Nguyễn Đông Thanh vừa ngâm thơ xong, tên thư sinh đã biến hẳn sắc mặt.
Gã húng hắng ho, cố tình cúi đầu để che giấu ánh mắt sợ hãi đến kinh người. Bả vai hắn run lẩy bẩy, người khác nhìn vào chỉ nghĩ do hắn ho dữ dội quá, nào có biết trong lòng thư sinh bây giờ đã như có sóng biển rít gào, núi non đổ sụp?
Nguyễn Đông Thanh bị phản ứng này của hắn làm giật mình, quay sang hỏi thăm một câu:
“Các hạ không sao chứ?”
“Không. Không sao. Tiểu sinh bị ý thơ của huynh đài chấn động, không cẩn thận sặc mà thôi.”
Thư sinh hít sâu một hơi, lại cung kính cung tay, nói:
“Ban nãy thất thố, huynh đài chớ trách. Dám hỏi thơ này là sở tác của vị đại Nho nào? Tên thơ là gì?”
Nguyễn Đông Thanh cười.
“Thơ này vốn là do Cao Bá Quát tiên sinh sở tác. Lão nhân gia tính cách thanh đạm, không muốn nổi danh, nên các hạ chưa từng nghe thấy là phải. Bài này cũng là Cao lão tiên sinh tiện tay viết, thậm chí lười cả đặt tên, chỉ gọi là Tạp Thi Kỳ Tam. (bài thơ vặt số 3)”
Vừa giới thiệu, gã cũng thuận tiện bịa ra một cái cớ để giải thích nguyên do Cao Bá Quát tuyệt tích trong văn sử của Huyền Hoàng giới.
“Ra là thủ bút của Cao lão tiên sinh. Đáng tiếc lão nhân gia không muốn nổi danh, bằng không ắt sẽ thành một đời đại Nho.”
Thư sinh chép miệng, ra chiều tiếc rẻ.
Nguyễn Đông Thanh cười khẽ, lắc đầu.
“Thánh Quát” quả thực là “không muốn nổi danh”, chỉ hòm hòm lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa chống triều đình, sau đó bị bắt, bị giết, thơ văn bị đốt hầu hết. Đến nay sử học vẫn chưa ai rõ rốt cuộc ông là người ra sao, thơ văn bài nào là lời tỏ lòng của ông, lời nào là kẻ hậu sinh nhét vào miệng ông.
“Sắc trời cũng không còn sớm. Các hạ cứ tự nhiên. Tại hạ còn chuyện phải về trước.”
Nguyễn Đông Thanh chào thư sinh, đưa tay lấy một ít bánh trái đã dặn chị chủ quán làm sẵn, sau đó thủng thẳng đi về phía cửa thành.
Chị chủ quán nhìn theo bóng lưng gã, sau đó quay lại thì giật mình vì tên thư sinh đã biến đi đâu mất. Trên bàn, chỉ còn lại đĩa bánh rán cái nào cái nấy đều đã mốc meo thiu thối không chịu nổi.
“Chả có nhẽ là ma?”
Chị chủ quán rùng mình, vội vàng thu gánh, bọc lấy mấy cái bánh bằng vải đó đem lên chùa “trấn yểm”.
oOo
Tổng bộ Nhất Phẩm cư.
Thư sinh ban nãy ngồi trên ghế chủ vị, bàn tay run rẩy đưa lên dốc ngược chén trà nóng vào miệng.
Lý Lợi Minh đứng hầu một bên, lúc này không dám chậm trễ chút nào, vội vàng tiến tới tự mình rót trà cho gã thư sinh trông có vẻ trói gà không chặt kia.
Thỉnh thoảng, lão lại lau hai bàn tay vào vạt áo, răng cắn vào môi dưới.
Đã theo hầu vị đại nhân kia nhiều năm, lão rõ hơn ai hết thói quen của y. Thư sinh càng lo lắng sợ hãi trong lòng thì lại càng thích uống trà, dùng vị đắng của trà để làm bản thân bình tĩnh. Lý Lợi Minh vẫn nhớ lần cuối cùng thư sinh tỏ ra hãi hùng khiếp vía đến mức này là mười bảy năm trước, lúc thập đại Đế Tôn của Đế Mộ nội chiến.
Thư sinh lúc này cuối cùng cũng bình tĩnh lại.
Y gõ ngón tay lên bàn, lập tức trong phòng xuất hiện từng trận gió âm vừa tanh vừa lạnh. Sau đó, hai tên quỷ đói thân người, đầu ếch lù lù đội đất mà lên. Hai tên một béo một gầy, mình mặc áo giáp, vội vàng quỳ gối trước mặt thư sinh chờ nghe lệnh.
“Bái... bái kiến Nghiêm đại nhân.”
Hai quỷ đói này chính là hai tên ngày trước gây sự với Lý Thanh Vân.
“Hai người các ngươi tiếp tục nằm vùng ở Quan Lâm, theo dõi nhất cử nhất động của Bích Mặc tiên sinh cho ta. Nhớ, tuyệt đối không thể đắc tội người này, cũng chớ có tiếp xúc quá gần với y kẻo lại như lần trước. Nếu có thất trách, phá hỏng đại nghiệp của các vị Đế Tôn, bản tọa chỉ có thể chúc các ngươi sớm ngày được chết.”
Nghiêm đại nhân phất tay, lại nhìn sang Lý Lợi Minh một cái. Lão lập tức hiểu ý, cười tủm tỉm nói với hai con quỷ đói:
“Hai vị, mời ra hậu viện chờ cho một chốc. Tại hạ nghe lệnh của Nghiêm soái xong sẽ nhanh chóng chuẩn bị nhục thể cho các vị.”
Chờ hai con quỷ đi khỏi, Lý Lợi Minh mới rụt rè đến gần, hỏi:
“Nghiêm soái. Không rõ rốt cuộc vị Bích Mặc tiên sinh này lợi hại đến mức nào?”
“Ngươi nghi ngờ ánh mắt của bản soái?”
“Không dám. Chỉ là tiểu nhân dù sao quanh năm cũng sống ở ải Quan Lâm, biết thêm một chút chuyện mới dễ bề ứng xử với Bích Mặc tiên sinh, tránh bứt dây động rừng bại lộ chuyện của Đế Mộ.”
Lý Lợi Minh vội vàng cúi đầu xuống, lại giải thích rõ nguyên do.
Hơn ai hết, lão biết vị Nghiêm soái này lúc sinh tiền đã là kẻ cực kỳ tàn nhẫn máu lạnh, đừng nói là hiện giờ đã được Đế Mộ trọng dụng.
Dù sao, kể từ khi Võ Hoàng Lý Huyền Thiên quật khởi, cũng chỉ có vị Nghiêm soái này là có thể xứng làm đối thủ.
Đại Tề Sát Thần – Nghiêm Hàn.
Cầm ba vạn quân, đồ sát sáu mươi vạn quân dân ba nước, những nơi Nghiêm Hàn kéo quân đi qua không còn thành trấn, không còn làng mạc, không còn cỏ cây động vật, chỉ có đồng thây trải dài vạn dặm. Một trận chiến này, Nghiêm Hàn dùng máu viết tên mình vào sử sách, khiến ba nước Sở, Hàn, Yến thần phục đại Tề, hàng năm triều cống.
Cuối cùng, trong chiến tranh Tề - Việt bại dưới tay Lý Huyền Thiên, quy kiếm tự vẫn, lại được một vị Đế Tôn nhìn trúng, dùng bí pháp giúp y cải tử hoàn sinh, hiện đang là một trong bốn nguyên soái của Đế Mộ.
Thế nhưng, vị sát thần này lại tỏ ra dè chừng trước Bích Mặc tiên sinh, quả thực là chuyện khiến lão thấy cực kỳ khó hiểu.
Nghiêm Hàn cười lạnh, nói:
“Hôm nay bản soái tự mình gặp y một lần. Người này không bàn gì đến chuyện chém giết, cũng không thể hiện tu vi, chỉ đọc cho bản soái bốn câu thơ, dùng để dằn mặt:
Quan tây biên hướng vạn thiên thiên,
Khiêu tận giang tân kỷ dạng thuyền.