Chứng Hồn Đạo
Chương 32 : Tạo Hóa
Dịch và biên tập: Zeroman
Nguồn: tangthuvien
Ánh trăng màu đỏ tại Đan Bích sơn vì tìm không được người chủ mưu gây họa, lại bị các thần niệm của yêu tu cùng yêu thú xúc phạm đến mình, nên mới giận chó đánh mèo lên các thần niệm đang ngao du trong trời đất.
Hầu hết những thần niệm đang ngao du đều bị ánh trăng màu đỏ công kích cả.
Lệnh Hồ cũng thật là bất hạnh, tuy hắn đã thu hồi hơn một nửa thần niệm, chỉ một chút nữa thôi là có thể rút toàn bộ về. Nhưng không ngờ ngay lúc đó ánh trăng màu đỏ lại phát động công kích, làm cho thần niệm đang ở ngoài bị đánh tan đi.
Tuy thần niệm của Lệnh Hồ rất mạnh mẽ, nhưng không thể nào so với uy của thiên địa được, chỉ một giây lát thôi là tâm thần đã bị thương rồi.
- Thiên Địa hai hồn đã làm gì vậy?
Tâm thần của Lệnh Hồ lúc này bị hao tổn, mặt trắng như tờ giấy. Nhưng việc làm của Thiên Địa hai hồn lại càng làm hắn nghi hoặc hơn, chúng đã làm gì khiến cho thần vật thiên địa như ánh trăng màu đỏ lại nổi giận đến thế kia.
Từ lúc Lệnh Hồ chào đời tới nay, đây là lần đầu tiên tâm thần bị hao tổn như thế. Cũng may chỉ có một phần nhỏ thần niệm bị diệt nên tâm thần chỉ bị thương tổn đôi chút, hơn nữa, Thiên Địa hai hồn cùng với bảy phách không ngừng rèn luyện trong tinh thần thức hải. Tin rằng chỉ một thời gian sau là thần niệm bị hao tổn có thể khôi phục lại như ban đầu.
Nếu như thân thể bị hao tổn thì Lệnh Hồ mới thật sự đau lòng đó, đối với Lệnh Hồ bây giờ thì điều hắn coi trọng nhất đúng là thân thể.
Còn Thiên Địa hai hồn lại làm như chưa có chuyện gì xảy ra cả, sau khi trở về thức hải lại không ngừng tiến hành thôi diễn Chứng Hồn quyết, cùng nhau bàn luận và luận chứng.
Nhưng mà, thần vận của Thiên Địa hai hồn giờ phút này đã rõ ràng hơn nhiều rồi. Tuy bề ngoài vẫn có tướng mạo của Lệnh Hồ, nhưng bên ngoài của Thiên Hồn lại có thêm một tăng y xanh nhạt, giống như người Phật gia; còn Địa Hồn lại khoác thêm một đạo bào, trông như người Đạo gia vậy.
Trong tinh thần thức hải bây giờ đã có thêm hai ngọn núi: Di Đà sơn và Phương Thốn sơn. Phật tướng Thiên Hồn cư ngụ ở Di Đà sơn, còn Đạo tướng Địa Hồn lại ở Phương Thốn sơn.
Lệnh Hồ vừa mới đưa thần niệm vào trong tinh thần thức hải thì đã nghe thấy Phật tướng Thiên Hồn nói:
- Ta sinh ra là Phật, tu chân Phật, phân rõ chân ngã(1), chứng nhận Bồ Đề(2) vô thượng! Nên gọi là Thích Bồ Đề!
Đạo tướng Địa Hồn cũng nói:
- Ta sinh ra là Đạo, tu chân Đạo, phân rõ mọi vật, chứng nhận Đạo Quả (3) vô thượng! Nên gọi là Đạo Huyền!
Đồng thời vang lên chân ngôn Đạo gia:
- Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh. Vô, danh thiên địa chi thuỷ; Hữu, danh vạn vật chi mẫu. Cố thường vô, dục dĩ quan kì diệu; cố thường hữu, dục dĩ quan kì khiếu. Thử lưỡng giả đồng xuất, nhi dị danh. Đồng, vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn.(1)
Thiên Hồn Thích Bồ Đề cũng tụng chân ngôn Phật gia:
- Đại bi vô lệ, đại ngộ vô ngôn, đại tiếu vô thanh. Vị tằng sinh ngã thùy thị ngã? Sinh ngã chi thì ngã thị thùy? Trường đại thành nhân phương thị ngã, hợp nhãn mông lông hựu thị thùy.(2)
Lệnh Hồ vô cùng kinh ngạc nhìn biến hóa của Thiên Địa hai hồn. Trong lúc bất chợt, dường như hắn đã hiểu ra điều gì đó, nhưng rồi lại không hiểu được.
Thiên Hồn Thích Bồ Đề nhìn Địa Hồn Đạo Huyền nói:
- Đạo hữu!
Địa Hồn Đạo Huyền cũng mỉm cười, chắp tay nói lại:
- Đạo hữu!
Sau đó, cả hai đồng thời chắp tay nhìn thần niệm Lệnh Hồ nói:
- Đạo hữu!
Lệnh Hồ chợt có điều ngộ ra, cười ha ha một tiếng. Thần niệm khẽ ngưng tụ lại hình ảnh hắn đeo cự kiếm, sau đó khom người thi lễ với hai người một cái, nói:
- Đạo hữu!
Sau đó, cả ba người lại nhìn nhau cười to!
Từ giờ phút này Lệnh Hồ cũng ngộ được một điều: vạn vật đều có hồn, nếu như muốn cho Hồn Đạo đại thành thì Hồn Đạo trước phải bao quát vạn vật, lĩnh ngộ được đạo của vạn vật trong thiên địa.
Nhưng mà, có thành tựu lĩnh ngộ đạo vạn vật của Phật gia cùng Đạo gia này thì Lệnh Hồ cũng không cần phải đi tìm hiểu đạo của vạn vật nữa, chỉ cần tìm hiểu đạo của Phật gia cùng Đạo gia là đã có thể ngộ được đạo của vạn vật.
B.ạ.n..Đ.a.n.g..Đ.ọ.c..T.r.u.y.ệ.n..T.ạ.i..W.e.b.s.i.t.e..T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m.
Vì vậy, Thiên Hồn mới hóa thân thành Thích Bồ Đề, để qua đó lĩnh ngộ Bồ Đề vô thượng của Phật môn; còn Địa Hồn lại hóa thân thành Đạo Huyền, đi lĩnh ngộ sự huyền diệu của Đạo Quả vô thượng.
Cũng tại giờ khắc này, tam hồn của Lệnh Hồ mới thật sự độc lập với nhau: tuy là một nhưng cũng không phải là một, thật sự là đạo hữu với nhau!
Nhưng mà, Thích Bồ Đề cùng Đạo Huyền giờ đây chỉ mới bắt đầu bước đi trên con đường Phật và Đạo thôi, bọn họ vẫn thôi diễn Chứng Hồn quyết như cũ. Dù sao Lệnh Hồ cũng chưa bao giờ tiếp xúc với Phật học cùng Đạo học, đúng là không hiểu gì về hai cái này cả. Nếu muốn cho Thích Bồ Đề cùng với Đạo Huyền chân chính hiểu được Phật quả cùng Đạo quả thì còn cần vô số cơ duyên.
Đầu tiên, Lệnh Hồ phải đi tìm vô thượng pháp môn của Phật môn cùng Đạo môn để cho Thích Bồ Đề cùng Đạo Huyền nghiên cứu. Nhưng mà, chuyện này cũng không thể nào gấp gáp được. Dù sao việc chứng nhận Phật quả cùng Đạo quả không hề hơn giản, có thể nói còn khó khăn hơn nhiều việc làm cho thân thể Lệnh Hồ hóa thành Mệnh Hồn.
- Làm phiền hai vị đạo hữu rồi!
Lệnh Hồ nói.
Thích Bồ Đề cùng Đạo Huyền mỉm cười:
- Ngươi là ta, hắn là ta, đó là chân ngã!
Lệnh Hồ cười to, lần nữa cung kính hành lễ, sau đó rời khỏi tinh thần thức hải về lại thế giới của mình.
Tuy nói cũng là của mình, nhưng vẫn phải phân ra tôn ti chủ thứ với nhau. Nhưng lúc này Mệnh Hồn còn chưa hóa hình ra, mà theo thực tế thì Mệnh Hồn vẫn đang ngủ say trong thức hải, các suy nghĩ cùng dục niệm của Lệnh Hồ hiện giờ chỉ là một phần thần thức nhỏ của Mệnh Hồn mà thôi. Cho nên, tuy hắn cùng với Thích Bồ Đề và Đạo Huyền xưng hô đạo hữu với nhau, nhưng cấp bậc linh hồn còn chưa ngang hàng với nhau, nên vẫn phải tuân theo lễ số.
Đồng thời, lúc này Lệnh Hồ đã hiểu là Thiên Địa hai hồn đã làm gì ở Đan Bích sơn để cho thiên địa thần vật ánh trăng luôn hiền hòa thánh khiết nổi giận như vậy rồi.
Chính là do Thiên Địa hai hồn lấy đi linh mạch vạn vật của ngọn Đan Bích sơn, mà dải linh mạch đó lại là một linh mạch do chính thiên địa thần vật ánh trăng cẩn thận sắp đặt ở Đan Bích sơn.
Thiên Địa hai hồn cũng không biết vì sao thiên địa thần vật ánh trăng lại sắp đặt một linh mạch ở lại Đan Bích sơn, nhưng hai người bọn họ lại có thể cảm nhận được bên trong linh mạch ở Đan Bích sơn ẩn chứa một tia quy tắc của vạn vật, có oai của tạo hóa!
Thiên Địa hai hồn tự nhiên sẽ không bỏ qua bảo vật vô thượng như thế, nên đã xảo diệu đánh cắp linh mạch vạn vật ở Đan Bích sơn bỏ vào trong tinh thần thức hải.
Tuy bề ngoài vạn vật ở Đan Bích sơn không có biến hóa gì, nhưng vì linh mạch đã mất, qua đó thần vật cũng mất đi, ở Đan Bích sơn lúc bấy giờ chỉ còn lại cái xác không thôi.
Bao nhiên tâm huyết khổ tâm của thiên địa thần vật ánh trăng trong nháy mắt bị người khác cướp đi, tự nhiên nổi giận không thôi. Mà Thiên Địa hai hồn cũng quá tinh ranh đi, ngay lúc đắc thủ đã trốn về trong tinh thần thức hải, làm cho ánh trăng không thể nào tìm được.
Còn vạn vật sinh linh Đan Bích sơn trong tinh thần thức hải Lệnh Hồ chính là vạn vật sinh linh thật, chứ không phải là vạn vật sinh linh do thần thức Thiên Địa hai hồn đản sinh ra nữa.
Mặc dù, những vạn vật sinh linh trong Đan Bích sơn lúc này chỉ là linh mạch, không hề có thân thể. Nhưng ở bên trong tinh thần thức hải, thì bọn họ là chân thật. Bọn họ có thể tuân theo quy tắc của tạo hóa ở thế giới bên ngoài, ngày càng sinh sôi nảy nở hơn. Thậm chí, nếu như có cơ duyên thì bọn họ còn có thể được thông suốt linh trí, ngộ được chân đạo.
Cho nên, có thể nói sau khi Thiên Địa hai hồn cướp đi linh mạch có ẩn chứa quy tắc tạo hóa của Đan Bích sơn kia, đã diễn hóa tinh thần thức hải của Lệnh Hồ thành một thế giới sinh linh chân chính.
Mà thế giới này lại do Lệnh Hồ sử dụng.
Tỷ như Linh Tuệ phách tu luyện Chúng Sinh đạo thần thông, tuy có đến ba nghìn đệ tử, người nghe vô số, nhưng những đệ tử cùng những người nghe đạo này chỉ là do thần thức Thiên Địa nhị hồn biến thành mà thôi, không phải là sinh linh chân chính của thế giới. Cho nên, những đạo của vạn vật do Linh Tuệ phách tập hợp lại cho tới nay chỉ là tập hợp đạo của Thiên Địa hai hồn mà thôi, không thể nào làm cho Chúng Sinh đạo thần thông viên mãn được.
Mà hiện tại, tinh thần thức hải đã có sinh linh chân chính rồi, những sinh linh này cũng có tuệ căn tạo hóa của riêng mình. Chỉ cần làm cho chúng nó mở linh trí ra, là có thể giúp chúng nó có linh trí tạo hóa chân chính, chính thức đi tìm đạo của chính mình. Qua đó làm cho thế giới viên mãn hơn!
Vào lúc âm thanh truyền đạo của Linh Tuệ phách vang đội cả tinh thần thức hải, tám sinh linh đã được ánh trăng mở linh trí ra lập tức bị Chúng Sinh đạo thần thông hấp dẫn, bỗng nhiên có điều ngộ ra. Sau đó, nhanh chóng tìm đến phương hướng truyền đạo của Linh Tuệ phách.
Cảm giác được sự biến hóa của tinh thần thức hải, Lệnh Hồ vô cùng vui mừng. Đồng thời, hắn cũng hiểu được một điều: cơ duyên phải do chính mình giành lấy, chỉ có tranh giành mới có thể có được; nếu như không tranh giành thì cơ duyên sẽ bị người khác giành đi ngay.
Thậm chí, cơ duyên còn có thể có được từ tay của thiên địa thần vật nữa.
Sau một phen nổi giận tàn sát bừa bãi của ánh trăng màu đỏ, không hề có tu sĩ hay yêu tu, cũng như yêu thú dám đưa thần niệm ra ngoài nữa. Cho đến khi trời dần sáng lên, ánh trăng màu đỏ bất đắc dĩ lui đi mới khiến cho trời đất trở về bình thường.
*****
Lệnh Hồ lúc này đang ngự kiếm bay đi, nhưng sắc mặt hơi có chút trầm trọng. Tu vi của Lệnh Hồ hôm nay đã đạt đến Kết Đan hậu kỳ, mặc dù Lệnh Hồ vẫn luôn áp chế nhưng tu vi vẫn ngày càng lớn mạnh lên, đã từ Kết Đan trung kỳ đi đến Kết Đan hậu kỳ rồi.
Lệnh Hồ không muốn tu vi của mình tăng lên quá nhanh, bởi vì một khi Lệnh Hồ tiến vào Kết Đan đại viên mãn, thì hắn bắt buộc phải kết Anh. Nhưng điều này sẽ làm trái với những kế hoạch hắn dành cho Mệnh Hồn hóa hình ra, đây là một việc vô cùng khó khăn.
Nhưng Lệnh Hồ bây giờ đã là Kết Đan hậu kỳ rồi, kế hoạch rèn luyện thân thể mới chỉ hoàn thành được Hỏa tuyệt, Kim tuyệt chi địa còn chưa tìm được, chứ đừng nói chi đến Thổ tuyệt, Thủy tuyệt, cùng Mộc tuyệt rồi.
Tuy nói việc tu luyện phải tùy vào cơ duyên, không thể quá cưỡng cầu được. Nhưng thật sự bây giờ Lệnh Hồ có chút gấp gáp rồi.
Lệnh Hồ tuyệt đối không muốn kết Anh trước khi kế hoạch rèn luyện thân thể được tiến hành xong, bởi vì hắn còn muốn nhờ linh lực thuần khiết khổng lồ để tiến hành giai đoạn rèn luyện thân thể cuối cùng nữa.
Giờ phút này, Lệnh Hồ đang ngự kiếm phi hành khắp Thanh Thành sơn mạch, với hi vọng có thể kiếm thấy Ngũ tuyệt chi địa.
Nếu như Thanh Thành không có Ngũ tuyệt chi địa, thì Lệnh Hồ sẽ lập tức rời khỏi Thanh Thành sơn mạch, tiếp tục đi thăm dò nơi khác.
Trong khoảng thời gian này, bởi vì Độ Hư chiếm lấy nguyên thể vật chí linh, nhưng đến nay vẫn chưa hiện tung tích. Nên đã làm cho các tu sĩ cao giai tụ tập ở phái Thanh Thành rất đông, không khí luôn ở trạng thái hết sức căng thẳng.
Tuy phái Thanh Thành là một trong mười đại môn phái ở Hoa Nam châu, nhưng đối mặt với nhiều áp lực như vậy, cũng không hề dám cậy mạnh mà còn thanh minh với cả Tu Tiên giới: nguyên trưởng lão tông môn phái Thanh Thành phẩm hạnh không ngay thẳng, nay trục xuất khỏi phái Thanh Thành. Sau này, Độ Hư không còn liên quan gì đến phái Thanh Thành nữa, sẽ bị đệ tử chấp pháp phái Thanh Thành lùng bắt trong trăm năm. Nếu như bắt được, sẽ giết không tha!
Lời thanh minh này đã làm rõ quan hệ giữa Độ Hư cùng phái Thanh Thành, làm giảm áp lực cho phái Thanh Thành rất nhiều.
Mà các tu sĩ cao giai sau khi nghe vậy cũng hiểu được Độ Hư chưa từng trở về phái Thanh Thành. Dù sao, người tu tiên coi trọng nhất là mặt mũi của mình, nên khi phái Thanh Thành đã tuyên bố như vậy, thì Độ Hư đúng là không còn ở phái Thanh Thành nữa.
Nếu phái Thanh Thành đã trục xuất Độ Hư ra khỏi tông môn, thì các môn phái tu tiên không gây áp lực với phái Thanh Thành nữa. Tuy chúng tu sĩ tụ tập ở phái Thanh Thành có chút không cam lòng, nhưng chỉ đành bất đắc dĩ rời đi.
-----------------------
(1)chân ngã: Theo thuyết phật giáo thì đây được xem là một khái niệm về sự chân lý, là sự thật tối hậu của tất cả hiện tượng.
(2) Bồ Đề: Bồ-đề (zh. 菩提, sa., pi. bodhi) là danh từ dịch âm từ bodhi tiếng Phạn, dịch nghĩa là Tỉnh thức, Giác ngộ (zh. 覺悟). Trong thời Phật giáo nguyên thuỷ, Bồ-đề là từ chỉ trạng thái chứng được bốn cấp Thánh đạo (sa. āryamārga) bằng cách hành trì 37 Bồ-đề phần và diệt trừ Vô minh, thông suốt được Tứ diệu đế.
Trong Tiểu thừa (sa. hīnayāna), Bồ-đề là chứng được Tứ diệu đế, thoát khổ. Ở đây người ta phân biệt ba giai đoạn: tu và chứng quả Thanh văn thừa (sa. śrāvakayāna), tu và chứng quả Độc giác Phật (sa. pratyekabuddha) và cuối cùng là đạt quả vị Tam-miệu-tam-phật-đà (sa. samyaksaṃbuddha), là quả vị Phật vô thượng, đạt Nhất thiết trí (sa. sarvajñatā), có khi gọi là Đại bồ-đề (sa., pi. mahābodhi).
Trong Đại thừa, Bồ-đề được hiểu là trí huệ nhận ra rằng không có sự sai khác giữa Niết-bàn (sa. nirvāṇa) và Luân hồi (sa. saṃsāra), giữa khách thể và chủ thể. Bồ-đề là chứng được trí Bát-nhã (sa. prajñā), nhận ra Phật tính của chính mình hay của muôn loài, nhận ra tính Không của thế gian, nhận biết "sự thật như nó là" (chân như).
Đại thừa phân biệt ra ba loại Bồ-đề: giác ngộ cho chính mình (giác ngộ của một vị A-la-hán), giải thoát cho chúng sinh (giác ngộ của một vị Bồ Tát) và giác ngộ hoàn toàn của một vị Phật. Trong quan điểm này, mỗi trường phái Đại thừa lại có một cách giải thích khác nhau.
(3) Ý ở đây nói tới “Đạo” và “Quả”.
(5) Buồn sầu mà không rơi lệ, hiểu được nhưng không nói ra, cười to nhưng không có tiếng. Lúc chưa sinh ra thì ta là ai? Lúc sinh ra rồi thì ta là ai? Trưởng thành chính trực là ta, nhưng lúc nhắm mắt qua đời lại là ai.