Hai người men theo luồng ánh sáng, những đốm bạc đằng sau họ trải dài thành một con đường, nhìn từ xa nom tựa một dải lụa mỏng manh.
Tô Hạc Đình xoay đèn, cây đèn càng soi thêm nhiều đốm bạc. Đối với họ thì ánh sáng ấy vô dụng, nhưng đối với những đốm bạc thì lại như hương an thần khiến chúng ngừng hoảng loạn, song chỉ có mỗi một cây đèn thì quả tình chẳng khác nào hạt muối bỏ bể. Đang trầm mặc, Tô Hạc Đình bỗng nghe thấy tiếng gõ mõ láng máng vọng lại từ đâu đó.
“Cốc, cốc, cốc!”
Âm thanh ấy trốn trong trận cuồng phong rú rít làm ta nghe không rõ, tưởng chừng là ảo giác. Tạ Chẩm Thư dừng bước, ngôi sao chữ Thập đong đưa trong gió, anh tập trung nhìn đằng trước nhưng không nghe ra được vị trí cụ thể của tiếng mõ ấy.
Tô Hạc Đình bỗng gọi khẽ: “Này.”
Những đốm bạc thình lình bay tứ tán đi khắp chung quanh, Tô Hạc Đình với tay ra mà không bắt lại được. Cây đèn tắt ngấm, chỉ trong chớp mắt cả hai đã bị bóng tối phủ lấp.
“Cốc, cốc, cốc!”
Tiếng gõ mò tới gần họ, cây đèn trong ngực Tô Hạc Đình khẽ lóe lên như sắp xảy ra chuyện gì đó. Cậu cật lực bảo vệ ánh sáng ấy, khắp trong tai đều là tiếng mõ. Tiếng gõ ấy rất quái đản, lọt vào tai rồi nó càng lúc càng kêu, ngỡ như đang gõ hẳn vào tâm hồn.
Tạ Chẩm Thư vững vàng không manh động vì tiếng gõ mõ ấy, song những đốm bạc bay tứ tán lại bắt đầu đụng toán loạn vào nhau theo tiếng mõ.
Tô Hạc Đình hỏi: “Chỉ huy, cho em mượn bật lửa của anh với.”
Tạ Chẩm Thư: “Ừm.”
Tô Hạc Đình mò mẫm hai ngón tay móc ra chiếc bật lửa trong túi áo Tạ Chẩm Thư. Nghe “cách” một tiếng, ánh lửa bùng lên từ chiếc bật lửa, run rẩy trong gió như chực tắt bất cứ lúc nào.
Tô Hạc Đình bảo những đốm bạc: “Dậy mau, lửa sắp đốt tới đít rồi kìa!”
Cậu xoay chiếc bật lửa trong tay một vòng, ánh lửa lan xuống đốt tới ngọn đèn. Ngọn đèn lập tức bừng sáng, ánh lửa màu xanh lam bùng lên rọi sáng khắp chung quanh. Trong thoáng chốc, thảy các đốm bạc đều rối rít kêu rền rĩ, không xô vào nhau mà cũng không nghe theo tiếng mõ điều khiển nữa, chúng tụ lại tránh ra sau lưng Tạ Chẩm Thư.
Tô Hạc Đình cười mắng: “Bọn mày còn biết tránh cơ đấy.”
Đúng lúc ấy, gần đó bỗng bừng sáng hai chiếc đèn lồng đỏ. Hai chiếc đèn lồng ấy có bộ khung rất kỳ lạ, phủ một lớp lụa, chúng lẳng lặng treo thẳng đứng giữa tiếng mõ, không hề bị cơn cuồng phong tác động.
Tô Hạc Đình chưa từng chứng kiến sức mạnh này, cũng không hiểu kiểu đèn lồng ấy có gì đặc biệt, song trong tình thế quái dị thế này, chắc chắn đối phương không hề mang thiện ý tới. Cậu nhét chiếc bật lửa vào lại túi Tạ Chẩm Thư, bảo: “Cẩn thận, Hephaestus sắp giở trò rồi đấy.”
Tạ Chẩm Thư nói: “Trông quen.”
Tô Hạc Đình: “Cái gì trông quen cơ?”
Tạ Chẩm Thư khẽ đảo mắt nhìn về đằng sau hai chiếc đèn lồng đỏ, đáp: “Hai cái đèn lồng này dùng để kiểm soát thế trận khi nghênh đón thần linh.”
Anh từng bắt gặp chúng trong sách của Thiên Tứ giáo, loại đèn lồng đỏ lớn với hai đầu vểnh, bốn chân bằng, một trái một phải này là đạo cụ trong nghi lễ đón thần của Thiên Tứ giáo giai đoạn đầu. Người ta đồn rằng sâu trong vùng đất liền ở liên minh phía Nam, vẫn còn vài vị thần người thường không biết đang say ngủ.
Tô Hạc Đình nghĩ ra ngay: “Các vị thần ở phương Nam đều được làm từ máy móc, lẽ nào đây là Chúc—”
Nói tới đó, gió bỗng quất lên càng dữ dội khiến bảng biển trên các tòa nhà hai bên vỡ banh chành. Tiếng mõ vang dồn dập “cốp cốp cốp” đinh tai nhức óc.
Tạ Chẩm Thư biết Tô Hạc Đình định bảo Chúc Âm, chính anh cũng nghĩ là Chúc Âm, bởi lẽ cho đến giờ, vị thần đi ra từ trong truyền thuyết của phía Nam cũng chỉ có thần núi Chúc Âm mà thôi. Song gió lớn quá nên nhất thời họ không đáp lại được lời nhau, chỉ nghe thấy tiếng đồ đạc đổ vỡ chung quanh, tất thảy đều bị gió quất bắn vào tường.
“Giới nghiêm—”
Một giọng nói điện tử chói tai xuyên thủng bóng tối, tiếng “lọc cọc” vang lên, sâu hun hút đằng sau hai chiếc đèn lồng đỏ, một luồng ánh sáng chói mắt vọt ra.
Luồng ánh sáng ấy lao vù vù như tên bắn, chỉ trong một câu nói ấy của Tô Hạc Đình đã chạy tới nơi. Lúc bấy giờ Tạ Chẩm Thư mới nhìn rõ luồng ánh sáng ấy là một con ngựa, nó không phải một con ngựa bình thường mà là một con ngựa cao khoảng ba mét. Chỉ thấy toàn thân nó trắng xóa, bờm đỏ sẫm, đường cơ bắp trên lưng lúc nó chạy uyển chuyển tới lạ thường. Cặp mắt nó vàng rực rỡ như đèn, lúc tung vó chạy trông nó rất đỗi tráng lệ phi phàm.
“Chư vị hãy nghe ta nói đây,” một con người máy thái giám vặn vẹo ngồi trên lưng con tuấn mã, đương loay hoay đỡ chiếc mũ yên đôn trên đầu, cao giọng kêu, “ta nói, qua—”
Tiếng “Qua” ấy chóe tai như kim châm màng nhĩ, gạt bóng tối như một chiếc loa phóng thanh văng vẳng không ngừng.
“Qua.
“Qua—”
Tới khi tiếng “Qua” vang cùng khắp toàn vùng thì con người máy thái giám cũng chỉnh xong chiếc mũ yên đôn (1) của mình. Nó giơ hai tay lên rồi lại chậm rãi bưng ngang trước ngực, ngẩng đầu nhìn với dáng vẻ sắp nghênh vua vào triều. Nó hắng họng một cái, rồi nhả ra từng chữ mồn một: “Thần ma đi lại, người phàm nhường đường!”
Tô Hạc Đình: “Cái quái gì đây?”
Một loạt đèn lồng đỏ sáng lên thành hai hàng soi rọi phía trước. Ở nơi ấy có một ngôi chùa khổng lồ, đỉnh vàng ngói phỉ thúy, tráng lệ huy hoàng tựa một chiếc dùi vàng cắm giữa bầy cao ốc hiện đại. Vì cửa chùa mở toang nên hai người đều nhìn thấy được pho tượng Phật bên trong. Pho tượng Phật ấy được xây bắt chước theo kiểu dáng của tượng phật khổng lồ, có điều mặt mày nó u sầu hơn, giữa ngón tay nó nhón một cây đinh ba bằng thép, phía trên cây đinh ba là một mặt trăng lưỡi liềm rèn từ thép.
Tô Hạc Đình nhận ra ngay mặt trăng ấy biểu trưng cho Artemis, bèn bảo: “Haephaestus này, mày bớt nhỏ mọn đi, Nữ thần Săn bắn bị bọn mày phanh thây xé xác rồi mà mày còn muốn tra tấn nó trong thế giới tưởng tượng của mày à.”
Con người máy thái giám “Hừ” một tiếng nặng nề, phất tay áo, dùng giọng điện tử vỡ của nó nói: “To gan, đừng có cắt lời ta!”
Tô Hạc Đình: “Tao đâu có cắt lời mày, chính mày tự dừng lại mà.”
Con người máy thái giám: “Ta nói—”
Tô Hạc Đình: “Tao biết rồi, qua qua qua.”
Bị cậu cắt lời, họng con người máy thái giám khè ra lửa, nó ngồi trên lưng ngựa cáu tới nỗi xì khói. Nó kéo lệch cả chiếc mũ yên đôn, đang định nổi cơn lôi đình chửi Tô Hạc Đình thì lại thấy lớp áo choàng ngoài in hoa cúc (2) trên người mình ánh lên ánh sáng màu lục u ám, nó vội vàng phất tay áo hô: “Giờ giới nghiêm không được phép ra ngoài, giờ giới nghiêm không được phép làm ồn, giờ giới nghiêm không được phép cản đường!”
Hô xong ba câu giờ giới nghiêm ấy, lớp áo choàng hoa cúc của con người máy thái giám đã xanh lè. Tô Hạc Đình đang toan kích động nó thêm thì trên đỉnh đầu lại bắt đầu đổ mưa. Thoạt tiên vệt mưa chỉ lây rây như cọng lông trâu, nhưng chẳng mấy chốc đã chuyển thành mưa rào xối xả khiến hai người không kịp trở tay.
Tô Hạc Đình bọc ngọn đèn lại, bảo con người máy thái giám: “Ê, mày giở trò gì đấy?”
Đèn lồng đỏ hai bên càng sáng rực, con người máy thái giám không tiếp lời Tô Hạc Đình mà thúc ngựa tránh đường.
Tạ Chẩm Thư ngửa mặt, mặc cho hạt mưa bắn lên mặt, anh chỉ nhìn chăm chăm vào pho tượng Phật trong chùa.
Tô Hạc Đình bèn hỏi: “Anh thấy có gì xảy ra không?”
Tạ Chẩm Thư đáp: “Nó vừa cử động.”
Tô Hạc Đình: “Tay động hay chân động?”
Tạ Chẩm Thư giơ tay chỉ vào đầu tượng: “Đầu động.”
Tô Hạc Đình đứng hình nhìn lại pho tượng Phật trong chùa, đầu nó quả thực đã xoay sang hướng khác. Ban đầu mặt nó hướng thẳng về phía họ, nhưng lúc này lại nghiêng mặt về phía họ. Không chỉ vậy, vẻ mặt u ám của nó cũng đã thay đổi, biến thành một gương mặt trái ngược một nửa mỉm cười, một nửa lạnh lùng.
“Chúng ta sẽ dùng biện pháp hòa bình để giải quyết, không dùng tới chiến tranh nữa…”
Tiếng loa phát thanh “rẹt rẹt” vọng tới, mưa hãy đang đổ, nhưng chung quanh lại ngát một hương thơm thanh mát có thể khiến ta chìm vào giấc ngủ an yên, dường như có ánh đèn diệu vợi—
“Tôi và liên minh phía Nam sắp bắt đầu một mối hợp tác sâu sắc, còn về khu Đình Trệ, tôi đề nghị… tất cả mọi người hãy chung vui… Mỗi người đều có thể an toàn tiến vào một thời đại mới… Đúng thế, tôi chắc chắn sẽ không còn ca tử vong nào nữa…”
Màn hình khổng lồ bật sáng choang giữa quảng trường, trên ấy là một chuyên gia đang bàn luận về tương lai của liên minh Nam Bắc, mưa vỗ xuống ô tạo ra những âm thanh hỗn tạp.
Ô ư?
Ô ở đâu ra?
Tạ Chẩm Thư nhìn xuống thì phát hiện mình đang ngồi trên một băng ghế ven đường, trong tay ngoài cầm ô còn xách một chiếc cặp táp màu đen. Dường như anh chỉ vừa mới chợp mắt ít lâu, không nhớ gì lắm, tất thảy đều mông lung.
Bên băng ghế có rất đông người đang đứng, tất cả đều đang chờ xe, trong đó có một người đàn ông với gương mặt mơ hồ cũng đang che ô bảo Tạ Chẩm Thư: “Chuyến cuối nửa tiếng nữa mới tới nơi cơ, Chỉ huy, đi làm tách cà phê không?”
Tạ Chẩm Thư giơ tay day nhẹ trán. Hồi lâu sau anh đáp: “Tôi không uống.”
Anh không thích cà phê, anh thích—
Anh thích gì?
Người đàn ông nọ khó xử gãi đầu: “Xin lỗi, tôi quên mất là anh đang chờ người.”
Tạ Chẩm Thư đưa mắt lên, lặp lại: “Tôi đang chờ người ư?”
Người đàn ông bảo: “Ngày nào anh cũng chờ cậu ấy mà.”
Tạ Chẩm Thư không đáp, lại qua hồi lâu anh mới nói: “Ừ.”
Quả thực ngày nào anh cũng chờ ai đó.
Mưa khiến mặt đất ẩm ướt, ống quần của người đi đường qua lại cũng bị bắn bẩn, vũng nước tản ra những rung động hỗn độn.
Tạ Chẩm Thư nhìn lớp kính bến xe, bóng anh in trên ấy, Âu phục giày da. Tuy mặt mũi lạnh như tiền mà anh lại cầm một chiếc ô hoa trắng đế lam.
Người đàn ông thấy Tạ Chẩm Thư đang soi chiếc ô, mới cười: “Anh thích cái ô bạn đời của anh tặng nhỉ.”
Tạ Chẩm Thư: “Gì của tôi cơ?”
Người nọ đáp: “Bạn đời của anh, tôi gọi như vậy được không? Lần trước cậu ấy vào đội bọn tôi…”
Tạ Chẩm Thư cắn lưỡi, bốn chữ “bạn đời của anh” lăn một vòng rồi lại một vòng nữa trong ngực anh, nóng bỏng tới nỗi yết hầu anh khẽ động, anh hơi khát.
Anh kết hôn rồi.
Tạ Chẩm Thư lật tay lên, quả nhiên anh nhìn thấy ngón giữa mình đeo một chiếc nhẫn, bên trên khắc mấy ngôi sao đen siêu nhỏ tạo thành hình một chú mèo đơn giản.
Người đàn ông nọ luôn mồm kể chuyện công tác, thỉnh thoảng Tạ Chẩm Thư sẽ “Ừm” tiếng, ánh mắt không hề rời chiếc nhẫn trên tay.
Cái ô này rất dễ thương, chiếc nhẫn này cũng rất dễ thương, qua đó có thể suy ra, người kết hôn với anh cũng là người dễ thương nhất quả đất.
Người đàn ông nọ đương nói đến chuyện xây sân tập huấn thì Tạ Chẩm Thư thình lình hỏi: “Tôi kết hôn được bao lâu rồi nhỉ?”
Người nọ đáp: “Tôi nhớ hình như là hai năm.”
Tạ Chẩm Thư: “Ừm.”
Người đàn ông nhìn ra một đầu khác, nói: “Xe tới rồi này.”
Xe buýt đã tới bến, mọi người lên xe theo thứ tự. Tạ Chẩm Thư đứng dậy chờ dưới ô một hồi. Trên xe không có tài xế, người đi đường ai nấy đều đã ngồi vào chỗ của mình, người đàn ông nọ nhìn đồng hồ vài lần rồi bảo: “Sắp đến giờ rồi, Chỉ huy, có khi bạn đời của anh về nhà trước rồi cũng nên. Chẳng phải lần trước cậu ấy cũng bảo rồi đó sao? Nếu chờ mà cậu ấy không tới…”
Xe buýt bấm còi hai lần giục những người chưa lên xe mau khẩn trương. Tạ Chẩm Thư đứng cuối hàng, đằng sau bỗng có ai đó phi như bay tới.
“Ê!” ai đó gọi Chỉ huy.
Nghe thấy, Tạ Chẩm Thư quay ngoắt lại, trông thấy đối phương nhanh nhẹn một cách lạ thường, cậu bay thẳng qua băng ghế, nhón chân giẫm một cái lao vào lòng mình. Anh lập tức đưa tay kéo cậu lên rồi bước hai bước lên xe, vừa lúc cửa xe đóng “xịch—”.
Người người chen chúc trên xe, một tay Tạ Chẩm Thư nắm tay vịn, nhìn người trong ngực mình thò đầu lên.
Tô Hạc Đình mắc mưa nên tóc ướt nhẹp. Cậu kéo cao khóa áo, không nắm tay vịn mà lại bấu lấy Tạ Chẩm Thư, bảo: “Nguy hiểm quá nguy hiểm quá, tí thì lạc tiêu mất anh, sao ở đây cũng mưa thế này, quần áo em ướt sũng cả rồi.”
Tạ Chẩm Thư lẳng lặng nhìn cậu.
Cảm nhận được ánh nhìn chăm chú của Chỉ huy, Tô Hạc Đình bèn kéo áo khoác Âu phục của Tạ Chẩm Thư, ngửa người xích lại gần nhìn thẳng vào mắt anh, bảo: “Nghe thấy em nói gì không? Chỉ huy, anh vẫn ổn chứ? Vừa rồi tượng Phật—”
Sóng người trong xe dồn hai người chấp chới, Tạ Chẩm Thư đứng vững lại, không nghe rõ lời của Tô Hạc Đình, bèn cúi đầu hỏi ngược lại: “Tượng Phật nào?”
Tô Hạc Đình: “Bức tượng Phật mà thái giám vừa mới đưa tới ấy.”
Tạ Chẩm Thư: “Thái giám?”
Trước ánh mắt khó hiểu của Chỉ huy, Tô Hạc Đình điếng người, cậu khẽ khàng: “Ơ này… Anh không thể…”
Đúng lúc ấy có người đi qua đẩy bọn họ sang một bên. Tạ Chẩm Thư lại giơ tay ôm Tô Hạc Đình không để người ta đụng phải. Tuy hơi lạ song anh nghĩ Tô Hạc Đình tin Phật.
Tô Hạc Đình đối mặt với Tạ Chẩm Thư một hồi lâu, chẳng biết nghĩ tới gì mà lại thoáng biến sắc, thu hết sự khách sáo vừa rồi lại, ánh mắt toát lên một vẻ tinh quái. Khóe môi khẽ cong lên, cậu bảo: “Em hiểu rồi, anh… Ừm, mình đang đi đâu ấy nhỉ?”
Tạ Chẩm Thư đáp thản nhiên: “Về nhà.”
Tô Hạc Đình: “Ồ, tụi mình có nhà rồi sao, được đấy được đấy, anh sống cạnh nhà em à?”
Đúng lúc ấy xe đỗ lại, có người xuống xe. Tạ Chẩm Thư buông tay vịn ra, ấp lòng bàn tay lên trán Tô Hạc Đình.
Tô Hạc Đình khó hiểu: “Anh làm gì thế?”
Tạ Chẩm Thư: “Đo thân nhiệt.”
Tô Hạc Đình: “Hở?”
Tạ Chẩm Thư nhìn cậu chăm chú, giọng nhàn nhạt: “Em quên rồi, tôi không sống cạnh nhà em, tôi sống chung nhà với em mà.”
Tô Hạc Đình chưa tiếp nhận nổi, cúi đầu ho khù khụ một trận. Cũng may mà cậu phản ứng lại rất nhanh: “Còn có chuyện đẹp như vậy cơ á? Khụ, khụ! Em là gì của anh vậy?”
Tạ Chẩm Thư: “Bạn đời.”
Tô Hạc Đình ho xong lại ngẩng mặt lên, gương mặt ửng hồng, chẳng biết là vì ho hay vì nghẹn, nói chung trên gương mặt khả ái ấy đang mang một vẻ vô cùng hưng phấn như gặp chuyện gì vui lắm. Cậu trịnh trọng gật đầu: “Đúng rồi nhỉ, mình cưới nhau rồi cơ mà. Anh đứng đây chờ em về nhà cùng hằng ngày đó sao?”
Tạ Chẩm Thư: “Ừm, hằng ngày.”
Dáng vẻ hỏi gì đáp nấy của anh khiến Tô Hạc Đình bật cười, xe lại đi tiếp, hành khách đã vợi hẳn, rõ ràng họ không cần chen chúc nữa mà cánh tay đang ôm Tô Hạc Đình của Tạ Chẩm Thư lại chẳng mảy may xê dịch.
Lúc tới bến thì trời đã sẩm tối, Tô Hạc Đình nhảy xuống xe, giơ tay che mưa. Tạ Chẩm Thư một tay xách cặp một tay che ô cho cậu. Hai người sóng vai cất bước, Tô Hạc Đình thấy dãy đèn đường trước mặt trải dài sâu tít tắp, bảo: “Chỉ huy, cảnh cáo anh trước nhé, em không biết nấu cơm đâu, em chỉ biết nấu mì thôi.”
Cái ô rất bé, cánh tay xách cặp của Tạ Chẩm Thư dầm trong mưa. Anh đáp: “Tôi biết.”
Tô Hạc Đình: “Muốn em nấu mì gói cho anh ăn không? Ngon lắm đó.”
Tạ Chẩm Thư: “Muốn.”
Tô Hạc Đình bỗng đưa tay chỉnh thẳng lại chiếc ô, bảo: “Cơm đã ăn chung thì mưa cũng phải dầm chung chứ, không còn làm bạn đời làm gì?”
Nói tới đó, cậu cười, bỗng chuyển chủ đề: “Trước khi cưới em từng bảo rồi nhỉ? Chẳng nhớ nữa. Ôi, sao nhà tụi mình xa thế, hôm nào mua xe đi đỡ đi bộ, em lái xe hơi bị lụa đấy…”
Cậu lược bớt chuyện mình lái xe làm người khác nôn, càng nói càng hứng chí. Lát sau cậu hỏi: “Sao lại bơ em?”
Tạ Chẩm Thư: “Đang nghĩ chuyện.”
Tô Hạc Đình tò mò: “Nghĩ chuyện gì ấy?”
Cán ô nằm trong lòng bàn tay, dường như mưa đã vãn. Lát sau, Chỉ huy thở nhẹ, nói như đầu hàng: “Nghĩ cách để dắt em.”
Từ lúc xuống xe tới giờ anh chỉ lăn tăn mỗi chuyện này, kể cũng lạ đời, bọn họ đã kết hôn rồi, anh đã nắm tay cậu biết bao lần rồi, nhưng chẳng hiểu sao dường như anh cứ nhất thiết phải dắt Tô Hạc Đình mới xong.
Tô Hạc Đình bèn bảo: “Dễ mà.”
Cậu kéo chiếc ô qua rồi đan ngón tay vào tay Tạ Chẩm Thư. Mưa lọt vào mà cậu chẳng hề để tâm. Tới khi cả hai đến trước cửa nhà thì chiếc ô đã vô tác dụng, ai nấy đều ướt rượt.
Căn nhà nằm trong một khu biệt thự, nó là một căn một tầng nằm ở vị trí đẹp, bên ngoài có hàng rào sắt bao quanh với rất nhiều hoa hồng leo, tạo thành một tường hoa thấp sum sê kiều diễm. Tô Hạc Đình ngắm sân, bên trong là một vườn hoa được chăm sóc kỳ khu, dãy trước trồng hoa tulip sặc sỡ muôn màu.
Tạ Chẩm Thư đẩy cánh cổng rào sắt ra dẫn Tô Hạc Đình vào trong. Họ băng qua khu vườn hoa nhỏ, vào đến nhà, hành lang ra vào xếp gọn gàng hai cặp dép. Chỉ huy lấy một chiếc khăn lông sạch lau tóc cho Tô Hạc Đình đang ngồi thay giày, dường như Tô Hạc Đình sững người, mãi không động đậy bên dưới chiếc khăn lông.
Trong nhà thanh tĩnh, chỉ có tiếng mưa rơi bên ngoài. Tạ Chẩm Thư lau một chặp rồi bảo: “Em lên tầng đi, anh đi đun nước.”
Tô Hạc Đình: “Cái nhà này… cũng giống thế.”
Cậu nói lúng búng, lại còn qua lớp khăn nên Tạ Chẩm Thư chỉ nghe mang máng.
Chỉ huy lau đến gáy Tô Hạc Đình, hỏi: “Em bảo giống nhà cũ hả? Ừm, cũng na ná căn ấy, vườn hoa nhỏ hơn một chút, hai đứa mình còn dễ chăm.”
Giọng Tạ Chẩm Thư không thay đổi, động tác tay cũng rất nhẹ nhàng: “… Ừm.”
Tô Hạc Đình bỗng giơ tay bật thốt một câu kỳ cục: “Cướp che mặt đây, nhà mi đã bị ta bao vây rồi, đưa tay chịu trói đi!”
Dứt lời, cậu ôm chầm lấy eo Tạ Chẩm Thư rồi vùi mặt vào ngực Tạ Chẩm Thư cọ thật mạnh một trận. Chiếc khăn lau đầu tuột xuống vắt lên vai cậu. Tạ Chẩm Thư cởi áo choàng, cà vạt bị Mèo cọ lệch hẳn đi, mảng áo đang khô cũng ướt tất.
Tô Hạc Đình: “Này.”
Tạ Chẩm Thư hãy đang nhìn đỉnh đầu cậu, nghe thấy cậu gọi mình, anh “Ừ” tiếng, khẽ hỏi: “Sao? Tôi chịu trói rồi.”
Tô Hạc Đình ngước mắt, chóp mũi và cằm vẫn vùi trong ngực Chỉ huy, cậu chỉ dùng cặp mắt đen láy linh lợi ấy nhìn Tạ Chẩm Thư chăm chú. Trong nhà chưa bật đèn, mưa bắn lên cửa sổ thành những vằn nước giàn giụa, dường như cơ thể Tạ Chẩm Thư có thể bao trọn ấy lậu, cậu trốn trong bóng tối, ánh mắt ngây thơ tới lạ.
Trước khi lên xe Tạ Chẩm Thư không hiểu sao mình lại khát, mà giờ đây anh chừng như không tài nào khống chế nổi những suy nghĩ đen tối nẩy lên trong đầu mình. Anh kéo bỏ khăn ra chiều hững hờ, định dời sự chú ý của mình đi.
—Nhưng mà đây là Tô Hạc Đình.
Đầu ngón tay Chỉ huy đụng vào đuôi tóc Tô Hạc Đình, vừa mềm vừa xinh đẹp, lại còn ươn ướt.
Mà đúng lúc ấy Tô Hạc Đình lại hỏi: “Anh ngủ chung phòng với em không?”
Tính cậu vừa tùy hứng lại vừa ranh mãnh, chóp mũi cọ vào cúc áo sơ mi của Tạ Chẩm Thư, hơi thở khẽ nóng bỏng tựa một chú mèo dạy mãi không nên thân, cứ níu lấy dục vọng vây quanh Tạ Chẩm Thư.
Thấy Tạ Chẩm Thư không đáp, Tô Hạc Đình bèn bảo: “Khoan, lẽ nào em vẫn đang ngủ sô pha—”
Tạ Chẩm Thư quyết định làm gì đó, anh buông rơi chiếc khăn, rồi đưa tay giữ yên gáy Tô Hạc Đình hôn xuống môi Mèo. Những đuôi tóc vừa mềm mại vừa yêu kiều ấy đang nằm trong lòng bàn tay anh, năm ngón tay anh khẽ dang ra mạnh mẽ xoa loạn chúng.
Mưa rơi tí tách, lọn tóc ước chọc vào mắt khiến Tô Hạc Đình khẽ nheo lại, thở hổn hển giữa những nụ hôn dồn dập, bất tri bất giác cậu đã bị đè xuống sàn nhà từ bao giờ.
Choang—
Tay Tạ Chẩm Thư xô đổ bình hoa, hoa hồng vãi ra sàn, nước trong suốt chảy ra. Nước chảy vào cổ áo Tô Hạc Đình lạnh buốt khiến cậu hít vào, kéo cà vạt của Chỉ huy, ngửa cổ cầu xin: “Sh, lạnh quá, không, đau quá, sao lại cắn em, Tạ Chẩm Thư.”
Tạ Chẩm Thư gạt bình hoa ra, chặn lại tất cả ánh sáng. Anh nay thành thục hơn ngày xưa nhiều lắm, biết tiến hành tuần tự từng bước, trước tiên hôn lên khóe mắt Tô Hạc Đình, sau đó dùng đốt ngón tay hếch cằm Tô Hạc Đình lên, mơn man theo đường cong nuột nà ấy như đang làm một lễ thờ phụng nguy hiểm.
Khóa áo Tô Hạc Đình mở một nửa, chiếc áo phông sắp bị xắn lên, cậu vội vàng kêu dừng: “Ngủ chung, em biết tụi mình ngủ chung rồi! Tạ Chẩm Thư, đừng cắn nữa!”
Tạ Chẩm Thư chống mình dậy, bị cậu ôm chầm lấy bằng cả tứ chi.
Hương hoa hồng thoang thoảng trong phòng, Tô Hạc Đình khẽ nghiến răng bậu mặt Chỉ huy lại, hỏi: “Sao cứ cắn em hoài vậy? Lần nào, lần nào anh cũng như thế hả?”
Tạ Chẩm Thư “Ừ” tiếng, giữ lưng Tô Hạc Đình rồi bế bổng cậu lên từ dưới sàn. Tô Hạc Đình tức thì bám cheo leo trên người anh như một con gấu túi, vì cổ áo phông thùng thình nên Tạ Chẩm Thư nhìn được rõ những vết cắn trên mặt, trên cổ Tô Hạc Đình.
Một tay Tô Hạc Đình bưng bít cổ, sắc đỏ trên mặt lan tràn lên tai. Cậu biến sắc mấy lần, líu ríu lên án: “Đáng ghét, anh hồi trước… Có phải anh, anh lén luyện tập không? Mặt còn không đỏ này.”
Tạ Chẩm Thư cũng chẳng biết, đôi khi lại gần Tô Hạc Đình anh sẽ mất khống chế. Anh muốn hôn mà lòng anh lại luôn có một cơn cuồng loạn, mỗi khi hôn Tô Hạc Đình thì dục vọng sẽ khuếch đại, bất kiểm soát.
Anh kết hôn rồi mà cũng như vậy ư?
Tạ Chẩm Thư rót một cốc nước lạnh, bỏ thêm mấy viên đá. Anh lắc chiếc cốc, ngần ngừ giây lát, trước khi uống anh bảo: “… Xin lỗi em.”
Tô Hạc Đình: “Em không chấp nhận!”
Tạ Chẩm Thư: “Ừm?”
Tô Hạc Đình bấu miệng ly kéo lại gần, nói nhanh: “Anh hôn lại đi, không được cắn em, em đếm đấy.”
Tạ Chẩm Thư dừng lại, đặt Tô Hạc Đình lên bàn. Anh chống bàn nhìn Tô Hạc Đình chằm chặp, nghiêm túc bảo: “Vậy hôn một cái nhé?”
Hai ngón tay Tô Hạc Đình dựng lên một chữ X, bảo: “Thứ nhất, không được phép cắn em.”
Tạ Chẩm Thư: “Ừ, được.”
Tô Hạc Đình: “Thứ hai, không được phép… mà thôi, em chưa nghĩ ra, anh cứ hôn trước đi.”
Đây là cái kiểu phạt gì vậy.
Tạ Chẩm Thư chắp tay lại hôn lên chóp mũi Tô Hạc Đình. Hôn ở đây cũng như hôn lên khóe mắt, đều dịu dàng và âu yếm. Rồi anh hôn Tô Hạc Đình, chỉ thoáng qua.
Trong bóng tối, anh hỏi: “Như vậy à?”
Họ cách nhau quá gần, gần tới nỗi có thể nghe thấy hơi thở của nhau.
Tô Hạc Đình nói: “Lần sau phải nhớ nha.”
Tạ Chẩm Thư định ừ, nhưng anh lại hơi dừng lại, nói: “… Anh không đảm bảo được đâu.”
Anh lặng lẽ ngắm Tô Hạc Đình, cái gì của Tô Hạc Đình anh cũng yêu được, anh quả thực không thể đảm bảo, mà có lẽ anh cũng không muốn đảm bảo. Anh hy vọng có thể gần gũi với Tô Hạc Đình, dù là hôn hay là làm gì.
Hồi lâu sau, Tạ Chẩm Thư bảo: “Tôi không nhớ tôi đã cầu hôn em thế nào, cũng không nhớ mình đã lấy nhau thế nào nữa. Xin lỗi em, thế này lạ quá… Ngay cả lúc hôn tôi cũng nhớ em.”
Anh rất quen thuộc tất thảy của căn nhà này, từ lúc vào cửa, chừng như tất cả các động tác đã được chuẩn bị sẵn từ trong đầu vô số lần, dù nhắm mắt lại cũng biết tiếp theo nên cất bước đi đâu, nhưng lồng ngực luôn có chút trống rỗng, những tưởng chỉ kéo theo Tô Hạc Đình theo mới có thể lấp đầy.
Tô Hạc Đình nghiêng đầu hôn Tạ Chẩm Thư. Nụ hôn lần này khác hẳn nụ hôn trước ấy, vừa non trẻ vừa vụng về, tựa hồ ngàn vạn lời chất chứa đều tan vào trong đó. Mưa hãy đang rơi, hương hoa hồng khiến ta chìm đắm, trong chớp mắt ấy, Tạ Chẩm Thư được ôm lấy.
“… Thần Ma… đi lại…”
Trong tiếng mưa có tiếng tụng của một chất giọng điện tử, âm thanh ấy dần dần lấn át tiếng mưa, vang lên sắc nét bên tai Tạ Chẩm Thư.
“… Người phàm… nhường đường…”
Những hạt mưa như hạt đậu vỗ vào mặt hóa thành bọt nước, chỉ còn Tô Hạc Đình vẫn đang ôm Chỉ huy. Nhưng cậu đã lấy ra chiếc bật lửa, mượn ánh lửa màu xanh lam từ chiếc đèn con xua đi bóng tối đang trào tới.
“Cộc, cộc, cộc!”
Tô Hạc Đình: “Gõ gõ gõ, nhức hết cả đầu!”
Cậu vung thật mạnh tay, ngọn lửa màu xanh lam lan thành một vòng quanh hai người, cháy bùng dữ dội. Tạ Chẩm Thư mở mắt ra, xuyên qua những đốm bạc bay tứ tán, anh thấy pho tượng Phật đã tới gần trong gang tấc.
Tượng Phật không còn cầm cây đinh ba thép nữa mà một tay nó rõ ràng đang ôm đàn, tay kia cầm sáo, vẻ mặt mâu thuẫn không còn mà chỉ còn bên gương mặt cười. Tiếng gõ mõ cũng đã biến thành tiếng đàn tính tang, kết hợp với một mùi hương không thể truy ra nguồn gốc, khiến cho bức tượng Phật trong mưa mang một dáng vẻ biến ảo.
Tô Hạc Đình gọi: “Tạ Chẩm Thư, tỉnh dậy đi!”
Pho tượng Phật đã trút bỏ màu đen, toàn thân nó dần biển đối. Nó giẫm lên không trung, cung đàn bắn lên. Tiếng đàn nhiễu loạn dồn dập khiến thế giới trước mắt Tạ Chẩm Thư đan xen nhau, chốc là Khu số 14, lát lại là ảo mộng, một hồi lại là thế giới thực.
Con ngươi Tạ Chẩm Thư bỗng bùng lên phẫn nộ, ngôi sao chữ Thập khẽ xoay chuyển, những mảnh hình thoi tức thì trỗi dậy như sóng triều.
Bị lừa rồi!
Bóng đen khổng lồ hất một tay cầm đao, vung thật mạnh về phía tượng Phật.
“Vù—”
Mưa bắn tóe tung, ảo ảnh của tượng Phật trong chớp mắt bị chém phăng nửa người. Thân trên của nó trượt xuống rơi xuống đất, quẫy động cuồng phong.
Miệng con người máy thái giám va “canh cách”, nó vừa kích động vừa ghen tị, chất giọng điện tử ré lên the thé: “Đồ tốt, đồ tốt, quả nhiên hắn mang theo đồ tốt!”
Pho tượng Phật đã tàn mất một nửa, ánh điện “rẹt” vọt ra trong mưa. Một bóng người lùn tẹt lẩy bẩy nhào ra từ trong bóng tối, gào lên trước mặt tượng Phật, bất chấp bao tải khổng lồ trên lưng mà vung hai tay một lớn một nhỏ, tạo ra một cơ thể tạm thời cho tượng Phật.
Tô Hạc Đình nhặt hòn đá lên ném vào gáy bóng hình lùn tẹt ấy, kêu: “Ngạo Nhân!”
Ngạo Nhân ngoái lại mà không hề ngừng động tác trên tay. Nó còn yếu ớt hom hem hơn cả Ngạo Nhân ngoài đời thật, có lẽ vì vẫn chưa được lắp ráp hoàn chỉnh, chưa nói tới đầu lệch, thậm chí chân cũng bên dài bên ngắn. Thấy ánh lửa màu xanh lam sắp đốt tới mình, nó liền gào toáng lên nhét hết những bộ phận then chốt của pho tượng Phật vào trong bao rồi lập cập lao đi.
Người máy thái giám nghiêm giọng: “To gan! Đấy là con chip của Càn Thát Bà (3)! Không được cho phép thì không được dụng vào!”
Ngạo Nhân cũng cuống vắt chân lên cổ, nào để ý cha thái giám lải nhải gì, quay đi quay lại nó đã mất hút như một cơn gió.
Thấy đã cùng đường cứu vãn, con người máy thái giám toan phi ngựa tháo chạy. Nhưng chưa chạy được bao lâu đã bị bóng đen khổng lồ xách cổ áo nện tới tấp xuống đất. Nó vừa mong manh vừa không có cơ chế phòng ngự, mới bị đập một phát đã đầu lìa thân nát, linh kiện phụ tùng bắn vương vãi đầy đất.
Hai bên đèn lồng đỏ liền tắt phụt, ngôi chùa cũng biến mất. Khung cảnh khắp chung quanh hoang tàn đổ nát, may vẫn còn mấy tấm biển quảng cáo đang phát sáng nên bốn bề không tới nỗi tối om như mực.
Tô Hạc Đình tần ngần một hồi, chọc chọc lưng Tạ Chẩm Thư rồi ló đầu ra, hỏi khẽ: “Anh vẫn ổn chứ? Ui trời, bị lừa là chuyện thường tình mà, đừng giận. Pho tượng Phật này khả năng cao là Hephaestus chế ra từ con chip của Ngạo Nhân rồi, em thấy con thái giám gọi nó là Bà Bà gì ấy… Sao vậy!”
Tạ Chẩm Thư nắm chặt cổ tay Tô Hạc Đình, đảo mắt găm ánh nhìn vào cậu, hỏi: “Vừa rồi em cũng ở đây, phải không?”
Tô Hạc Đình nói ngay: “Không có, em không ở đây.”
Tác giả có lời muốn nói:
(1) Loại mũ mà quan lớn trong nội giám được đeo.
(2) Một loại áo choàng ngoài của thái giám, tên gốc là “盖面”, bên trên thêu hoa văn tương ứng theo mùa.
(3) Càn Thát Bà (Gandharva): Một vị thần không ăn rượu ăn thịt mà chỉ hít mùi hương để bồi bổ, trên người tỏa ra hương thơm, trong tiếng Phạn có nghĩa “biến hóa khôn lường”.
(3) -1: Lúc hiện hình thường mang theo một ngôi chùa và sẽ ngụy trang thành hình dạng tượng Phật trước. Khi đánh đàn nó có thể phá nhiễu liên kết ý thức, tạo ra hương thơm dụ dỗ con người vào ảo ảnh. Bị hệ thống Chủ thần tác động, được coi là kẻ thù của Artemis nên vỏ bọc thường dùng của nó hay cầm theo một cây đinh ba thép. Lúc chán sẽ luẩn quẩn trong rừng rú hoặc ở những nơi không có người, tạo thành một ban nhạc ngẫu hứng với đầu bay Liêu Tử, nhảy múa trong đêm mưa. — “Ký lục kinh dị Chuẩn Điểm Thư Kích”
(3) -2: Lấy cảm hứng từ Ấn Độ giáo.
Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT