặp vấn đề gì, nhưng một người thừa vài cân ở khúc giữa (vài ở đây là một từ quan trọng, dĩ nhiên là vậy) ấy à? Nếu họ được phép để đồ cá nhân linh tinh trên bàn, việc đó rất có thể sẽ kết thúc trong thảm họa với những người như Linus. Nhưng vì như vậy là trái nội quy, rốt cuộc anh chủ yếu chỉ va khúc hông rộng ngang vào họ và vội vã xin lỗi trước những cái lườm mình nhận được. Đó là một trong những lý do tại sao anh thường đợi tới khi phòng gần như đã trống rồi mới tan làm. Việc đó và cả việc anh mới sang tuổi tứ tuần gần đây, tất cả những gì có để khoe khoang ở cái tuổi này là một căn nhà tí hon, một con mèo cáu bẳn có thể sẽ sống thọ hơn tất thảy mọi người, và vòng eo không ngừng phình ra mà bác sĩ đã chọc rồi ngoáy với vẻ hoan hỉ đến kỳ quặc trong khi lải nhải về những tác dụng nhiệm màu của việc ăn kiêng.
Vậy nên mới có món salad sũng nước ở chỗ cấp dưỡng.
Treo cao trên đầu họ là những biểu ngữ vui vẻ đến phát sợ tuyên bố rằng: CÁC BẠN LÀM TỐT LẮM và HÃY TẬN DỤNG TỪNG PHÚT TRONG NGÀY VÌ NGỒI KHÔNG PHÚT NÀO LÀ LÃNG PHÍ PHÚT ĐẤY.
Linus ghét mấy tấm bảng đó biết bao.
Anh áp hai tay lên bàn để ngăn mình ghim móng tay vào lòng bàn tay. Cậu Tremblay ngồi ở Hàng L, Bàn Sáu, mỉm cười tăm tối với anh. Cậu ta là một chàng trai trẻ hơn anh nhiều và có vẻ như mê mẩn công việc của mình. “Công chuyện tới bây giờ đây,” cậu ta lầm bầm với Linus.
Bà Jenkins đi tới bàn anh, miệng mím thành một đường chỉ. Theo thói quen, bà ta có vẻ đã phóng tay trang điểm trong bóng tối mà không có sự trợ giúp của cái gương nào. Phấn má dày cộp trên mặt bà ta là màu hồng tím, và son môi trông đỏ như máu. Bà ta mặc bộ âu phục màu đen, cúc áo cài đến tận dưới cằm. Bà ta mỏng manh như một giấc mơ, thân hình tạo nên từ khung xương vuông thành sắc cạnh bọc trong lớp da bị kéo căng quá đà.
Ngược lại, Gunther mặt cũng non búng như cậu Tremblay vậy. Có tin đồn hắn là con của Ông nọ Bà kia, rất có thể là trên Ban Quản Lý Thượng Tầng. Dù Linus không hay nói chuyện với đồng nghiệp, anh vẫn nghe được những lời thì thầm bàn tán của họ. Trên đường đời, anh đã sớm học được rằng nếu mình không mở miệng thì người ta thường sẽ quên mất mình có mặt ở đó hay thậm chí là có tồn tại. Khi anh còn nhỏ, mẹ anh từng nói rằng anh hòa mình vào với màu sơn trên tường, chỉ được nhớ đến khi người ta nhớ ra là trên tường còn có sơn.
“Cậu Baker,” bà Jenkins lặp lại, gần như gằn lên tên anh.
Gunther đứng cạnh bà ta, mỉm cười nhìn xuống anh. Đó không phải một nụ cười tốt đẹp gì cho cam. Răng hắn trắng và vuông chằn chặn, và hắn có lúm đồng tiền ở cằm. Hắn đẹp trai theo một kiểu rợn tóc gáy. Nụ cười kia lẽ ra phải dễ thương, nhưng ý cười không lan tới mắt hắn. Lần duy nhất Linus có thể nói rằng anh từng tin Gunther đang cười thật là khi hắn thực hiện những cuộc kiểm tra đột xuất, cây bút chì dài loạt xoạt trên bảng kẹp, đánh dấu hết điểm trừ này tới điểm trừ khác.
Có lẽ là vậy thật. Có lẽ Linus sẽ lãnh điểm trừ đầu tiên, thứ anh đã né được một cách nhiệm màu từ khi Gunther đến đây cùng hệ thống chấm điểm của hắn. Anh biết hắn luôn trông chừng mọi người. Có những máy quay lớn treo trên trần ghi lại mọi việc. Nếu ai đó bị bắt gặp làm điều gì đó sai trái, những cái loa đại gắn trên tường sẽ lẹt xẹt bật lên, và sẽ có tiếng quát trừ điểm Hàng K, Bàn Hai hay Hàng Z, Bàn Mười ba.
Linus chưa bao giờ bị bắt gặp sử dụng thời gian sai quy định. Anh có thừa thông minh để không làm việc đó. Và có thừa cả lo sợ nữa.
Vậy nhưng, có lẽ là không đủ thông minh hay lo sợ rồi. Anh sẽ bị trừ điểm mất thôi.
Hoặc có lẽ anh sẽ bị trừ năm điểm, và rồi chúng sẽ bị ghi vào hồ sơ cá nhân của anh, một vết tích làm nhơ nhuốc mười bảy năm phục vụ trong Sở. Có lẽ họ đã thấy vết sốt. Ở đây có chính sách nghiêm ngặt về trang phục đi làm. Nó được liệt kê rất chi tiết ở trang 242- 246 của cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH, cuốn sổ tay nhân viên của Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu. Có lẽ ai đó đã thấy vết ố và tố cáo anh. Điều ấy không khiến Linus ngạc nhiên chút nào đâu. Và chẳng phải con người ta đã bị cách chức vì những điều nhỏ nhặt hơn sao?
Linus biết đó là sự thực.
“Bà Jenkins,” anh nói, giọng hầu như không trên ngưỡng thì thầm. “Thật vui khi được gặp bà hôm nay.” Đây là một lời nói dối. Gặp bà Jenkins chẳng bao giờ vui cả. “Tôi có thể giúp gì cho bà?”
Nụ cười của Gunther càng ngoác ra. Thế thì, có thể là mười điểm trừ rồi. Rốt cuộc thì thứ sốt salad kia có màu cam. Anh sẽ không cần thùng giấy bìa đâu. Những đồ vật duy nhất thuộc về anh là manh áo che thân và miếng lót chuột, một tấm ảnh đã bạc màu chụp bãi cát trắng và mặt biển xanh nhất trần đời. Ở trên cùng là dòng chữ ghi BẠN KHÔNG ƯỚC MÌNH ĐƯỢC ĐẾN ĐÂY Ư?
Có chứ. Ngày nào cũng ước.
Bà Jenkins chẳng có vẻ gì là muốn đáp lại lời chào hỏi của Linus. “Cậu đã làm cái gì?” Bà ta hỏi, lông mày gần chạm đến chân tóc, một việc mà về mặt giải phẫu lẽ ra là bất khả thi mới phải.
Linus khó nhọc nuốt khan. “Xin lỗi, nhưng tôi không nghĩ mình biết bà đang nói đến chuyện gì.”
“Tôi thấy lời này khó tin đấy.” “Ồ! Tôi… xin lỗi?”
Gunther hí hoáy gì đó lên tấm bảng kẹp. Hắn có thể đang tính cho Linus thêm một điểm trừ nữa vì vết mồ hôi thấm ra thấy rõ dưới nách anh. Giờ anh chẳng làm được gì để khắc phục việc ấy cả.
Bà Jenkins chẳng có vẻ gì là chấp nhận lời xin lỗi của anh. “Cậu hẳn đã gây ra chuyện gì đó rồi chứ.” Bà ta cứ khăng khăng.
Có lẽ anh nên tự thú về vết sốt salad. Việc này giống như lột bỏ miếng băng keo cá nhân vậy. Một phát giựt sạch thì tốt hơn là cứ dây dưa. “Vâng. À thì, bà thấy đấy, tôi đang cố gắng ăn uống lành mạnh hơn. Đại loại là ăn kiêng.”
Bà Jenkins cau mày. “Ăn kiêng à?”
Linus nhát gừng gật đầu. “Theo lệnh bác sĩ.”
“Bị thừa chút cân, phải không?” Gunther hỏi, giọng nghe hài lòng quá đỗi trước việc ấy.
Linus đỏ mặt. “Tôi nghĩ vậy.”
Gunther kêu một tiếng đầy cảm thông. “Tôi thấy rồi. Ông anh tội nghiệp. Tôi nghĩ thà muộn còn hơn không đấy.” Hắn gõ mép bảng kẹp lên cái bụng phẳng lì của mình.
Gunther thật tởm lợm. Linus giữ suy nghĩ đó trong lòng. “Thật tuyệt quá.”
“Cậu chưa trả lời câu hỏi của tôi,” Bà Jenkins cấm cảu. “Cậu đã gây chuyện gì mới được?”
Thôi thì chấm dứt cho xong. “Một sơ suất ấy mà. Tôi thật hậu đậu quá. Tôi đang cố ăn món salad, nhưng rõ ràng là mớ cải xoăn đó có tri giác, và chúng trượt khỏi…”
“Tôi không hiểu cậu đang lải nhải cái gì,” Bà Jenkins nói, cúi mình tới trước và chống tay lên bàn anh. Móng tay bà ta sơn đen, và bà ta gõ chúng lên mặt gỗ. Âm thanh ấy nghe như tiếng xương người lách cách. “Ngừng lại ngay.”
“Vâng, thưa bà.”
Bà ta nhìn anh chằm chằm.
Ruột gan anh gắt gao xoắn vặn.
“Cậu được yêu cầu,” bà chậm rãi nói, “đến dự một cuộc họp với Ban Quản Lý Thượng Tầng vào sáng mai.”
Anh không ngờ được việc ấy. Hoàn toàn không. Thật ra, trong số những điều Bedelia Jenkins có thể nói ra vào đúng giây phút này, đó là phương án ít có khả năng xảy ra nhất.
Anh chớp mắt. “Sao cơ?”
Bà ta đứng thẳng dậy, hai tay khoanh lại dưới chân ngực, bàn tay nắm lấy khuỷu tay. “Tôi đã đọc các báo cáo của cậu. Chúng suýt soát đạt chuẩn, không hơn. Vậy nên hãy tưởng tượng sự kinh ngạc của tôi khi nhận tờ giấy nhắn ghi rằng Linus Baker được triệu tập lên làm việc.”
Linus thấy lạnh cả người. Trong suốt sự nghiệp của mình anh chưa bao giờ được yêu cầu lên gặp Ban Quản Lý Thượng Tầng cả. Lần duy nhất anh từng tận mắt thấy Ban Quản Lý Thượng Tầng là vào dịp lễ khi họ tổ chức bữa tiệc trưa, và Ban Quản Lý Thượng Tầng đứng dàn hàng ngang ở đầu phòng, phân phát thịt xông khói khô quắt và món khoai tây lổn nhổn từ khay bọc giấy bạc, mỉm cười với từng cấp dưới, nói với họ rằng họ đáng được hưởng bữa ăn cao cấp này vì toàn bộ sự lao động miệt mài của họ. Dĩ nhiên, họ phải ăn tại bàn làm việc vì mười lăm phút ăn trưa đã dành hết vào việc xếp hàng, nhưng dù sao vẫn là có ăn.
Lúc đó là tháng chín. Còn vài tháng nữa mới đến dịp lễ cơ.
Giờ thì, theo lời bà Jenkins, họ muốn gặp riêng anh. Anh chưa từng nghe nói rằng việc này có xảy ra trước đây. Như vậy không thể có ý nghĩa tốt lành gì được.
Bà Jenkins trông như đang đợi câu trả lời. Anh không biết phải nói gì, nên đành nói, “Có lẽ có sai sót gì ở đây chăng.”
“Sai sót,” Bà Jenkins lặp lại. “Sai sót ấy à?” “Vâng?”
“Ban Quản Lý Thượng Tầng không sai bao giờ,” Gunther cười khẩy.
Còn vụ đó nữa, đúng vậy. “Thế thì tôi không biết.”
Bà Jenkins không hài lòng với câu trả lời của anh. Khi ấy, Linus chợt nhận ra rằng bà ta không biết thêm được gì ngoài những điều đã nói với anh, và vì nhiều lý do mà anh không muốn nghiền ngẫm thêm, chỉ biết vậy cũng khiến anh cảm thấy xấu xa rộn ràng đôi chút. Dù xen lẫn với cảm xúc ấy là sự khiếp sợ không tưởng, nhưng trong lòng anh vẫn thấy như vậy. Anh không biết loại người nào đã tạo ra anh nữa.
“Ôi, Linus!” mẹ anh từng nói. “Sung sướng trước sự đau khổ của người khác không bao giờ là lịch thiệp cả. Làm vậy thì thật tồi tệ biết bao.”
Anh chưa bao giờ cho phép mình sung sướng cả.
“Cậu không biết à,” Bà Jenkins nói, nghe như thể đang lên gân lên cốt để ra đòn. “Có thể cậu đã đâm cái đơn khiếu nại nào đó chăng? Có thể cậu không đánh giá cao phương pháp quản lý của tôi và nghĩ rằng cậu có thể kiến nghị vượt cấp? Có phải không, hả cậu Baker?
“Không, thưa bà.”
“Cậu có thích phương pháp quản lý của tôi không?” Tuyệt đối không. “Có ạ.”
Gunther lướt ngòi bút trên bảng kẹp.
“Chính xác thì cậu thích gì ở phương pháp quản lý của tôi?” Bà Jenkins hỏi.
Câu hỏi hóc búa đây. Linus không muốn nói dối về bất kỳ điều gì. Ngay cả những lời nói dối vô hại nho nhỏ cũng làm anh nhức đầu. Và một khi người ta đã mở mồm ra nói dối, họ sẽ nói hết lần này đến lần khác mỗi lúc một trơn tru hơn cho tới khi phải đâm theo hàng trăm lời nói dối. Nói thật vẫn dễ dàng hơn.
Nhưng rồi có những thời điểm vô cùng cần kíp, như lúc này đây. Và đâu phải là anh hoàn toàn nói dối. Một sự thật có thể bị bẻ cong mà trông vẫn giống sự thật. “Bàn tay quản lý của bà rất quyền uy.”
Chân mày của bà ta nhướn tới tận chân tóc. “Rất quyền uy, phải không nào?”
“Đúng vậy.”
Bà ta giơ một bàn tay lên và búng ngón tay. Gunther lật qua vài tờ giấy trên bảng kẹp rồi đưa bà ta một trang giấy màu kem. Bà ta cầm nó giữa hai ngón tay như thể nghĩ rằng nếu nó chạm vào bất kỳ phần nào khác trên người cũng có thể gây mưng mủ lên. “Đúng chín giờ sáng mai, cậu Baker ạ. Đến muộn thì có trời mới giúp được cậu. Dĩ nhiên là cậu sẽ làm bù cho thời gian đi vắng sau đó. Vào cuối tuần, nếu cần thiết. Cậu không có lịch đi thực tế cho tới ít nhất một tuần sau.”
“Dĩ nhiên rồi,” Linus mau chóng đồng ý.
Bà ta lại cúi người về phía trước, hạ giọng tới khi gần như chỉ là tiếng thì thầm. “Và nếu tôi phát hiện ra cậu phàn nàn về tôi, tôi sẽ biến đời cậu thành địa ngục trần gian. Cậu hiểu chưa, cậu Baker?”
Anh hiểu. “Rồi ạ, thưa bà.”
Bà ta thả tờ giấy lên bàn. Nó phất phơ bay tới một góc bàn, suýt nữa rơi xuống sàn. Anh không dám vươn tay ra lấy nó khi bà ta còn đứng trước mặt anh.
Rồi bà ta xoay người trên đôi giày cao gót, quát lên rằng nếu biết điều gì là tốt cho mình thì tốt nhất là mọi người đều phải làm việc đi.
Ngay lập tức, tiếng gõ bàn phím lại tiếp tục lách cách.
Gunther vẫn đứng gần bàn của anh, nhìn anh với ánh mắt kỳ quái.
Linus cựa quậy trên ghế.
“Tôi không biết tại sao họ lại cho gọi anh,” cuối cùng Gunther nói, nụ cười kinh tởm kia đang quay trở lại. “Chắc chắn là có những người… phù hợp hơn chứ. Ồ, và anh Baker này?”
“Vâng?”
“Trên áo anh có vết bẩn. Như vậy là không thể chấp nhận được. Trừ một điểm. Hãy đảm bảo rằng việc này không có lần sau nhé.” Rồi hắn quay lưng và theo bà Jenkins đi dọc dãy bàn.
Linus nín thở tới khi họ đi tới Hàng B rồi thở hắt ra. Anh sẽ phải giặt áo ngay khi về nhà nếu muốn tống khứ vết mồ hôi. Anh xoa tay lên mặt, không rõ mình đang cảm thấy thế nào nữa. Bực bội, chắc chắn rồi. Và rất có thể là sợ hãi nữa.
Ở bàn cạnh anh, cậu Tremblay còn không thèm che giấu việc mình đang rướn cổ lên để đọc những gì viết trên tờ giấy bà Jenkins bỏ lại. Linus giựt tờ giấy lại, thật cẩn thận để không làm nhàu mép giấy.
“Đáng đời lắm, phải không nào?” cậu Tremblay hỏi, giọng nghe quá đỗi vui vẻ trước viễn cảnh ấy. “Tôi tự hỏi hàng xóm mới của mình sẽ là ai đây.”
Linus lờ cậu ta đi.
Ánh sáng xanh tỏa ra từ màn hình máy tính của anh chiếu xuyên qua mảnh giấy, khiến nét chữ in đậm của văn bản trông càng lành ít dữ nhiều.
Nội dung như sau:
SỞ PHỤ TRÁCH THANH THIẾU NIÊN NHIỆM MÀU THƯ BÁO TỪ BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG
CC: BEDELIA JENKINS
ANH LINUS BAKER PHẢI ĐẾN TRÌNH DIỆN Ở VĂN PHÒNG BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG VÀO 9 GIỜ SÁNG THỨ TƯ, NGÀY 6 THÁNG 9.
MỘT MÌNH.
Và chỉ có vậy thôi.
“Ôi trời!” Linus thì thầm.
Chiều hôm đó, khi đồng hồ đánh chuông báo hiệu năm giờ, mọi người xung quanh Linus bắt đầu tắt máy và khoác áo lên người. Họ vừa trò chuyện vừa ùa ra khỏi phòng. Không ai chúc Linus ngủ ngon cả. Ngược lại, hầu hết đều nhìn anh chằm chằm khi ra về. Những người ngồi quá xa để nghe được những gì bà Jenkins nói rất có thể đã nắm được tin tức qua những lời thì thầm đoán già đoán non xung quanh chiếc máy lọc nước. Loạt tin đồn chắc hẳn sẽ điên rồ và hoàn toàn sai sự thực, nhưng vì Linus không biết tại sao mình bị triệu tập nên anh không cãi lại được bất kỳ điều gì người ta nói.
Anh đợi tới năm rưỡi rồi cũng bắt đầu thu dọn ra về. Khi ấy văn phòng đã gần như trống trơn dù anh vẫn thấy được ánh đèn trong văn phòng của bà Jenkins ở phía cuối đằng xa. Anh thầm vui mừng vì không phải đi qua đó khi ra về. Anh không nghĩ mình có thể chịu được việc đối mặt với bà ta một lần nữa hôm nay.
Khi màn hình máy tính đã tối đen, anh đứng dậy và kéo áo khoác lên từ lưng ghế. Anh mặc nó vào, rên rỉ khi nhớ ra mình đã quên ô ở nhà. Dựa trên âm thanh mà nói, mưa vẫn chưa ngớt. Nếu nhanh chân, anh vẫn có thể bắt kịp chuyến buýt.
Anh chỉ va vào sáu cái bàn ở bốn hàng khác nhau trên đường ra.
Nhưng anh đã cẩn thận kéo chúng về đúng chỗ.
Tối nay anh sẽ phải ăn một bát salad khác. Không sốt.
Anh đã lỡ chuyến buýt.
Anh thấy đèn pha hậu của chiếc xe chiếu qua màn mưa khi nó đang rầm rì chạy xuống cuối phố. Biển quảng cáo ở đuôi xe có hình một người phụ nữ mỉm cười nói THẤY GÌ Ư, NÓI GÌ ĐI! ĐI GHI DANH LÀ ÍCH NƯỚC LỢI NHÀ! vẫn rõ ràng ngay cả trong mưa.
“Phải rồi,” anh lầm bầm với chính mình.
Mười lăm phút nữa sẽ có một chuyến khác. Anh lấy cặp che đầu và đứng đợi.
Anh xuống xe buýt (dĩ nhiên là chuyến xe đã đến muộn mười phút) ở trạm dừng cách nhà anh vài dãy.
“Ngoài trời mưa lắm đấy nhé,” tài xế bảo anh.
“Quan sát tốt đấy,” Linus trả lời khi bước xuống vỉa hè. “Thật đấy.
Cảm ơn vì…”
Cửa xe đóng sập lại sau lưng anh và xe buýt rời bến. Bánh sau bên phải cán qua một vũng nước khá lớn, hắt nước lên tung tóe và khiến quần Linus ướt sũng tới đầu gối.
Linus thở dài và bắt đầu lê bước về nhà.
Khu dân cư này khá yên tĩnh, đèn đường sáng trưng và mời gọi ngay cả trong cơn mưa giá lạnh. Những ngôi nhà nhỏ xíu, nhưng hai bên con phố là hàng cây rậm rạp lá đang bắt đầu đổi màu từ xanh xỉn chuyển sang sắc đỏ và vàng còn xỉn hơn. Có vài bụi hồng ở số 167 Lakewood đang lặng lẽ khai hoa. Chú chó ở số 193 Lakewood ư ử đầy phấn khích bất kỳ lúc nào thấy anh. Và số 207 Lakewood có một chiếc bánh xe treo trên một cái cây, nhưng lũ trẻ sống ở đó hình như nghĩ rằng chúng đã quá lớn để chơi trò đó. Linus chưa từng có cái xích đu lốp xe nào trước đây. Anh đã luôn muốn có một cái, nhưng mẹ anh nói rằng thứ đó quá nguy hiểm.
Anh rẽ phải vào một con phố nhỏ hơn, và ở đó, nằm phía bên phải, là số 86 Hermes Way.
Là nhà.
Chẳng nhiều nhặn gì. Ngôi nhà tí hon và hàng rào phía sau cần được thay lại. Nhưng nó có một cái hiên xinh đẹp, nơi người ta có thể ngồi và ngắm ngày trôi qua nếu họ nhất định phải làm vậy. Có những bông hướng dương nở trong bồn hoa ở trước nhà, những cành hoa cao kều đu đưa trong gió lạnh, dù giờ chúng đang khép lại trước màn đêm dần buông và dưới cơn mưa ảm đạm. Trời đã mưa hàng tuần liền, hầu như là những đợt mưa phùn khó chịu xen lẫn với những cơn mưa như trút nước đầy tẻ nhạt.
Chẳng nhiều nhặn gì. Nhưng nơi này chẳng thuộc về ai ngoài riêng mình Linus.
Anh dừng lại ở hộp thư trước nhà và lấy thư ngày hôm nay. Trông có vẻ như toàn quảng cáo đề người nhận chung chung là CƯ DÂN. Linus không nhớ nổi lần cuối mình nhận được một lá thư là khi nào.
Anh đi lên hiên nhà và đang rũ nước khỏi áo khoác của mình trong vô vọng, thì có người gọi tên anh từ căn bên cạnh. Anh thở dài, tự hỏi liệu anh có thể trốn được bằng cách giả vờ như không nghe thấy.
“Đừng có nghĩ đến chuyện ấy nhé, cậu Baker,” bà cụ nói. “Cháu không biết ý bà là gì, bà Klapper ạ.”
Edith Klapper, một người phụ nữ với tuổi tác khó có thể nhìn ra (dù anh nghĩ bà cụ đã vượt qua ngưỡng người già và tiến vào vùng đất đồ cổ thần thoại rồi) ngồi ngoài hiên trong cái áo choàng tắm bằng vải bông xù, tay cầm cái tẩu đã châm như thường lệ, khói cuộn quanh mái tóc búi phồng của bà. Bà cụ ho khạc vào một miếng khăn giấy mà có lẽ nên vứt đi từ một tiếng trước rồi. “Mèo nhà cậu lại sang sân nhà tôi rồi đuổi theo mấy con sóc. Cậu biết tôi thấy thế nào về việc đó mà.”
“Calliope thích gì là làm nấy mà,” anh nhắc bà cụ. “Cháu không quản lý được nó đâu.”
“Có lẽ cậu nên thử làm vậy đi,” Bà Klapper cấm cảu với anh. “Dạ. Cháu sẽ lập tức bắt tay vào việc đây.”
“Cậu đang trả treo với tôi đấy à, cậu Baker?”
“Nằm mơ cháu còn không dám ấy ạ.” Anh thường xuyên mơ tới việc ấy.
“Tôi cũng nghĩ vậy. Cậu ở nhà tối nay hả?” “Vâng, bà Klapper ạ.”
“Lại không hẹn hò gì, hả?”
Tay anh siết chặt quanh quai cặp. “Không hẹn hò.”
“Không có cô bạn may mắn nào ư?” Bà rít cái tẩu và phả khói dày đặc qua mũi. “Ôi! Cho tôi xin lỗi nhé. Tôi quên béng đi mất. Không có hứng với phụ nữ, phải không?”
Bà chẳng quên gì cả. “Vâng, bà Klapper ạ.”
“Cháu trai tôi là kế toán. Rất trầm ổn. Hầu như là vậy. Thằng bé quả thực có xu hướng nghiện rượu không khống chế được, nhưng tôi nào có tư cách phán xét thói hư tật xấu của nó? Kế toán là một công việc vất vả. Từng ấy con số cơ mà. Tôi sẽ bảo nó gọi cậu.”
“Cháu thấy bà đừng bảo thì hơn.”
Bà già cười khục khặc. “Mâm son không thèm đũa mốc, hả?”
Linus lắp bắp. “Cháu không… Không phải… Cháu không có thời gian cho những việc ấy.”
Bà Klapper cười nhạo hắn. “Có lẽ cậu nên cân nhắc dành thời gian ra đi, cậu Baker ạ. Độc thân ở cái tuổi của cậu không tốt cho sức khỏe đâu. Tôi chẳng muốn nghĩ tới những việc sẽ xảy ra nếu cậu có bắn toác sọ mình đâu. Chuyện ấy sẽ ảnh hưởng tới giá trị bất động sản của cả khu phố đấy.”
“Cháu có trầm cảm đâu!”
Bà già soi anh từ đầu đến chân. “Không à? Thế quái nào lại không nhỉ?”
“Còn chuyện gì nữa không, bà Klapper?” Linus hỏi qua kẽ răng nghiến chặt.
Bà cụ vẫy một bàn tay đuổi khách. “Thôi, được rồi. Đi đi. Mặc đồ ngủ vào, bật cái máy hát cũ kỹ kia của cậu lên và nhảy nhót quanh phòng khách như cậu hay làm đi.”
“Cháu đã yêu cầu bà ngưng theo dõi cháu qua cửa sổ cơ mà!”
“Phải rồi,” bà nói. Bà cụ ngồi thẳng dậy trên ghế và nhét tẩu vào giữa môi. “Dĩ nhiên cậu đã nói vậy.”
“Chúc ngủ ngon, bà Klapper,” anh hô lên khi tra chìa khóa vào nắm đấm cửa.
Không đợi bà cụ trả lời, anh đóng cửa lại sau lưng và khóa chặt.
Calliope, một sinh vật tà ác ngồi trên mép giường, cái đuôi đen sì phe phẩy trong lúc quan sát anh bằng cặp mắt xanh lục rực sáng. Cô ả bắt đầu kêu rừ rừ. Với phần lớn lũ mèo, đó sẽ là một âm thanh xoa dịu tâm hồn. Với Calliope, điều đó cho thấy con mèo này đang ủ mưu thâm độc liên quan đến những việc bất chính.
“Lẽ ra mày không được sang sân nhà hàng xóm mới phải,” anh vừa mắng nó vừa cởi áo vest ra.
Cô ả vẫn tiếp tục rừ rừ.
Anh tìm thấy Calliope vào một ngày nọ gần mười năm trước. Có một chú mèo con tí hon dưới hiên nhà anh, rít gào như thể đuôi đang bắt lửa. Ơn trời, đuôi nó không cháy, nhưng ngay khi anh bò xuống dưới hiên, nó rít lên với anh, lông đen trên lưng dựng đứng khi nó ưỡn cong mình lên. Thay vì chờ đợi để lãnh một bộ mặt đầy vết mèo con cào tấy đỏ, anh đã nhanh chóng bò ra và quay vào nhà, quyết định rằng nếu mình lờ đi đủ lâu thì nó sẽ bỏ đi.
Con mèo không đi.
Thay vào đó, cô ả tru tréo gần hết đêm hôm đó. Anh đã cố ngủ. Nó quá ồn ào. Anh úp gối lên đầu mà chẳng ích gì. Cuối cùng, anh túm lấy cái đèn pin và cán chổi, quyết tâm chọc con mèo tới khi nó bỏ đi. Con mèo đang ngồi trước cửa ra vào, đợi anh ở ngoài hiên. Anh kinh ngạc đến nỗi đánh rơi cây chổi.
Cô ả bước vào nhà anh như thể có hộ khẩu ở đây.
Và cô ta chưa bao giờ bỏ đi, dù Linus có dọa nạt đến bao nhiêu lần đi nữa.
Sáu tháng sau, anh cuối cùng cũng từ bỏ. Khi ấy, căn nhà đã đầy đồ chơi, một chậu cát và những cái bát nhỏ có chữ CALLIOPE in bên hông để đựng đồ ăn và nước uống cho cô ả. Anh không chắc lắm chuyện ấy đã xảy ra như thế nào, nhưng tình hình là vậy đấy.
“Một ngày nào đó bà Klapper sẽ tóm được mày thôi,” anh vừa nói với con mèo vừa cởi quần áo ướt. “Và tao sẽ không có ở đó để cứu mày đâu. Mày đang chè chén một con sóc, thì bà cụ… Được rồi, tao không biết bà ấy sẽ làm gì. Nhưng bà ấy sẽ làm gì đó với mày. Và tao sẽ không buồn bã chút nào đâu.”
Calliope chậm rãi chớp mắt.
Anh thở dài. “Thôi được rồi. Có buồn chút chút.”
Anh mặc đồ ngủ vào, cài khuy đằng trước. Áo ngủ có thêu hai chữ LB lồng vào nhau trên ngực, là món quà Sở tặng sau mười lăm năm phục vụ. Anh đã chọn bộ đồ này trong cuốn catalogue người ta đưa cho anh vào cùng ngày. Cuốn catalogue có hai trang bên trong. Một trang là bộ đồ ngủ. Trang còn lại là đế nến.
Anh đã chọn bộ đồ ngủ. Anh đã luôn muốn có thứ đồ gì đó thêu lồng ký tự viết tắt tên mình.
Anh nhặt đồ ướt lên và ra khỏi phòng. Tiếng thụp ầm ĩ sau lưng báo với anh rằng có kẻ đang bám đuôi mình.
Anh thả quần áo đi làm bẩn vào máy giặt, đặt chế độ giặt ngâm trong khi nấu bữa tối.
“Tao có cần một anh kế toán nào đâu,” anh nói với Calliope khi cô ả luồn lách giữa hai chân mình. “Tao còn những chuyện khác để suy nghĩ. Như ngày mai chẳng hạn. Tại sao lúc nào tao cũng phải lo lắng về ngày mai nhỉ?”
Anh di chuyển theo bản năng về phía cái máy Victrola cũ kỹ. Anh lật qua những đĩa than trong ngăn tủ phía dưới tới khi tìm được cái anh muốn. Anh lấy đĩa ra khỏi vỏ, đặt lên mâm quay rồi hạ kim xuống.
Chẳng mấy chốc, nhóm Everly Brothers bắt đầu ngân nga rằng tất cả những gì họ phải làm là mơ.
Anh vừa đu đưa qua lại vừa đi vào bếp. Đồ khô cho Calliope.
Salad đóng bịch cho Linus.
Anh ăn gian, nhưng chỉ một chút thôi. Rưới một chút sốt thì có chết ai đâu.
“Mỗi khi muốn thấy em,” anh khẽ khàng hát. “Tất cả những gì tôi phải làm là nằm mộng chiêm bao.”
Nếu ai đó hỏi liệu Linus Baker có cảm thấy cô đơn không, mặt anh sẽ nhăn nhúm lại trong sự kinh ngạc. Suy nghĩ ấy thật lạ lùng, gần như là gây sốc. Và dù những lời nói dối nhỏ nhặt nhất khiến cho đầu anh đau nhức và bụng thì quặn thắt, có khả năng anh vẫn sẽ trả lời là không, dẫu anh cô đơn thật, cô đơn đến gần như cùng quẫn.
Và có lẽ một phần trong anh sẽ tin vào câu trả lời ấy. Từ lâu anh đã chấp nhận rằng với một số người, dù có tấm lòng tốt đẹp đến đâu hay có bao nhiêu yêu thương để trao đi, thì họ vẫn sẽ mãi đơn độc. Đó là số mệnh của họ, và ở cái tuổi hai mươi bảy, Linus đã phát hiện ra rằng có vẻ như đời anh cũng sẽ vậy.
Ồ! Chẳng có sự kiện cụ thể nào khiến anh suy nghĩ theo hướng này. Chỉ là anh cảm thấy mình… mờ nhạt hơn những người khác. Anh như tan biến giữa thế gian trong ngần. Không ai có thể nhìn ra anh.
Khi ấy anh đã chấp nhận như vậy, và giờ anh bốn mươi tuổi, bị huyết áp cao và như đeo thêm cái lốp dự bị quanh bụng. Phải, đã có lúc anh nhìn mình trong gương, tự hỏi liệu mình có thấy được những gì người khác không thấy không. Da anh tái nhợt. Mái tóc sẫm màu cắt ngắn gọn gàng dù dường như nó đang thưa đi ở trên đỉnh. Anh có nếp nhăn quanh khóe miệng và khóe mắt. Má anh phúng phính. Cái lốp dự phòng ở bụng trông như sẽ lắp vừa bánh xe máy. Nếu anh không cẩn thận, nó sẽ biến thành loại lốp dành cho xe ben. Trông anh… cũng ổn mà.
Trông anh giống hầu hết những người khác ở thời điểm chạm ngưỡng tứ tuần.
Vào lúc anh đang ăn salad với một hai giọt sốt trong căn bếp tí hon thuộc căn nhà tí hon thì nhóm Everly Brothers bắt đầu đòi Bé Susie thức dậy. Bé Susie đang lo lắng về chuyện ngày mai phải đi gặp Ban Quản Lý Thượng Tầng. Suy nghĩ về sự cô đơn đã chẳng còn tồn tại trong tâm trí của Linus Baker nữa.
Suy cho cùng, có những người sống thiếu thốn hơn anh rất nhiều. Anh có mái nhà che mưa che nắng, đồ ăn cho thỏ để lấp đầy bụng, và đồ ngủ của anh được thêu chữ lồng.
Vả lại, chuyện ấy cũng chẳng liên quan gì.
Anh không có thời gian ngồi trong im lặng và nghiền ngẫm những suy nghĩ phù phiếm ấy. Đôi khi, im lặng lại là điều ồn ào nhất. Và như vậy thì không ổn.
Thay vì để cho suy nghĩ của mình lạc trôi, anh cầm cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH để ở nhà (trọn vẹn 947 trang, mua với giá gần hai trăm đô la; anh có một bản ở văn phòng, nhưng giữ một bản khác ở nhà có vẻ cũng hợp lý) và bắt đầu đọc những dòng chữ in nhỏ xíu. Dù ngày mai mang chuyện gì tới cửa, tốt nhất anh vẫn nên chuẩn bị sẵn sàng.