Máy bay B-17 chỉ còn lại một động cơ coi như hoạt động được, kéo theo sau là làn khói đen kịt mà cách xa cả dặm cũng có thể nhìn thấy. Hội chim cánh cụt cùng với mấy phi công thường trực ở trong phòng chờ đều chạy ra ngoài nhìn theo, đứng rải rác ở trước cửa nhà chứa máy bay. Trong tầm mắt của họ, chiếc máy bay ném bom xiêu xiêu vẹo vẹo phía trên bầu trời dần hạ thấp độ cao, chuẩn bị cho lần hạ cánh đầu tiên. Tuy vậy, góc độ và tốc độ của B-17 đều không chuẩn, phải tiếp tục bay lên, sượt qua nhà chứa máy bay một cách nguy hiểm, vòng lại đầy khó khăn, lần nữa tiếp cận đường băng mà không có bộ phận hạ cánh. Cuối cùng, nó trượt khỏi đường băng, nặng nề đáp xuống bãi cỏ và quét về phía trước với những tia lửa và bùn đất văng tung tóe, cánh phải cắt một vết sẹo dài hơn mười mét trên mặt cỏ rồi gãy làm đôi. Chiếc máy bay ném bom B-17 với cái bụng khổng lồ nằm đó, giống như một con đại bàng đầu trắng¹ vừa trúng đạn chì.
Cửa cabin mở ra, một làn khói bốc lên. Chuck, Jody và Leo vừa bò ra ngoài thì ngay lập tức đã được đưa đến bệnh viện. Sau khi các nhân viên y tế báo cáo rằng tình trạng của họ đã ổn định trở lại, đồng phạm của Chuck liền bị nhốt trong ký túc, còn hắn bị đưa tới văn phòng của Đại úy Milston, nghe khen một câu, ăn mắng nửa giờ. Ban đầu Chuck còn phản bác vài câu, nhưng rồi hắn ngừng nói và cúi gằm mặt xuống. Louis ngồi bên chiếc bàn đằng xa xa trong góc, chẳng nói câu nào, cũng chẳng nhìn Chuck, dưới ánh sáng của ngọn đèn lặng im ghi chép như thể không có gì quan trọng bằng nhật ký bay.
Với tư cách là "đồng phạm", Jody và Leo đều bị cảnh cáo; còn Chuck chốt lại bị phạt biệt giam ba ngày trong căn phòng nhỏ đằng sau kho dụng cụ trong nhà chứa máy bay, một nơi không có cửa sổ, chỉ có độc một chiếc bóng đèn bẩn thỉu treo trên mái. Tấm ván gỗ đặt trên hai chồng gạch vừa để làm giường vừa làm ghế dài. Bồn cầu ở trong góc, bên cạnh bồn rửa tay nhỏ, không có gương. Mọi ngóc ngách nơi đây đều bốc mùi ẩm mốc và mồ hôi ố lại cũ kỹ. Chuck nổi cơn tam bành mấy tiếng đồng hồ, đá mạnh hết cỡ vào cánh cửa đã khóa chặt kia để gây ra tiếng ồn vang dội nhất. Chẳng một lời đáp trả nào, thậm chí còn chẳng một mệnh lệnh nào yêu cầu hắn dừng lại. Chuck tức tối ngồi lên tấm ván, nhìn những tia nắng xuyên qua các khe nứt trên cửa sắt dần tàn.
Một ngày ba lần, thức ăn được đặt trên chiếc khay sắt lồi lõm rồi nhét vào trong qua khe hở nhỏ dưới cửa sắt như tù nhân. Chuck đập cửa và yêu cầu được nói chuyện với Đại uý, nhưng người bên ngoài kia lần nào cũng phớt lờ hắn.
Trong không gian nhỏ hẹp ấy, thời gian trôi chậm vô cùng. Chuck nằm bất động trên tấm ván, lặng nghe những thanh âm mơ hồ ngoài kia. Chốn này làm hắn nhớ tới căn hầm cũ ở Oklahoma với mùi ẩm mốc y hệt, với mấy phụ kiện máy kéo đã rỉ sét chất đống trong góc, với cái cào cỏ, cái bao cát không dùng đến và một cái kệ đầy những can xăng cùng với một hộp đinh, bên trong có cả thảy có chín mươi sáu chiếc đinh – Chuck đã đếm vô cùng tỉ mỉ. Sau đám cháy ở nông trường kế bên, Chuck bị ông bô đập cho một trận rồi nhốt vào trong hầm, nghĩ lại chỉ thấy tức, hắn đâu có ác ý gì? Hắn chỉ muốn nướng con gà hắn trộm được, ai mà biết cỏ khô lại dễ cháy vậy? Chuck bị nhốt dưới hầm rượu hai mươi tư tiếng không ăn không uống, lúc mẹ thả hắn ra thì hắn đã sốt nặng, hai ngày tiếp theo đều nằm bẹp dí trên giường.
Chuck quay người bò dậy, đi lại vài vòng. Trên tường có những vết gạch như kí hiệu nguyên thủy người thượng cổ dùng để đếm thời gian, bên cạnh còn khắc vài từ đơn xiêu vẹo. Chuck chẳng hiểu từ nào, nên hắn đoán đây là tiếng Đức. Nơi này hẳn là một nhà tù thật, dùng giam giữ phi công Đức Quốc xã bị bắt sau khi nhảy dù xuống, và hẳn là họ cũng thầm chửi mắng đám người Anh trong lòng hệt như Chuck.
Buổi tối ngày thứ ba, khi hắn đang thắc mắc sao mà bữa tối tới muộn hơn thường lệ thì bên ngoài có tiếng chìa khóa lạch cạch, tiếng vặn khóa vang lên, cửa sắt mở ra.
"Buổi tối tốt lành." Louis nói, cứ như Chuck không phải bị nhốt lại, mà là đang chuẩn bị tham dự một bữa tiệc cocktail.
"Không được tốt lắm đâu."
Louis mỉm cười như thể đã đoán trước được thái độ của hắn từ lâu: "Đứng dậy nào, Trung sĩ, tôi mời anh một ly."
Họ lái xe đến quán bar, Chuck ủ rũ co người trên ghế phụ, Louis tập trung quan sát con đường đất trước mặt, không ai nói lời nào. Cửa kính xe mở toang, gió lùa vào mang theo mùi cỏ cây mát rượi, làm tóc Louis rối tung. Chuck vuốt vuốt bộ râu lún phún ba ngày chưa cạo, nhìn về phía cánh đồng bát ngát đang dần nhuộm sắc xanh tươi tốt. Mùa xuân sắp nhường chỗ cho mùa hạ, ngày dài ra, cho nên khi xe dừng lại trước quán, bầu trời vẫn sáng màu đỏ tía yên ả. Louis đóng cửa xe và bước đến quán bar của sĩ quan, nhưng Chuck đã ngăn anh lại.
"Anh từng vào quán bên này chưa?"
Louis liếc sang quán bar đối diện bên đường rồi lắc đầu.
"Chưa bao giờ luôn?"
"Nó không phù hợp."
Chuck nhún vai: "Sao mà không hợp?"
Louis do dự một hồi mà chẳng thể nói ra tại sao. Chuck vòng qua chiếc xe tới trước mặt anh: "Đêm nay chúng ta sang bên đó đi."
"Đó là chỗ của hội chim cánh cụt."
"Có văn bản nào quy định phi công không được phép bước vào sao?"
"Không, nhưng-"
Chuck nắm lấy cổ tay Louis, kéo anh sang con phố bên kia. Khi hai người vừa bước vào, mọi tiếng cười nói trong quán bar ngừng lại như thể có ai đó đột nhiên vặn nút chỉnh âm lượng xuống mức nhỏ nhất. Nhân viên mặt đất ở mọi nơi trong quán – từ quầy bar, bàn nhỏ tới bàn bi-a đều ngẩng đầu lên nhìn chằm chằm vào bọn họ. Phải mất gần một phút sau đó họ mới nhìn sang chỗ khác, tiếng nói cười lại xôn xao. Hai phi công tìm thấy một chiếc bàn trống gần cửa sổ với chiếc gạt tàn đầy thuốc thuộc về vị khách trước đó. Tay bồi bàn hỏi họ muốn dùng gì, như thể cậu ta chẳng hề thấy những cái cốc bẩn trên bàn.
"Hai bia đen." Chuck đáp, lúc tay phục vụ rời đi mới quay sang nhìn Louis, "Tin tôi đi, bia đen ở nơi này tuyệt hơn ở bên kia nhiều."
"Có vẻ như anh thường xuyên tới nơi này đấy nhỉ."
"Không thường xuyên lắm, lúc này lúc kia thôi." Tay bồi bàn mang bia tới, Chuck gạt mấy cái cốc bẩn nọ sang một bên rồi đặt một cốc bia trước mặt Louis, "Thử xem."
Đối phương nhấp một ngụm, liếc nhìn Chuck rồi nhấp ngụm thứ hai. Một tràng cười vang lên, theo sau là những tiếng hét phấn khích từ góc bàn bi-a, có ai đó đã bắn bi số 8 màu đen vào trúng lỗ². Bồi bàn lại mang tới một đĩa khoai tây chiên rắc muối, Chuck nói rằng cậu ta nhầm rồi, bọn họ không gọi đồ ăn.
"Bên kia tặng cho các anh." Tay bồi bàn chỉ về phía chiếc bàn ở tiệm ăn kế bên, một thợ máy nâng ly với Chuck, Chuck cũng giơ ngón cái lên cảm ơn anh ta.
"Cứ như đang đưa anh lên làm anh hùng." Louis bình luận.
"Tôi không phải à?"
"Cuộc mạo hiểm của anh vô cùng anh dũng."
"Cảm ơn."
"Cũng vô cùng ngu xuẩn."
"Nghe này, tôi không cần biết ông anh Đại uý Milston bảo thủ-"
"Đại uý vốn dĩ không tính phạt giam anh, đó là ý của tôi."
Chuck trợn trừng mắt nhìn Louis: "Nhưng tôi-"
"Tôi biết, anh đã cho nổ tung căn cứ tàu ngầm, cứu được vô số tàu thuyền và hạm đội của quân Đồng minh, đại loại như vậy, nhưng đó không phải là lý do để hành động liều lĩnh và chống lại mệnh lệnh. Lần này anh chỉ gặp may thôi – không, Trung sĩ, hãy để tôi nói cho xong đã – lần này anh chỉ gặp may thôi, lần sau thì sao? Ấy là còn chưa kể tới việc anh kéo đồng đội mình xuống nước cùng, điều mà một chỉ huy tốt sẽ không bao giờ làm." Louis ngưng lại một lúc, nhìn thẳng vào Chuck như thể đang quan sát xem cục đá nho nhỏ mình vừa thảy xuống có khiến mặt nước gợn sóng không, "Charles, đây không phải là trò chơi cao bồi dành cho một người."
"Nhưng chiến tranh chính là một cuộc mạo hiểm."
"Một cuộc mạo hiểm đã được tính toán kỹ lưỡng, đúng, không phải nhiệm vụ liều chết kiểu này."
Chuck không đáp lại ngay lập tức, hắn nhìn chằm chằm vào cốc bia đen một lúc lâu, sau đó mới hắng giọng: "Triết lý nhân sinh của chính anh à?"
"Nói vậy cũng không sai."
"Tất cả đều là do anh tự nghĩ ra à?"
"Một nửa học được từ cha mình, nửa còn lại học được khi va vấp trong đời."
"Anh biết ông bô tôi dạy tôi cái gì không?"
"Cái gì?"
"Trồng cây thuốc lá và đánh nhau, lão chỉ dạy tôi hai thứ này."
"Cũng rất hữu ích mà."
Chuck phát ra một âm thanh nghe như tiếng ho lẫn tiếng giễu cợt, rồi lại nhấp một ngụm bia. Bầu trời ngoài kia tối dần, bóng người trên cửa kính càng lúc càng rõ nét, cuối cùng tấm kính tựa như một tấm gương đen phản chiếu ánh đèn trong quán bar cùng với gương mặt của hai phi công. Ánh mắt họ chạm nhau trong tấm kính, để rồi nhanh chóng rời đi.
"Mới nãy anh gọi tôi là Charles đấy à?"
"Đó là tên của anh, không phải sao, Trung sĩ?"
"Vậy tôi có thể gọi anh là Louis không?"
"Anh thì chỉ có thể gọi tôi là chỉ huy."
"Anh làm tôi nhớ về mục sư Davis, lão ấy phụ trách Trường Chúa Nhật³, có lẽ lão là người nhàm chán nhất trên thế giới, chỉ sau anh." Bọt bia dính lên râu hắn, Chuck lấy tay quệt quệt chúng, "Phiền ghê đó, tôi phải cạo nó đi."
"Khó mà tưởng tượng nổi cảnh anh đi học Trường Chúa Nhật."
"Chuẩn đấy, mục sư Davis cũng không thể tưởng tượng nổi đâu. Hồi đầu lão ấy còn tức tối báo phụ huynh mấy vụ trốn học nên tôi mới dùng ná cao su bắn vào đầu lão, giống như mấy tay bắn tỉa ấy, trốn trên cây hoặc núp trong bụi rậm, lão có nghi ngờ cũng chẳng bao giờ bắt được tôi."
"Anh nói nghe có vẻ tự hào ghê gớm."
"Vô cùng tự hào, thưa chỉ huy."
Louis lắc đầu, còn hơi muốn đảo mắt nhưng cuối cùng vẫn kìm lại, uống một ngụm bia, cẩn thận nhấc tay lên để tay áo không chạm vào mặt bàn đầy dầu mỡ. Cách đó không xa, có năm sáu tay thợ máy xúm lại chơi xúc xắc, cười cợt chế nhạo và mắng mỏ nhau. Trần nhà đã thấp còn dập nổi, nén những tiếng vang, thế là toàn bộ quán bar tựa như một cái hang nhỏ ấm áp đầy khói dưới lòng đất.
"Anh thấy bên này khác gì bên kia?"
"Chẳng khác gì mấy." Louis nghiêng đầu, cân nhắc trả lời Chuck: "Điểm này làm tôi khá ngạc nhiên."
"Anh xem, một cuộc mạo hiểm nho nhỏ cũng không tệ lắm, nhỉ."
Hai người uống bia xong, lúc vẫy bồi bàn thanh toán thì mới được cho hay tiền bia của bọn họ đã có người trả rồi, mà không biết là bàn nào trả. Hai vị phi công nọ đành rời quán bar, đi bộ ra xe.
"Có thể để tôi lái xe không?"
"Trước kia anh từng lái xe à?"
"Thưa chỉ huy, công việc của tôi chính là lái một chiếc máy bay ném bom có sức chứa ngang với năm mươi chiếc xe này."
"Anh còn chưa trả lời câu hỏi của tôi đâu."
Chuck sờ sờ cằm: "Từng lái xe tải của ông bô rơi xuống mương, nhưng đó chỉ là tai nạn nhỏ thôi."
Tay Louis đút vào túi quần, anh đánh giá gã Trung sĩ rồi thở dài, cuối cùng mới miễn cưỡng gật đầu. Chuck nở nụ cười với cái cằm lún phún râu, ngồi vào ghế lái. Chiếc xe màu lam sẫm chậm rãi quay đầu, sau đó đột ngột tăng tốc, giống như một con bò rừng Bison Châu Mỹ⁴ hoảng loạn, lao về phía bãi đất hoang giờ đây đã bị bao phủ bởi ánh hoàng hôn.
–
Chú thích của người dịch (Translator's Note):
1. Gốc: 白头雕, tiếng Việt: Đại bàng đầu trắng hay đại bàng hói, là linh vật của nước Mỹ.
2. Gốc: "有人把黑球打进球袋里了", dịch nghĩa: "Có ai đó đã bắn bi số 8 màu đen vào trúng lỗ" Theo luật chơi bi-a, cơ thủ nào đánh hết số bi trong nhóm bi của mình và đưa bi số 8 cuối cùng vào lỗ trước thì sẽ chiến thắng.
3. Gốc: 主日学, tiếng Việt: Trường Chúa Nhật. Là tên gọi lúc ban đầu của các loại hình giáo dục tôn giáo tổ chức vào ngày Chúa nhật (thường là vào buổi sáng) bởi các giáo phái thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo.
4. Gốc: 美洲野牛, tiếng Việt: Bò rừng Bison Châu Mỹ, Danh pháp hai phần: Bison Bison. Phân biệt với Bò rừng Châu Âu, Danh pháp hai phần: Bison Bonasus. Là loài có kích thước lớn nhất trong các họ trâu bò, nặng tới một tấn hoặc hơn. Chúng mang ngoại hình của những gã điên khổng lồ sinh sống trên đất liền ở Bắc Mỹ và châu Âu.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT