Buổi hoàng hôn sấm rền gió giật, đường núi phía trước nhòe đi trong cơn mưa tầm tã, mặt trời chỉ vừa khuất bóng mà xung quanh đã tối om om.
Tú Tú xua cỗ xe lừa, lừ đừ đi sau đám đông. Đường núi vốn toàn đất đá, bình thường đi chẳng thấy vấn đề gì, nhưng bây giờ đi bước nông là đến bước sâu, còn bất thình lình giẫm trúng vũng nước. Loáng thoáng nghe thấy tiếng quát tháo, nàng đưa mắt nhìn, dường như có rất nhiều quân lính tụ tập quanh trạm dịch trên núi, trong buổi chiều tà, ánh sáng từ ngọn đuốc chiếu dài mấy trượng, lại bị cơn mưa xối dập.
“Bộ có chuyện gì rồi sao?”
“Ừ đấy, sao lại có nhiều quan sai thế nhỉ?”
Đám đông bắt đầu xì xào.
“Dù gì cũng dừng nghỉ,” Thấy thế, người đàn ông mặc đồ đen đi trước dẫn đường nói, “Để tôi đi hỏi xem sao.”
Những người chung đường lên núi lần này đều là dân Thượng Khê huyện Lăng Xuyên. Lăng Xuyên núi non trập trùng liên miên, mà nhiều nhất là ở Thượng Khê, nằm giữa các quần sơn, thế cô lập đã định số phận bần cùng nghèo khó cho người dân nơi đây. Nhất là thời kỳ Hàm Hòa loạn lạc, người dân Thượng Khê gần như vào rừng làm cướp, về sau Chiêu Hóa đế kế vị, mạnh tay trị giặc cướp, lúc ấy Thượng Khê mới có ruộng có dân, nên dáng vẻ của một thị trấn. Đáng tiếc nạn thổ phỉ năm xưa vẫn chưa được trị tận gốc, sáu năm trước khi Tiển Khâm Đài sập, người Lăng Xuyên sống trong nỗi bàng hoàng kinh sợ, sơn tặc ở Thượng Khê nhân cơ hội hoành hành, xuống núi cướp bóc các hộ dân, từ đó triều đình mới rút kinh nghiệm xương máu, cử quân tiêu diệt thổ phỉ.
Thời điểm ấy giặc cướp chết nhiều không đếm xuể, nghe kể sơn trại bị lửa thiêu ba ngày ba đêm mới tàn, máu chảy thấm sâu vào núi, về sau trong thị trấn còn râm ran chuyện ma cỏ một thời gian, khiến người dân bất an lo sợ. Từ đó trở đi dân Thượng Khê có một thói quen là, dù xuống núi hay lên núi thì cứ đứng chờ dưới chân núi, đợi đủ mười người rồi mới cùng nhau lên đường – đông người vượng dương khí, không sợ ma quỷ nữa.
Nhóm của Tú Tú là dân Thượng Khê lên núi về nhà.
Một lát sau, người đàn ông mặc đồ đen đi nghe ngóng đã quay về, sắc mặt khác thường, nói với mọi người: “Quan gia phong tỏa đường rồi, không đi qua chỗ này được, ở trạm dịch cũng chật lắm rồi, chúng ta quay lại đi, đến miếu cũ cách đây mười dặm ở lại qua đêm, đợi tới sáng mai hẵng về trạm dịch.”
Có người hỏi: “Xảy ra chuyện gì mà phải chặn đường thế?”
Người đàn ông do dự, chỉ ậm ờ: “Hình như có án mạng, liên quan tới sơn tặc.”
Nghe nói là sơn tặc, mọi người lập tức biến sắc, không một ai dám ho he lên tiếng, đồng loạt quay đầu đi về tòa miếu.
Tú Tú cũng vội vã quay xe, song lừa đã kéo xe một ngày rồi, chưa được ăn uống lại còn mắc mưa, bây giờ nó ì ra không chịu nghe lệnh. Nhưng ngồi trên xe là người ông chân què của Tú Tú, bị lừa dẫn đi vòng vòng suýt thì ngã, ông cầm gậy than ôi: “Thôi thôi, tự ông xuống đi tiếp.”
Người đàn ông áo đen kia thấy bọn họ không bắt kịp, lập tức vòng trở lại.
Hắn nhận cây roi từ trong tay Tú Tú, chỉ ba roi đã khiến lừa quy phục, nói: “Tú muội, muội lên xe ngồi đi, để ta đánh xe cho.”
Tú Tú nói: “Cám ơn huynh Lưu đại ca, nhưng trời đang mưa lớn, mọi người còn chờ người dẫn đường đấy, tự muội đánh lừa được, vả lại muội còn có a tỉ mà.”
Nghe thấy thế, Lưu Đại Xuyên đưa mắt nhìn cô gái đang dìu Diệp lão bá cạnh xe lừa.
Gió thổi mưa rơi, cô gái ấy mặc đồ đen từ đầu tới chân, còn đội cả mũ đen che mặt, gần như hòa làm một với màn đêm.
Vì cùng là dân Thượng Khê, dẫu chỉ đồng hành vài ba hôm nhưng mọi người vẫn nhiệt tình giúp đỡ lẫn nhau, chỉ có cô gái này là luôn tách biệt – tuy Tú Tú nói a tỉ của muội ấy mang bệnh trong người, bình thường không được ra gió, song đâu đến nỗi phải im thin thít suốt cả chặng đường.
Lưu Đại Xuyên chần chừ, hắn vẫn muốn đánh xe lừa giúp Tú Tú, nhưng ngẩng đầu lên, thấy nhóm người đằng trước đang dừng bước chờ mình dẫn đường, hắn đành nói: “Đi thôi.”
May là miếu cũ không xa, đi theo đường núi bảy tám dặm, rẽ vào đường mòn ở ngã rẽ là đến nơi.
Cả tòa miếu chỉ có độc một gian, do nằm trong núi sâu nên chẳng mấy ai đến dâng hương khói, hòa thượng giữ miếu cũng đã bỏ đi từ đời nào. Gạch ngói cột xà đã nhiều năm không được tu sửa, có chỗ còn bị dột. Miếu nát thế này, ban đêm vào ở cũng ớn lạnh rùng mình. Nhưng nhóm Lưu Đại Xuyên không sợ, bọn họ đông người – ước chừng lên đến hai mươi, đủ dương khí rồi.
Vào miếu, Lưu Đại Xuyên nhanh chóng giúp ba người Tú Tú tìm chỗ khô ráo, trải chiếu ra, những người còn lại hoặc nhóm lửa, hoặc thu xếp hành trang, bọn họ đều đem theo lương khô nên không cần tìm đồ ăn. Đợi lửa cháy lớn, tất cả quây quần quanh đống lửa, có người hỏi, “Lưu đại ca, lúc nãy huynh nói ngọn núi bị phong tỏa vì án mạng, rốt cuộc là án mạng gì vậy?”
“Đúng thế, còn bảo là liên quan đến sơn tặc, chẳng phải sơn tặc ở Thượng Khê đã bị giết sạch từ năm sáu năm trước rồi à? Sao bây giờ lại còn giặc cướp nữa?”
Lưu Đại Xuyên cắn một góc bánh bắp, nuốt cái ực rồi đáp, “Thực ra… không hẳn là sơn tặc.”
“Không phải sơn tặc thì là gì?”
Lưu Đại Xuyên do dự, một lúc lâu sau mới nói: “… Là ma. Chuyện tà ma.”
Toàn miếu lập tức rơi vào im lặng.
Trong chốc lát, mọi người chỉ nghe thấy mỗi gió núi rít gào.
“Chừng mười ngày trước, nghe bảo trong núi xuất hiện bóng ma, không lâu sau dưới chân núi có người chết. Ai chết thì các quan gia không nói với tôi, chỉ… nói là bị ma giết. Quan sai ráo riết lùng sục, vì thế mới lập trạm kiểm soát ở trên núi, không phải không cho người đi qua mà là ra vào phải kiểm tra kỹ lưỡng, ban đêm cấm đi lại, nói là đợi phá án xong rồi tính tiếp.”
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, lúc lâu sau, một người rụt rè nói: “Sao tự dưng… lại có chuyện ma quỷ vậy?”
Bọn họ đều ngầm hiểu chữ “lại” này – sáu năm trước triều đình cử quân diệt phỉ, nhưng vì chết chóc quá nhiều, trên núi từng xôn xao chuyện ma quỷ một thời gian, có điều chưa quá nửa năm thì mọi thứ đã chìm xuống. Người Thượng Khê nói là do quỷ đầu thai chuyển thế rồi, không ngờ bây giờ lại xảy ra án hồn ma giết người.
Người nào người sợ hãi tột độ, vây quanh đống lửa, không còn tâm trạng nói chuyện nữa.
Hầu hết bọn họ đều là hộ vệ người hầu nhà phú hộ. Tuy Thượng Khê tách biệt trong núi nhưng không phải không có nhà giàu, có vài món đồ không mua được ở Thượng Khê, chủ nhân mới sai người hầu xuống phủ thành mua đồ. Cho dù gặp chuyện hay rơi vào loạn lạc, tôi tớ bọn họ phải tự giải quyết, giờ nghe nói núi Thượng Khê có ma quỷ lộng hành, còn lo mình chưa nổi thì nói gì lo cho người ngoài.
Đi đường một ngày trời khiến mọi người thấm mệt, nếu không nói chuyện nữa thì đi ngủ vậy.
Tú Tú thu xếp cho Diệp lão bá, lại nhìn quanh mà không thấy a tỉ đâu, nàng nhẹ nhàng đứng lên, rón rén đi ra ngoài miếu.
Cô gái đội mũ mạng đang dựa vào tường dưới mái hiên, Tú Tú thấy nàng, nhỏ giọng cất tiếng: “A tỉ.”
Cô gái đội mũ quay sang nhìn nàng, đặt tay lên môi ra hiệu chớ lên tiếng, dẫn nàng đến hành lang ngoài miếu, hỏi: “Có chuyện gì?”
Giọng nàng trẻ hơn dự đoán, có vẻ cũng không lớn hơn Tú Tú là bao.
Tú Tú nhanh chóng đổi xưng hô, nói: “Giang cô nương, ông bảo tôi hỏi ý cô là có muốn ngủ lại miếu tối nay, đợi sáng mai theo đoàn của Lưu đại ca lên núi vào Thượng Khê không, hay là… là chịu vất vả, tới đường tắt gần đây đi vòng lên Thượng Khê?”
Cô gái đội ngũ nghe thế, im lặng một lúc mới đáp: “Tôi không rành đường xá Thượng Khê, ý của cô là?”
Nghe cách hai người nói chuyện hẵng còn xa lạ, dường như chỉ mới làm quen chứ chẳng phải chị em gì cả.
Và đúng vậy, cô gái mũ đen chẳng phải ai khác, chính là Thanh Duy.
Sau khi rời kinh, Thanh Duy trèo đèo lội suối tìm đường đến Lăng Xuyên. Mấy hôm trước ở phủ Đông An, thấy Diệp Tú nhi bị một công tử nhà giàu chòng ghẹo, nàng bèn ra tay cứu giúp.
Sau đó để che giấu thanh phận, Thanh Duy nói dối mình họ Giang tên Duy, là người huyện Sùng Dương Lăng Xuyên. Nàng nói mình bị trong nhà ép gả cho một tay nhà giàu ở Đông An, nhưng gã thiếu gia đó lại là kẻ ăn chơi trác táng, nàng buộc phải đào hôn, muốn lên Thượng Khê tách biệt trong núi trốn một thời gian.
Vừa hay Diệp Tú nhi cũng là người Thượng Khê, nàng được Thanh Duy giúp đỡ nên quyết định tạm giả làm chị em, giúp Thanh Duy che giấu thân phận, trốn khỏi sự truy lùng của “người chồng”.
Diệp Tú nhi đưa mắt nhìn màn mưa chằng chịt, nói: “Tôi với ông cảm thấy tốt nhất vẫn nên đi đường tắt vòng lên Thượng Khê, thứ nhất Giang cô nương cũng nói chồng mình quen biết quan phủ, lỡ đâu hành tung của cô bị quan phủ phát hiện, không chừng sẽ báo lại cho chồng cô biết; thứ hai…” Diệp Tú nhi do dự, “Ma quỷ vốn chỉ là tin đồn lung tung, tôi và ông không tin, bây giờ trạm dịch trên núi có nhiều quan sai canh gác quá, vào ra núi đều phải kiểm tra nghiêm ngặt, không biết sẽ kéo dài đến lúc nào. Chuyến này tôi đi mua son phấn giúp nữ chủ nhân trong nhà, mà cô chủ nóng tính lắm, nếu bị bắt phải chờ lâu thì dễ chì chiết tôi lắm.”
Thanh Duy nhìn nàng, một lúc sau mới gật đầu nói: “Được rồi, cô quay về ngủ đi, sau nửa đêm, đợi mọi người ngủ say rồi chúng ta lên đường.”
Diệp Tú nhi hỏi: “Giang cô nương không ngủ à?”
Thanh Duy lắc đầu.
Nàng là trọng phạm trên văn thư truy nã của triều đình, nửa năm qua, dẫu chân dung của nàng chưa đến mức dán bố cáo thiên hạ, nhưng nếu Tả Kiêu vệ không bắt được nàng, chắc chắn văn thư bao gồm chân dung của nàng sẽ được đưa đến khắp nha môn mọi ngóc ngách. Một mình lang bạt xuất hành, quan sai lại còn sát rạt bên cạnh, so với việc mất mạng thì việc đi ngủ trở nên quá xa xỉ, chỉ cần dựa tường nhắm mắt chừng nửa đêm là đủ.
Thanh Duy dựa vào chân tường chờ đến tận nửa đêm, sau khi chắc chắn mọi người trong miếu đã ngủ say, nàng lặng lẽ đi vào miếu, lay Diệp Tú nhi và Diệp lão bá dậy, nhỏ giọng nói: “Chúng ta đi thôi.”
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT