Hơn nữa, đây cũng là phúc đức mà mấy đời tổ tiên tích góp lại. Chỉ cần tổ tiên làm việc thiện, tích góp công đức thì phần phúc đức này sẽ được ban ơn cho con cháu hậu duệ, phù hộ bọn họ mọi chuyện suôn sẻ, không bị tai họa nhiễu loạn, không bị tà ám xâm phạm.
Làm cô bé nhận một người có phúc đức làm cha nuôi cũng chính là đang tìm cho cô bé một chỗ dựa, mượn phúc đức của người đó giúp cho cô bé gặp dữ hóa lành, làm tổ tiên của người đó phù hộ cô bé bình an.
“Nhưng mà,” Cô Lý nhíu mày nói thêm, “Tình hình hiện tại của con gái cô như thế này, sợ là đã không thể nhận người bình thường làm cha nuôi được nữa, chỉ có thể thử tìm ông ấy xem sao.”
Tú Chi vội vàng hỏi “ông ấy” là ai, cô Lý lại không nói rõ, chỉ cho Tú Chi một chén cơm tẻ và một đôi đũa, lại hỏi ngày sinh tháng đẻ của con gái cô để khắc lên trên một chiếc khóa trường mệnh. Cô Lý dặn Tú Chi cầm theo mấy thứ này ra khỏi thôn, đi lên con đường đất ở phía Tây, đi được khoảng 20 dặm, trời cũng đã sẩm tối, sẽ nhìn thấy một thôn nhỏ hẻo lánh. Vào thôn đi chẳng được bao xa sẽ thấy có một cây hòe lớn đã bị gọt vỏ cây, phía sau cây hoè chính là nhà của người kia.
“Cô cắm chiếc đũa vào chén cơm, đặt thứ này và khóa trường mệnh trước cửa nhà ông ấy, ông ấy sẽ hiểu là có ý gì. Nếu ông ấy chịu nhận lấy thứ này, việc này xem như thành công, ông ấy đương nhiên cũng sẽ khóa lại chiếc khóa trường mệnh này cho cô. Khóa trường mệnh phải do cha nuôi đích thân khóa lại, vừa tránh tai họa vừa sống lâu trăm tuổi, gặp dữ hóa lành. Đến lúc đó, cô lại cho con gái cô đeo chiếc khóa trường mệnh này lên, mệnh của con gái cô cũng được khóa lại. Có ông ấy làm cha nuôi của con gái cô, con gái cô xem như được cứu rồi.”
Cô Lý ngừng một chút rồi nói tiếp: “Nhưng mà việc nhận cha nuôi này cũng không thể nhận suông được. Những ngày lễ Tết, cô đừng quên dẫn con gái cô đi thăm ông ấy, thắp cho ông ấy vài nén nhang.”
Tú Chi nghe thấy thế thì có chút mờ mịt. Thắp nhang cho người đã chết thì không nói làm gì, nhưng sao ngay cả người còn sống cũng phải thắp nhang nữa? Nhưng cô cũng không suy nghĩ gì thêm, dẫn theo con gái, xách thêm một ít đồ đạc rồi lên đường. Cũng không biết đã đi bao lâu, mãi cho đến khi trời dần tối, Tú Chi cuối cùng cũng thấy có một thôn nhỏ hoang vắng xuất hiện trước mắt, hẳn là thôn mà cô Lý đã nhắc đến.
Sau khi vào thôn, Tú Chi nhận ra có gì đó không ổn. Thôn này rất kỳ quái, dưới chân toàn là lá rụng phủ kín cả mặt đường. Hai bên đường, cỏ hoang mọc cao đến nửa người, cũng không có ai xử lý, để lại cho người ta một cảm giác hoang vắng tiêu điều.
Trong thôn này chẳng lẽ không có người hay sao? Tú Chi cảm thấy có chút kỳ quái, nhưng cô vẫn tiếp tục đi về phía trước. Bốn phía có rất nhiều cây bị gọt vỏ và những căn nhà xập xệ. Những căn nhà kia dường như đã lâu không có ai ở, mỗi một căn phòng đều được thắp nến nhưng lại không thấy bóng người. Lửa từ ngọn nến chiếu lên lớp giấy cửa sổ, lúc sáng lúc tối, không ngừng lung lay, khiến cho trong lòng Tú Chi cũng bắt đầu trở nên thấp thỏm bất an. Một cái thôn to như vậy mà lại không chút chút âm thanh nào, không có tiếng người cũng không có tiếng chó sủa, yên tĩnh đến đáng sợ.
“Lạ thật, người trong thôn này đâu cả rồi?” Tú Chi nói thầm. Cô cẩn thận bước về phía trước, chỉ chốc lát sau, quả nhiên đã nhìn thấy một cây hòe lớn, vỏ cây cũng bị người ta gọt đi. Phía sau cây hoè là mấy căn nhà ngói, trong đó có một căn thắp nến, cửa phòng đóng chặt.
“Xem ra chính là nhà này rồi.” Tú Chi bước lên gõ cửa, sau đó làm theo như lời dặn của cô Lý, lấy đũa cắm vào chén cơm, đặt chén cơm và khóa trường mệnh ở trước cửa.
Chẳng bao lâu sau, trong nhà phát ra tiếng ho khan của người già. Tú Chi thấy trên giấy cửa sổ phản chiếu hai bóng người, đều còng lưng, hình như là hai vợ chồng già, một ông lão và một bà lão.
Ông lão vươn tay ra khỏi khe cửa, lấy chén cơm và chiếc khóa trường mệnh vào trong, bưng chén cơm xới lên ăn không ngừng, dáng vẻ như rất đói bụng. Bà lão dường như không vui lắm, mắng ông ấy tham ăn, còn dặn ông ấy đừng ăn, trả chén cơm lại, đỡ rước lấy mầm tai họa. Giọng nói của bà lão rất quái lạ, giọng điệu the thé, mờ mịt phiêu du, khiến người nghe cảm thấy rất khó chịu.
Ông lão không để ý đến lời nói của bà lão, vẫn bưng chén cơm ăn, ăn xong còn ợ một cái, dường như đã ăn no. Ông đặt chén xuống, lại ném chiếc khóa trường mệnh qua khe cửa. Tú Chi nhặt lên xem, khóa trường mệnh quả nhiên đã được khóa lại. Cô biết chuyện này đã thành công, bèn đeo chiếc khóa trường mệnh lên cổ cho con gái. Tú Chi vừa định rời khỏi thì lại có âm thanh truyền ra từ căn nhà, là giọng nói của ông lão kia.
Ông lão nói, nếu chúng ta đã kết nghĩa thành công, vậy hôm nay cũng đừng đi nữa. Thôn này không được yên ổn, ban đêm có rất nhiều chó hoang, hai người hãy ở lại đây một đêm đi!
Giữa đêm hôm khuya khoắt, Tú Chi cũng sợ đi đêm sẽ gặp nguy hiểm gì. Tuy cô cảm thấy hai vợ chồng già này cũng rất kỳ quái, thậm chí cả thôn này đều kỳ quái, nhưng dù sao cũng là cô Lý kêu cô đến đây, lường trước được rằng đôi vợ chồng già này cũng không phải là người xấu, vì vậy bèn đồng ý. Vừa đẩy cửa bước vào đã không thấy hai vợ chồng già đâu, gọi vài tiếng cũng không thấy ai đáp lại. Tú Chi cảm thấy có lẽ đôi vợ chồng già này có lẽ là đã ra ngoài từ cửa sau, thầm nghĩ hai người này đúng là kỳ quái, giữ mình ở lại qua đêm nhưng lại bỏ đi rồi. Nhưng cô cũng không suy nghĩ nhiều, thấy trong phòng có một chiếc giường đất, Tú Chi và con gái bèn ngủ trên giường đất.
Ban đêm, cô ấy đang mơ mơ màng màng ngủ, loáng thoáng nghe thấy có tiếng lách cách leng keng, giống như có người đang đánh nhau. m thanh ồn ào, hình như còn rất đông người. Lăn lộn mãi cho đến nửa đêm, âm thanh này mới dần dần biến mất. Tú Chi chỉ cho rằng đó là tiếng gió bên ngoài, cũng không để ý nhiều.
Ngày hôm sau, sau khi ngủ một giấc dậy, Tú Chi cảm thấy hơi lạnh, hình như gió hơi to, thổi đến mức rét run. Cô vừa mở mắt ra nhìn, ngay lập tức ngây ngẩn cả người. Chỗ này căn bản không phải một căn nhà mà là vùng dã ngoại hoang vu, bốn phía cũng không có căn nhà nào. Liếc mắt nhìn xung quanh, tất cả đều là những nấm mồ bị bỏ hoang, mà bản thân cô và con gái đã ngủ bên cạnh một nấm mồ bị bỏ hoang.
Nấm mồ kia không biết đã bị ai đào lên, hai chiếc quan tài bên trong cũng bị phá huỷ, hài cốt rơi rụng tan tành bên ngoài, trông rất đáng sợ.
Tú Chi bị dọa đến mức sởn tóc gáy, kéo tay con gái vội vã chạy khỏi đây. Con gái cô vừa chạy vừa bật cười, biểu cảm kỳ quái trên khuôn mặt cô bé khiến Tú Chi không khỏi rùng mình. Cô phát hiện ra chiếc khóa trường mệnh mà con gái đeo trên cổ đã đứt gãy, trong lòng càng hoảng sợ hơn.
Tú Chi lại tìm đến cô Lý, muốn kể cho bà ấy nghe chuyện đã xảy ra. Cô Lý đang thắp nhang, vẫn luôn dập đầu trước tượng thần, qua một lúc lâu mới đứng dậy, sắc mặt không được tốt, nhíu chặt mày. Tú Chi vừa tính mở miệng, cô Lý đã vẫy vẫy tay, nói bà ấy đã biết chuyện rồi.
Cô Lý nói, lão Dương Đầu đã báo mộng cho bà ấy, kể lại mọi chuyện cho bà ấy nghe. Lão Dương Đầu chính là ông lão mà hôm qua Tú Chi nhìn thấy. Cô Lý nói, ông ấy không phải người mà là quỷ.
Tú Chi đã sớm cảm thấy đôi vợ chồng già kia rất kỳ quái, nhưng bây giờ nghe cô Lý nói những lời này vẫn lắp bắp kinh hãi không thôi, vội vàng hỏi cô Lý rốt cuộc đây là chuyện như thế nào.
Cô Lý nói với Tú Chi, để con gái của cô ấy nhận người thân này, thật ra là âm thân, cũng có nghĩa là tìm một người đã chết cho con gái cô ấy nhận làm cha nuôi. Bởi vì đồ vật trên dương gian đã không trấn áp được tà ám trên người con gái cô, cho nên phải tìm người dưới âm phủ đến trấn áp. Bà lo rằng nói trước thì Tú Chi sợ hãi không dám đi cho nên mới không báo trước cho cô, lại không ngờ rằng cuối cùng vẫn không thể ngăn chặn được, ngay cả lão Dương Đầu cũng té ngã.
Nói đến đây, khuôn mặt cô Lý lộ ra vẻ sợ hãi. Bà ấy nói rằng lão Dương Đầu chính là tộc trưởng của thôn quỷ kia, cho dù là lúc sinh thời hay sau khi chết đều có danh vọng rất lớn trong thôn, có thể gọi tất cả quỷ dân trong thôn. Không ngờ rằng đã đến nước như vậy mà vẫn không thể đánh thắng được, còn bị người ta đào mộ vứt hài cốt.
Tú Chi nghe nói nơi đó là thôn quỷ, lúc này mới biết vì sao trong thôn lại kỳ quái đến như vậy, nghĩ lại mà sợ hãi không thôi, đến mức đổ mồ hôi lạnh ướt hết cả người.
Cô Lý dặn Tú Chi không cần phải sợ, tuy rằng đó là thôn quỷ, nhưng “người” trong thôn đều là “người” tốt chứ không phải là ác quỷ.
Cô Lý nói, thời trẻ, thôn đó cũng là một vùng nông thôn nhỏ yên tĩnh bình an, người trong thôn hiền lành chăm chỉ, ai nấy đều rất tốt bụng. Nhưng sau này gặp một trận thiên tai lớn quét ngang cả nước, những huyện lân cận xung quanh đều gặp khó khăn, người trong thôn có muốn chạy nạn cũng không có chỗ để đi. Mà thôn đó đa phần đều là người già hoặc những người ốm yếu bệnh tật, cho nên đều không thể qua khỏi. Sau khi gặm sạch vỏ cây, cuối cùng toàn bộ người trong thôn đều chết đói.
Nhưng trong lòng bọn họ vẫn không cam lòng. Khó khăn lắm mới đánh bại quân giặc, lại chịu đựng nội chiến, cho rằng cuối cùng cũng có ngày lành, nào ngờ lại gặp phải loại đại thiên tai trăm năm mới gặp một lần này. Chết quá oan ức, trong lòng bọn họ vừa oán vừa hận, oán khí toàn bộ thôn dâng lên đến tận trời. Có lẽ là oán khí quá lớn, những người đã chết trong thôn đều không thể bước vào luân hồi, đều bị giữ lại trong thôn. Vì thế, thôn đó trở thành thôn quỷ.
Tuy rằng những người trong thôn kia đều có oán khí nên mới trở thành quỷ, nhưng từ trước đến nay, họ chưa từng hại người. Ngược lại, có khi họ còn trợ giúp người khác.
Cô Lý nói, bà ấy quen biết với lão Dương Đầu trong thôn đó, có khi xem bói cho người ta mà gặp phải vấn đề không thể giải quyết được thì thường đi nhờ vả ông ấy. Lão Dương Đầu chết đói, tham ăn, cho nên thường thường chỉ cần cúng cho ông ấy một chén cơm tẻ, lão Dương Đầu ăn xong vui vẻ thì sẽ đồng ý. Chuyện lần này cũng vậy. Vốn muốn nhờ lão Dương Đầu giúp cô bé một tay, lại không ngờ rằng tà ám trên người cô bé lại lợi hại đến như vậy, ngược lại hại thảm lão Dương Đầu.
Cô Lý nói, lúc bà ấy biết tin ngay cả lão Dương Đầu cũng không thể ngăn chặn thứ tà ám kia, không khỏi hít sâu một hơi khí lạnh. Loại chuyện này, trước kia bà chưa từng gặp phải. Cũng không biết tà ám trên người con gái Tú Chi có lai lịch gì mà lại hung hăng đến như vậy.
Vừa nghe thấy thế, trái tim Tú Chi ngay lập tức trở nên lạnh lẽo, vội vàng quỳ xuống cầu xin cô Lý nhất định phải cứu lấy con gái cô. Nếu như con gái có mệnh hệ gì, Tú Chi cũng không sống nổi nữa.
Cô Lý suy nghĩ trong chốc lát, lặng lẽ kéo Tú Chi sang một bên, nói với cô rằng có lẽ lai lịch của thứ dơ bẩn trên người con gái cô không nhỏ, cho dù là ở dưới hay ở trên mặt đất đều không thể trấn áp được nó, xem ra chỉ có trên trời mới trấn áp được.
Nghe xong, Tú Chi vẫn chưa hiểu lắm, hỏi cô Lý rốt cuộc cô nên làm như thế nào. Cô Lý nói phải tìm Bồ Tát tới trấn áp nó, phải dùng bức tranh Bồ Tát đã được khai quang và cúng bái từ 10 năm trở lên mới được. Chẳng qua là, tranh Bồ Tát được cúng bái trên 10 năm rất khó tìm. Có tìm được hay không, còn phải xem số mệnh của con gái cô như thế nào.
Sau khi tìm được bức tranh Bồ Tát thì treo trong phòng mà con gái cô ngủ. Chưa đầy 2 ngày là có thể khiến thứ dơ bẩn trên người con gái cô hồn phi phách tán, con gái cô cũng sẽ khôi phục lại bình thường.
Tú Chi nghe thấy vậy thì yên tâm rồi, việc này cũng không khó. Nói ra cũng trùng hợp, bà lão nhà hàng xóm chính là một người tin Phật, đã ăn chay niệm Phật nhiều năm, trong nhà cũng có một bức tranh Bồ Tát.
Cô nói việc này cho cô Lý nghe, cô Lý cũng rất vui vẻ, nói rằng xem ra vận may của con gái Tú Chi không tệ, mệnh chưa đến đường cùng. Việc này không nên chậm trễ, cô Lý thúc giục cô nhanh chóng về nhà mượn bức tranh Bồ Tát.
Lúc Tú Chi dẫn con gái ra ngoài, cô Lý đi theo tiễn hai mẹ con. Đúng lúc này, cô bé bỗng dưng quay đầu lại lạnh lùng nói với cô Lý một câu, nói rằng bà sẽ chết.
Cô Lý vừa nghe thấy vậy, ngay lập tức ngẩn người, chuỗi tràng hạt bà cầm trong tay quanh năm suốt tháng đột ngột bị đứt, hạt rơi đầy sàn. Tú Chi nhìn con gái trông hết sức xa lạ trước mắt, không khỏi kinh hoàng, sau khi giúp cô Lý nhặt hạt lên thì nhanh chóng kéo tay con gái rời khỏi.
Về đến nhà, cô vội vã đi tìm bà lão nhà hàng xóm mượn bức tranh Bồ Tát treo trong buồng ngủ, lại thắp nhang cúng bái, quỳ lạy Bồ Tát, tha thiết cầu xin có thể trừ tà trấn quỷ, phù hộ cho con gái cô nhanh khỏi hẳn.
Buổi tối, Tú Chi và con gái ngủ cùng nhau trên một chiếc giường. Ban đêm, cũng không biết là mấy giờ, cô đang mơ mơ màng màng mà ngủ thì bỗng ngửi thấy một mùi lạ, giống như là thứ gì đó bị thiêu. Tú Chi vội vàng mở mắt ra nhìn, một màn trước mắt khiến lông tơ của cô dựng đứng. Bức tranh Bồ Tát được treo trên tường kia, thế nhưng lại tự bốc cháy. Giữa ánh lửa, Bồ Tát ngồi trên đài hoa sen, hai mắt chảy máu, khuôn mặt lộ vẻ bi thương, kỳ quái không nói nên lời.
Mà con gái cô lại đứng bên mép giường, nhìn Bồ Tát đã bị thiêu cháy đến mức biến dạng hoàn toàn, không ngừng cười ra tiếng, trong miệng còn lẩm nhẩm lầm bầm gì đó. Giữa đêm khuya, tất cả mọi âm thanh đều yên tĩnh, giọng nói của con gái cô mơ hồ có thể nghe thấy được, hình như là đang đọc một bài đồng dao. “Chuột hao hết đầu năm, Cửu Châu gặp đại nạn, khắp nơi xương chất thành núi, trong giếng đầy xác chết, chỉ nghe quỷ khóc mồ, không thấy thần tiên thương xót.”
Giọng nói của con gái cô tuy non nớt nhưng lại khiến người nghe rét lạnh không nói nên lời. Tú Chi vừa kinh hoàng vừa sợ hãi, không ngờ rằng ngay cả Bồ Tát mà ma quỷ trên người cô cũng không sợ, vậy còn ai có thể trấn áp được nó cơ chứ? Lòng cô nóng như lửa đốt, khóa trái cửa phòng nhốt con gái ở trong, bản thân cô lại đi tìm cô Lý, muốn hỏi cô Lý xem có còn cách nào khác hay không.
Chờ đến khi cô đến nhà cô Lý thì trời đã sáng rồi. Trước cửa nhà cô Lý tụ tập rất nhiều người, dường như đã xảy ra chuyện gì đó. Tú Chi bước lên dò hỏi, lời nói của một người trong thôn đang đứng xem lại khiến cho cô kinh hoảng không thôi. Cô Lý đã chết. Sáng nay, có người phát hiện ra cô Lý đã treo cổ trên xà nhà. Nhưng cái chết của cô Lý rất kỳ quái, dưới chân không có bất cứ công cụ gì, giống như bị ai đó kéo lên xà nhà treo cổ vậy.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT