Địa thế hai bờ cầu Nhiên Xuân rất cao, cầu dài uốn cong, nhấp nhô ba vồng, là cầu hình vòm cao nhất to nhất trong chín cầu ở Ly đô, nối tiếp hai bờ sông là lầu son gác tía và hai mảnh rừng mai trên sườn núi. Cầu hình vòm nhảy ra từ trong biển mây đỏ tươi, ở dưới ánh mặt trời êm dịu của mùa xuân năm nay, lắc nhẹ ống tay áo, bước chậm rãi lên mười bậc trên cầu, lúc ngẩng đầu lên, chỉ thấy trên đỉnh màu xanh của cầu là sắc trời xanh thẳm vô ngần, quả là cảnh sắc “Cầu dài nối nhau tận trời biếc”.

Phủ của Khương Phóng ở ngay gần đường đường Bỉnh Hoàn đại lộ Minh Đường, mỗi ngày vào cung làm nhiệm vụ, nếu không có việc gấp thì sẽ không cưỡi ngựa mà toàn từ cầu Nhiên Xuân bộ hành sang sông. Đương tiết xuân đi tới đỉnh cầu của vòm đầu tiên bèn dựa vào lan can nhìn ngắm cảnh hoa đỏ như lửa ở bờ nam, bao nhiêu phiền não đều tan trong hương hoa.

“Ja, ja.” Bên kia cầu đột nhiên ầm ầm tiếng roi ngựa, tiếp theo là tiếng bánh xe lộc cộc. Vòm cầu này quá dốc nên có rất ít người đi xe. Khương Phóng hiếu kỳ, bèn đi xuống quan sát, chỉ thấy một thớt ngựa giỏi yên cương sáng loáng kéo chiếc xe tả tơi, phía sau là bốn năm thanh niên thân hình vạm vỡ không ngừng xoa mồ hôi trên đầu gắng sức đẩy xe lên cầu, khó khăn lắm mới lên được đỉnh cầu. Khương Phóng không khỏi xoay người lại nhìn kỹ chiếc xe. Một người trẻ tuổi nằm trên xe, đang đắp cái chăn bông, sắc mặt trắng bệch, cau mày nhịn đau.

“Gượm đã!” Khương Phóng giật mình, tiến lên ngăn lại, “Tôi là thống lĩnh thị vệ Khương Phóng. Các anh có phải là võ cử nhân khóa năm nay không?”

Mấy người tuổi trẻ vốn đang chất đầy uất ức, bị người chặn lại giữa cầu, đang định phát cáu, chợt nghe anh ta báo họ tên thì ai nấy đều giật mình cả. Lại thấy Khương Phóng mặt mày uy nghiêm, vận phục sức tòng nhị phẩm, phía sau còn có hai gã sai vặt cường tráng cao to cầm bọc xiêm áo cho hắn và thị vệ đeo đao, trong lòng biết không phải là giả, bèn vội vàng tiến lên dập đầu.

“Võ cử nhân của phủ Trần Đàm, Hồ Động Nguyệt vấn an đại nhân.” Người thanh niên dẫn đầu mồm miệng lanh lợi, “Bọn tiểu nhân đều là võ cử nhân ở Trần Đàm khóa năm nay tới đây.”

“Đứng lên đi.” Khương Phóng gật đầu, rảo bước tới xốc chăn bông trên người thanh niên kia. Chàng trai trẻ trên xe máu me khắp người, tay trái gãy xương, bị Khương Phóng tác động vào vết thương thì rên một tiếng, đau đến mức kêu lên thành tiếng. Khương Phóng nhìn kỹ vết thương của gã, cau mày nói, “Chuyện gì thế này? Các anh không gây họa, dùng binh khí đánh nhau với người ta ở kinh thành đấy chứ?”

Hồ Động Nguyệt hô to: “Tuyệt đối không có việc này, xin đại nhân minh xét.” Đoạn trỏ vào người thanh niên bị thương trên xe rồi nói, “Tối hôm qua bọn tiểu nhân uống rượu ở ngõ Tiêu Chi, trong bữa tiệc mặc dù anh Cổ Lĩnh này nói năng mấy lời ngông cuồng vọng nhưng cả đêm đều ở trong phòng, không thấy anh ta đắc tội ai. Lúc sắp đi anh Cổ nói muốn vào phủ của ông bác Lương đại nhân của anh ta là hữu thị lang bộ Binh nên một mình cưỡi ngựa đi mất. Sáng nay Lương đại nhân sai người đến hỏi vì sao tối hôm qua không thấy anh Cổ đến, bọn tiểu nhân mới nhận thấy điềm xấu, nghĩ thầm có phải anh ta bị thứ trong tin đồn mấy hôm nay…”

“Không được nói bậy!” Khương Phóng quát gã nói, “Còn là lời đồn vu vơ, không được nói bậy giữa đường.”

Hồ Động Nguyệt rụt cổ lại, nói: “Vâng, bọn tiểu nhân chỉ đoán trong lòng, kết bầy đi ra ngoài tìm, cuối cùng ở trông thấy ngựa của Cổ Lĩnh ở bên mương sau đường Định Hoàn, người thì ở trong đống cỏ khô bên trên.”

Khương Phóng hỏi: “Ngựa vẫn còn? Túi tiền cũng còn?”

“Vâng ạ.”

“Gã có thấy đối thủ không?”

Trên xe, Cổ Lĩnh rên rỉ một tiếng, khó nhọc nói: “Tiểu nhân không nhìn thấy, thằng giặc ấy đánh lén từ phía sau…”

Khương Phóng mỉm cười: “Hắn dùng binh khí gì?”

Cổ Lĩnh yếu ớt trả lời: “Kiếm ạ, nhưng không giống lắm.”

Khương Phóng gật đầu, cười nói: “Vết thương thế của anh chỉ ở ngoài da, không có gì đáng ngại, chỉ là xương cánh tay nứt rồi, nối lại thì sẽ lành thôi. Tuy không tiện trong thi hội thật đáng tiếc, nhưng biết đạo ‘núi cao còn có núi cao hơn’ này cũng là chuyện tốt.”

Cổ Lĩnh làm nha nội quen hô mưa gọi gió ở Trần Đàm[1], nghe Khương Phóng nói lời này thì tất nhiên hết sức không cam lòng. Khổ nỗi Khương Phóng là tổng quản thị vệ hoàng cung, tuy cha mình là tham tướng đứng đầu một phương nhưng vẫn kém Khương Phóng mấy cấp, dầu mình thi hội trúng tuyển cũng phải làm quan dưới trướng Khương Phóng, chỉ đành nói: “Vâng, đại nhân dạy rất đúng.”

Khương Phóng còn phải vào cung làm nhiệm vụ nên cười nói với đám người: “Thi hội không còn xa nữa, các anh nên chữa thương thì chữa thương, nên luyện công thì luyện công, chớ có ham vui đùa, nhớ phải vươn lên.”

Mọi người vội vàng vâng dạ, ôm quyền nhìn theo anh ta qua cầu. Khương Phóng dẫn gã sai vặt đi từ cửa Thanh Long vào hoàng thành, xa xa thấy hai nội giám áo xanh một trước một sau đi vào trong cửa thì tức khắc rảo bước mấy bước, cười nói: “Ôi, đây không phải là Lục gia Tịch Tà ư?”

Chàng trai áo xanh quay đầu cười nói: “Nô tỳ thỉnh an đại nhân tổng quản.”

Khương Phóng nâng cánh tay Tịch Tà lên, nói: “Miễn lễ, miễn lễ. Đại thái biện đi đâu về thế?”

“Mới vừa ở bộ Hộ.” Tịch Tà quay đầu nói với Tiểu Thuận Tử, “Mau tới đây hành lễ với đại nhân tổng quản.”

Không chỉ có Tiểu Thuận Tử mà thị vệ trông cửa cũng đều qua đây hành lễ với Khương Phóng. Ai nấy đều đã biết Tịch Tà được hoàng đế, thái hậu thậm chí Thành Thân vương ưa thích nên đều tươi cười, không lục soát người hắn, cứ thể để hắn vào cung.

Khương Phóng đi sóng vai với Tịch Tà, cách xa mọi người rồi anh ta mới thấp giọng kể lại chuyện vừa thấy trên cầu Nhiên Xuân cho Tịch Tà nghe.

Tịch Tà nói: “Đây là người thứ chín rồi. Kẻ này không mưu hòng tiền của mà ra tay với võ cử nhân khóa năm nay, rốt cuộc lai lịch thế nào?”

“Xem từ vết thương trên người thằng nhóc vừa rồi thì võ công người này không yếu.” Khương Phóng cau mày nói, “Tuy vết thương nhiều, song đều rất nông, chứng tỏ người này ra tay thu phóng tự nhiên, rất có chừng mực, xem chừng xương cánh tay là do vũ khí cùn làm gãy, đều ở chính diện chứ không phải là đánh lén phía sau mới thành công như thằng nhãi họ Cổ đó nói.”

Tịch Tà gật đầu bảo: “Nếu người này đã dùng kiếm, có thể lấy vỏ kiếm hoặc đầu kiếm bẻ gãy xương cốt con người thì xem ra cũng sử dụng kiếm pháp nội gia. Những võ cử nhân bị thương là người thế nào?”

Khương Phóng cười nói: “Theo tôi thấy, chẳng qua võ công chỉ là loại nửa vời lại toàn kẻ tự cao tự đại, giờ vì giữ mặt mũi mà không chịu nói thật.”

Tịch Tà bảo: “Ngay cả anh cũng nói bọn họ là loại nửa vời, xem ra đúng là chẳng ra sao rồi.”

“Ha ha, võ công của gia cao hơn tôi mấy lần, nói như vậy tôi đúng là oan quá.” Khương Phóng cười vang nói rồi liếc mắt nhìn ngực Tịch Tà, “Tôi lại sợ tên gây chuyện thị phi này chính là Lôi Kỳ Phong.”

Tịch Tà thấy vẻ giễu cợt trong mắt anh ta thì tóm lấy xiêm áo ngực mà cười nói: “Nếu là y thì tốt rồi, ta đang muốn báo thù một kiếm này đây.”

Khương Phóng vội nói: “Cứ coi như tôi chưa nói gì, gia chớ hành động theo cảm tính.”

“Đây là việc của ty Ngũ thành binh mã.” Tịch Tà nói, “Bề ngoài, không chỉ ta mà ngay cả anh tạm thời không cần lo.”

“Vâng.”

“Anh vẫn cứ âm thầm tìm hiểu đi. Nếu như tên này trừ khử đối thủ cho võ cử nhân nào đó thì chỉ là mấy việc gian lận nhỏ nhặt, chỉ ra và khiển trách rồi thôi; nhưng chuyện mở thi hội khoa võ năm nay quan trọng, nếu người này rắp tâm phá hoại, không có lợi đối với chúng ta thì đến lúc đó nhất định phải diệt trừ gã.”

Trước mắt đã gần đến nội cung, Tịch Tà chia tay Khương Phóng ở cửa Hoa Đông, trở lại viện Cư Dưỡng đã thấy Như Ý đợi một lúc lâu ở trong chái nhà của Tịch Tà.

“Sao dạo này không thấy Minh Châu nữa thế?” Như Ý nhìn chung quanh, rất lấy làm lạ.

Tịch Tà cười đáp: “Em cũng chẳng biết.”

Như Ý nói: “Hay là sợ nhìn thấy hoàng thượng?”

Mặc dù vẻ mặt Tịch Tà không thay đổi nhưng ánh mắt lại né tránh: “Nàng ta thì sợ cái gì? Các tú nữ sắp được chọn vào cung rồi, hiểu biết hơn nàng nhiều.” Hắn xoay người nhận lấy chén trà từ trong tay Tiểu Thuận Tử rồi dâng cho Như Ý, hỏi, “Sao nhị sư ca lại tới đây thế?”

Như Ý than thở: “Gần đây hoàng thượng nhức đầu lắm đấy.”

Tịch Tà gật đầu bảo: “Em cũng nhìn ra.”

“Hôm qua Thành Thân vương có mặt nên hoàng thượng không có cơ hội nói với em. Hôm nay người muốn anh thông báo cho em một tiếng, bất kể ra sao cũng phải nghĩ cách để Cao Hậu sớm nhận tội, những quan trưng lương khác đều đang nhìn Cao Hậu, sợ hãi không chịu nổi một ngày, lời nói trong mật tấy đều cẩn thận lắm.”

Tịch Tà nói: “Để em nghĩ, nhưng không thể bảo đảm nhất định thành công đâu.”

“Anh chỉ truyền lời thôi.” Như Ý cười bảo, “Hoàng thượng không nói gì em đâu, nên không thành công cũng chẳng sao.”

Tịch Tà kéo Như Ý đang định sải bước ra cửa, nói: “Nhị sư ca!”

Như Ý cười to bảo: “Em đừng vội, anh em mình cả, nói vui với em thôi chứ với người khác, anh không hé một chữ đâu. Trong cung chúng ta, người dám nói chữ ‘không’ với vạn tuế gia chỉ có anh em em thôi, ngay cả người làm sư ca như anh cũng cảm thấy hết sức uy phong.” Như Ý ghé sát vào tai Tịch Tà, thấp giọng nói, “Nói đi cũng phải nói lại, sư ca có một suy tính, chỉ cần tùy tiện tìm một nguyên nhân để Minh Châu rời cung, mua một căn nhà ở kinh thành rồi em cứ ở đó thành hôn với nàng là được.”

“Xì!” Tịch Tà nghe đến cuối mới biết anh ta lấy mình làm trò cười, nghiêm khắc phỉ nhổ, “Bản thân nhị sư ca không biết xấu hổ thì thôi, còn muốn kéo anh em xuống nước.”

Mắt thấy Như Ý nghênh ngang bỏ đi trong trận cười trong trẻo, Tịch Tà bèn xoay lại lạnh lùng nói với Tiểu Thuận Tử: “Con ở bên thích chí cái gì?”

“Đâu có.” Tiểu Thuận Tử xua loạn hai tay, cúi đầu nhịn cười rồi vội vàng bỏ đi.

Đêm đầu xuân vẫn rất lạnh, đứng ở trong sân có thể cảm giác lạnh lùng dần dần thấm đến tận xương cốt. Tiểu Thuận Tử đã thổi tắt đèn, từ đỉnh nóc nhà trệt của viện Cư Dưỡng dõi mắt nhìn khắp hoàng cung, mấy con đường lớn đèn đuốc sáng trưng, đèn đóm trong cung Khánh Tường của Nghị phi cũng xán lạn, chắc hẳn lúc này người đẹp được cưng chiều hết mực một thời đó nay phòng không chiếc bóng nên khó ngủ.

“Trăng sáng sao thưa, ánh sáng đầy đất, không phải là thời điểm thích hợp xuất hành.”

Tịch Tà cười nói: “Thấy bên viện của cô đã tắt đèn, tôi còn tưởng cô đã ngủ rồi.”

Minh Châu như bước từ trên không trung tới: “Một tiếng động nhỏ của bên lục gia cũng không giấu được tôi. Gia muốn đi nơi nào vậy?”

“Đại lao bộ Hình.”

“Lần trước rời cung cũng trong mùa xuân, vội vội vàng vàng suốt một năm qua, dù sao lục gia cũng nên để tôi ra ngoài thả lỏng rồi.”

Tịch Tà cười nói: “Cũng được, cô đi thay quần áo đi.”

Minh Châu cười một tiếng: “Cứ coi là áo gấm đi đêm là xong, chẳng có gì quan trọng cả. Chỉ sợ thời gian tôi quay lại đã lạc mất lục gia.”

Tịch Tà biết rất khó lay chuyển được nàng bèn thở dài, dẫn nàng đi về hướng đông bắc. Mảng cung điện ngói biếc này là khu vực cung Thanh Tri, xưa nay nơi đây là chỗ ở của hoàng tử và công chúa chưa trưởng thành, giờ ít có người ở. Buổi tối xuyên qua vườn tùng Minh Tri hẹp dài thì bóng cây càng lay động hơn, vô cùng thê lương. Hai người xuyên qua vườn Minh Tri, xa xa truyền đến tiếng chuông lanh lảnh trên tường thành, biết thị vệ trên tường thành vừa đi qua rung chuông. Bên đông bắc có một cửa nách vứt xó không dùng, có một bóng dáng cường tráng vẫy tay với bọn họ, chính là Khương Phóng.

“Sau hai canh giờ nữa thuộc hạ sẽ tới đón chủ nhân về cung.” Tuy Khương Phóng nói với Tịch Tà nhưng lại cau mày nhìn Minh Châu chằm chằm.

“Ta biết rồi.” Tịch Tà cười nói, “Minh Châu cũng đi.”

Minh Châu nhẹ giọng cười, khẽ cúi mình: “Xin đại tổng quản lượng thứ.”

Khương Phóng thấy Minh Châu thì đau đầu, không dám nhiều lời với nàng, vội vàng khẽ mở ra một khe cửa để hai người rời cung. Tịch Tà và Minh Châu vọt nhanh ra ngoài cửa, dọc theo con đường hẻm lớn phía đông hoàng thành và cung thành, nhảy qua cửa Thanh Long ở hoàng thành mà ra.

Đại lao bộ Hình ở ngõ Xuyên Hòa đường Ẩn Hoàn, hai người lẻn vào bên trong, trước cửa đã có cai tù Đinh Vượng canh từ lâu. Gã thấy Tịch Tà mặc bào tơ đen, mặt nạ đồng đen thì lơ đễnh, nhưng lại thấy phía sau hắn còn có một thiếu nữ xinh đẹp ăn vận rực rỡ đi theo hầu bèn bật cười khanh khách: “Gần đây gia có khỏe không? Vị cô nương này là?”

“Đây là người đi theo ta ra giải sầu.” Tịch Tà nói với Minh Châu, “Cô đến nơi khác một lát đi, sau nửa canh giờ hãy về đây.”

Minh Châu biết hắn đang giải quyết việc cơ mật thì mỉm cười, tự đi chung quanh tản bộ. Lúc này ánh trăng đương độ rực rỡ, mùi hoa thơm lạt, trước mắt chợt lộ ra một mảnh trời lưu ly xanh thẳm tĩnh lặng hệt như ánh sáng trong vắt trên biển. Minh Châu đến gần hơn mới biết nơi này có điện Phật đối diện, chùa chiền sánh vai, vốn là một ngôi chùa vô cùng lớn, phía sau còn có ba tòa tháp Phật bảy tầng, từng lớp mái hiên vểnh cao xông thẳng lên ánh trăng như lông cánh chim, như chao như liệng. Minh Châu sợ khinh nhờn thần linh, không dám trèo cao nên chỉ đứng ở trên tường vây xa xa, khẽ tụng một câu: “A di đà phật, tội lỗi.” Trong lòng vừa mới thầm cầu nguyện, chợt nghe xa xa có người la to: “Không được.” tức thì dọa cho mặt nàng nóng lên.

“Không được, anh không phải là đối thủ của hắn!” Tiếng hô xa xa trong sân càng cao hơn.

Ý nghĩ lóe lên, Minh Châu vận sức nhảy vào bên trong tường, vừa lên trên tường đã nghe có người kêu lên đau lớn.

“Như vậy đã là võ cử nhân rồi à? Để cao thủ mạnh nhất kinh thành là Tịch Tà đến đây đi.” Tiếng kẻ này xán lạn như ánh mặt trời, hào sảng thoải mái khôn tả. Sau khi cười to, một cái bóng đen tung người lên trên bức tường đối diện, đi về hướng bắc. Minh Châu nghe y nhắc đến tên Tịch Tà thì không khỏi kinh hãi, chẳng màng đến mấy người trong viện, dưới tình thế cấp bách bèn xẹt qua dân, mau chóng đuổi theo.

Người phía trước cường tráng sung sức, nhưng tốc độ không bằng Minh Châu, đến gần đường Định Hoàn đại lộ Câu Trần dần bị nàng vượt qua. Minh Châu hiếu kỳ sốt ruột, đến gần hơn thì chợt thấy dường như người phía trước quay đầu lại, kinh hãi vội vàng vọt ra sau đầu hồi rồi lại ngẩng đầu thì đã không nhìn thấy bóng dáng người nọ nữa rồi.

Giờ ngọ ngày hôm sau, lúc Khương Phóng tuần tra đến cửa đông thì thấy Tịch Tà dẫn theo một thằng nhóc mà mình không biết định rời cung. Sau khi đi lên hàn huyên vài câu, Khương Phóng nói: “Chủ nhân có biết hôm nay Cao Hậu đã dâng sớ thỉnh tội lên, thú nhận không e dè tất cả tội trạng mà bộ Hình đưa ra, nói lúc ở bộ Hộ mình ăn hối lộ trái phép, của công làm mẩy túi riêng, tiền tham ô nhiều vô số kể không? Sáng nay đã có người đi tịch biên dựa theo sớ cung khai của hắn ta. Cuối cùng hoàng đế cũng thở phào nhẹ nhõm, trong lòng vẫn hơi bực hắn ta khoe tài lâu ngày, làm hoàng đế không xuống đài được. Xem ra lần này chết chắc rồi.”

Tịch Tà hỏi: “Trong nhà Cao Hậu sắp xếp xong chưa?”

“Xong rồi ạ!” Khương Phóng nói, “Đã đặt tang vật ở nhà hắn ta nhiều tháng.”

Tịch Tà cười lạnh bảo: “Năm đó người này hãm hại phụ vương ta, nay mất hết danh dự cũng là báo ứng.”

Khương Phóng nói: “Hôm nay trên đường Thượng Trị, thuộc hạ còn nghe được một tin đồn rất thú vị rằng tối hôm qua có người tận mắt trông thấy kẻ đâm bị thương võ cử nhân gần đây chính là một cô gái.”

Thằng nhóc sau lưng Tịch Tà bỗng nhiên cười phì. Khương Phóng kinh ngạc, ấy mới biết hóa ra thái giám nhỏ ấy là Minh Châu giả trang, không nhịn được nói: “Tôi biết rồi, lại là cô nương Minh Châu gây họa vào tối qua đúng không?”

Tịch Tà vội nói: “Đúng là nghe nhầm đồn bậy. Nàng chỉ nhìn thấy hung phạm nên chúng ta muốn đi tróc nã kẻ đầu sỏ đây.”

Khương Phóng vội hỏi: “Không phải chủ nhân không quản chuyện này sao?”

Tịch Tà cười nói: “Người nọ chỉ tên muốn khiêu chiến cao thủ hàng đầu kinh thành, bất kể thế nào vẫn phải nể mặt y.”

Khương Phóng không nghĩ ra, lẩm bẩm nói: “Cái gì mà cao thủ hàng đầu kinh thành? Chủ nhân chớ nhẹ dạ cả tin lời xúi giục của Minh Châu.” Lúc tỉnh táo lại ngẩng đầu nhìn thì Tịch Tà và Minh Châu đã đi xa rồi.

Tịch Tà và Minh Châu đổi quần áo bình thường, theo con đường mà Minh Châu nhớ tối qua, đi thẳng tới đường Định Hoàn đại lộ Câu Trần. Nơi đây toàn là hộ buôn bán, người đi đường qua lại như thoi đưa đều là dân chợ búa cùng khổ. Hẻm nhỏ hai bên đại lộ Câu Trần chật hẹp âm u, nhà cửa chen chúc chật chội, sân vườn nho nhỏ chẳng những phải phơi quần áo mà còn muốn nuôi gà nấu cơm, nước bẩn đã dùng qua chỉ tạt vào trong hẻm nhỏ là xong việc nên bẩn thỉu không chịu nổi. Minh Châu thích sạch sẽ, không khỏi nhíu mày, ngẩng đầu thấy nơi này một nhà cháy là vạ lây cả khu nên đều phải sửa đầu hồi cao hơn nóc nhà có tác dụng như tường cách lửa tạm thời, bèn gật đầu nói với Tịch Tà: “Chính là chỗ này, tối hôm qua tôi núp mình ở sau đầu hồi kiểu này.”

Tịch Tà trầm ngâm bảo: “Nơi đây đều là hộ gia đình, nghe giọng điệu người nọ chắc là tới từ tỉnh ngoài, tất nhiên lúc này đang ở nhà trọ.”

Minh Châu nói: “Tôi lạc mất ở chỗ này, lúc đó người kia đang ở bên ngoài hai con đường.”

“Thế thì đúng rồi.” Tịch Tà cười nói, “Phía trước có gian nhà trọ, tên là ‘Hồng Vận Lai’.”

Minh Châu ngạc nhiên hỏi: “Sao lục gia biết?”

Tịch Tà cười: “Lục gia cô tới đó đập nhau với người khác, còn suýt nữa thua ở đó đấy.”

Minh Châu thấy tay phải hắn bất giác tóm lấy quần áo trước ngực thì không khỏi cười nói: “Thì ra nơi này còn gợi lên thù mới hận cũ của Lục gia đối với Lôi Kỳ Phong, lục gia phải cẩn thận đấy.”

Suy cho cùng thì cũng là nhà trọ lớn nhất đất này, trước cửa Hồng Vận Lai là một con đường lớn thênh thang, người đi đường như dệt cửi, hai bên đường đều là người bán hàng rong, liều mạng thét to. Trước cửa Hồng Vận Lai cũng có một tiểu nhị mặt mày lanh lợi đang đứng, ân cần mời chào khách vào trong tiệm, thấy Tịch Tà và Minh Châu ăn vận hoa lệ, vẻ mặt cao quý thì vội chạy tới chắp tay hành lễ, cười nói: “Hai vị ở xa tới ạ? Nghỉ chân hay ở trọ? Tiệm nhỏ là quán trọ lớn nổi tiếng khắp kinh thành, vừa sạch sẽ vừa yên tĩnh, giá cả phải chăng, già trẻ…”

Tịch Tà vội vàng cười ngắt lời gã: “Chúng tôi ăn cơm.”

“Mời vào mời vào!” Tiểu nhị mang vẻ mặt tươi cười, “A Tam đâu, một chỗ trang nhã trên lầu cho hai khách…”

Minh Châu đi theo Tịch Tà vào tiệm, thấp giọng cười nói: “Một chỗ trang nhã?”

Quả nhiên không ngoài dự liệu, cái gọi là một chỗ trang nhã là một cái bàn vuông bẩn thỉu và bốn cái băng ghế, có điều dùng mành che ngăn cách với bên ngoài. Tịch Tà đánh giá chung quanh một lát rồi gật đầu cười nói: “Ừm, không tệ.”

A Tam vắt cái khăn tay không nhìn ra màu sắc vốn có, đi qua rót trà cho hai người: “Hai vị dùng gì ạ?”

Tịch Tà suy nghĩ rồi bảo: “Hai mặn hai chay, ba lượng bạc trắng, anh xem đó mà làm đi.”

“Vâng ạ!” A Tam chạy ra ngoài gọi món ăn, chỉ chốc lát sau đã bưng lên một đĩa thịt bò kho tương, một đĩa cá rán, còn có cải trắng xào, đậu phụ.

Tịch Tà thấy mặt Minh Châu lộ vẻ lúng túng, cầm chiếc đũa uể oải đảo trong mâm, thầm nghĩ việc này phải đánh nhanh thắng nhanh, bèn hỏi A Tam: “Tiểu nhị, tôi có chuyện muốn hỏi thăm anh.”

A Tam tỏ vẻ đề phòng, vừa muốn ra sức khước từ song khó chống lại tiếng keng êm tai như nhạc tiên khi Minh Châu ném một thỏi bạc lên bàn, đập vào chén đĩa. “Vị gia này muốn hỏi gì ạ?” A Tam không kiềm được mà nuốt nước miếng, cất bạc vào trong ngực.

“Xin hỏi có phải nhà trọ các anh có một vị khách giang hồ đeo kiếm không?”

A Tam cười bảo: “Gia hỏi đúng rồi, trong quán trọ của chúng tôi toàn là người của giang hồ cả đấy.”

Minh Châu hừ một tiếng, lại ném một thỏi bạc lên trên bàn. A Tam mặt mày rạng rỡ, mới vừa đưa tay ra liền bị Minh Châu dùng chiếc đũa gõ mạnh lên trên ngón tay một cái: “Cứ tùy ý cầm bạc thế à? Gia nhà tôi đang hỏi anh đấy.”

A Tam cười khổ nói: “Gia, bình thường kẻ đeo kiếm tới ở trọ không nhiều lắm, nhưng gần đây mở lại khoa võ, trong tiệm toàn là cử nhân tới dự thi, không nói người đeo kiếm, ngay cả người mang đao cũng phải đến hai ba chục.”

Minh Châu cười nhạt bảo: “Người thi võ đều được tuyển chọn từ đám con em dòng dõi quan lại triều đình, cái tiệm rách của các anh cũng xứng để cử nhân thi võ ở à? Anh không thành thật, vậy bắt anh đến quan phủ, tố cáo anh lừa tiền của gia nhà ta.”

“Đừng, đừng!” A Tam hoảng sợ nói, “Không nói dối vị gia này, tiệm nhỏ quả thực có hai kẻ lão luyện trong giang hồ, một người trong đó đúng là đeo kiếm. Không phải tiểu nhân không thành thật mà là hai vị gia kia hung dữ lắm…”

“Không sao.” Tịch Tà nói với vẻ mặt ôn hoà, “Chúng tôi được mời mà tới. Bọn họ ở gian nào? Giờ có ở trong tiệm không?”

“Hàng bính chữ thiên ạ, nhưng vị gia đeo kiếm kia đã ra ngoài từ sáng rồi.” Tịch Tà cười nói: “Chúng tôi ở trong phòng chờ y về. Minh Châu, tính tiền thôi.”

A Tam cầm bạc khen thưởng của Minh Châu, nói với theo bóng lưng hai người: “Hai vị cẩn thận đấy! Hai vị kia thật sự, thật sự hung dữ lắm.”

Hàng bính chữ thiên ở lầu hai Hồng Vận Lai, cửa phòng khóa chặt, trông không giống có người ở. Minh Châu và Tịch Tà nhìn nhau, đều thầm nghĩ trong phòng không có ai, thật là mất hứng. Lại nghe trong phòng có cái gì rơi bịch xuống đất, Minh Châu bước lên trước gõ cửa, còn chưa kịp lên tiếng đã nghe bên trong có người hung ác quát: “Bảo các người chớ có quấy rầy cơ mà, điếc cả rồi à?”

Minh Châu lui lại một bước, hít vào một hơi lạnh: “Lục gia, ngài không cảm thấy giọng nói này rất quen ư?”

Tịch Tà đã không nhịn được cười, thở gấp cười nói: “Không. Cô thấy đây là giọng của ai?”

“Chẳng lẽ, chẳng lẽ…” Minh Châu biến sắc, hai gò má đỏ bừng lên. Tịch Tà thấy tình thế không ổn, sợ Minh Châu lâm trận bỏ chạy bèn kéo tay nàng lại, lớn tiếng nói với bên trong: “Nếu anh Thẩm không mở cửa, chúng tôi sẽ xông vào đấy.”

Người bên trong nói: “Anh dám!”

Lời còn chưa dứt, Tịch Tà đã dùng một chưởng đánh văng khóa cửa, kéo Minh Châu bước qua cửa, đi vào trong nhìn thì không kìm được mà cười ra tiếng. Đối diện cửa có cái ghế, trên buộc chặt một thanh niên tuấn tú, chỉ tiếc người này tóc tai rối bù, không sửa sang đẹp đẽ lộng lẫy như trước. Một sợi dây nhỏ xuyên chiếc màn thầu treo từ trên xà nhà xuống, thanh niên kia đói không chịu nổi, đang há to mồm gặm màn thầu. Minh Châu trốn ra sau Tịch Tà trộm liếc mắt nhìn, cười và thấp giọng mắng: “Thẩm Phi Phi này cũng có hôm nay.” Chỉ thấy gã bị người ta giam cầm hành hạ như vậy thật là hả lòng hả dạ.

“Anh Thẩm!” Tịch Tà kinh ngạc tiến lên, “Sao anh lại bị nhốt ở chỗ này?”

Thẩm Phi Phi làm như không thấy hắn, mắt điếc tai ngơ, nhìn chằm chằm một góc quần áo rực rỡ lộ ra ngoài của Minh Châu phía sau Tịch Tà, cười híp mắt nói: “Cô nương nào vậy? Tới tìm tiểu sinh sao?”

Trong lòng Tịch Tà biết với tính nết hác sắc của Thẩm Phi Phi, cho dù mình có hỏi gã một vạn câu cũng không thể khiến gã nhìn mình lấy một cái. Chợt thấy dưới đất còn có một chiếc màn thầu lăn xuống, chắc là vừa nãy gã lỡ miệng làm rơi xuống đất, thế là hắn mỉm cười, bước đến khom lưng nhặt lên. “Anh Thẩm, màn thầu của anh rơi trên mặt đất rồi.” Vậy là Minh Châu không còn chỗ trốn, bị Thẩm Phi Phi nhìn trực diện.

“A!” Hai mắt Thẩm Phi Phi bỗng phát sáng, đã quên sạch tình cảnh quẫn bách của mình, mừng không kìm được, nói hết sức phong lưu, “Cô nương thần tiên! Cô còn nhớ tiểu sinh chăng?”

Bấy giờ Minh Châu hận Tịch Tà không thua gì Thẩm Phi Phi, thấy Tịch Tà chắp tay đứng một bên thì tức nghẹn một bụng không chỗ phát tiết, chỉ đành trút hết giận lên Thẩm Phi Phi, lạnh như băng nói: “Xin hỏi anh là ai?”

“Tiểu sinh chính là Thẩm Phi Phi đây!” Thẩm Phi Phi bất giác cựa mình một cái, suýt nữa cả người lẫn ghế ngã ngửa ra trên mặt đất, “Năm ngoái vào thời gian này, tiểu sinh tình cờ gặp gỡ cô nương, lúc ấy đã hẹn một năm sau gặp lại, cô nương không nhớ sao?”

Minh Châu trầm ngâm một lát, ngạc nhiên nói: “Không có chút ấn tượng nào cả. Lục gia, ngài nhớ có người nào như vậy không?”

Nước mắt Thẩm Phi Phi trực rơi lã chã: “Để gặp lại cô nương, tiểu sinh đã cải tà quy chính, trăm cay nghìn đắng kiếm ông thầy hay, nay học xong trở về, cô nương…”

Minh Châu nói: “Nhìn anh bị người ta nhốt nơi này đã biết anh không làm được chuyện gì tốt, còn gì mà cải tà quy chính?”

“Oan quá!” Thẩm Phi Phi vội la lên, “Tiểu sinh bị một tên ma đầu nhốt, ma đầu kia giết người như ngóe, đúng là một tên cướp…”

Minh Châu không nhịn được, cười trách mắng: “Bản thân anh là chính nhân quân tử à?”

Tịch Tà thấy Thẩm Phi Phi bị trói đã lâu, Minh Châu lại không chịu hỏi chuyện tử tế, vì vậy tiến lên cười nói: “Anh Thẩm, có chuyện gì thì từ từ nói, tôi cởi trói cho anh trước được không?”

“Không được!” Trong cửa ngoài cửa bỗng có hai tiếng quát to.

Không cần phải nói, Minh Châu đã đỏ mặt nhìn Tịch Tà hầm hầm. Ngoài cửa lại có một tiếng nói giống như ánh dương phá mây ra, bổ vào trong phòng. Một thanh niên ăn mặc lam lũ đeo trường kiếm sải bước tiến đến: “Các người là ai mà muốn thả kẻ cắp này chạy trốn?” Anh chàng này mặt mày ngăm ngăm, lông mày rậm thẳng tắp đen như mực, trợn to đôi mắt sáng ngời. Lúc y lớn tiếng nói chuyện thì bừng bừng tản ra dã tính phẫn nộ khiếp người như báo đốm, ngay cả Tịch Tà cũng phải lùi lại một bước, cười nói: “Vị huynh đài này chớ hiểu lầm, hai người bọn tôi không đến vì anh Thẩm.”

Thẩm Phi Phi ở bên rướm lệ nói: “Lẽ nào cô nương không đến vì nhớ tiểu sinh ư?”

“Thì ra các người là cùng một giuộc!” Chàng thanh niên chỉ quát một tiếng, người khác nghe thấy lại như tiếng mãnh thú rít gào, y bước lên một bước, rút kiếm đeo bên hông ra, nhắm ngay đầu Tịch Tà mà đâm.

Tịch Tà thấy y còn trẻ nên lỗ mãng, lên mặt nạt người thì không khỏi tức giận, ngón tay vọt ra lay động tay áo, kẹp mũi kiếm của y, nội kình giao nhau, có tiếng kim loại vang lên. Tịch Tà kinh ngạc nhìn thanh niên kia, chợt thấy trường kiếm trong tay y gỉ sét loang lổ, rộng gấp hai thân kiếm bình thường, đầu kiếm chỉ là cành cây cao su được vót thành, còn chẳng thèm sơn. Ý nghĩ chợt loé lên trong lòng, hắn thu tay lại nhẹ nhàng dịch sang bên, lớn tiếng nói: “Không phải anh đang tìm Tịch Tà à?”

Đối với chàng thanh niên đó mà nói, hai chữ “Tịch Tà” giống như một câu chú, kiếm của y bỗng dừng giữa không trung, vẻ tàn bạo trên mặt đột ngột biến thành nụ cười xán lạn. Y ném kiếm lên bàn, chạy tới chế trụ hai vai Tịch Tà, nói: “Anh biết Tịch Tà?” Hai tay y rất khỏe, chỉ nghe xương bả vai Tịch Tà kêu lên răng rắc.

Minh Châu lạnh lùng nói: “Anh bóp chết ngài ấy rồi thì không còn ai biết Tịch Tà nữa đâu.”

Lúc này chàng trai mới buông tay ra, ngượng ngùng cười nói: “Xin lỗi.”

Tịch Tà xoa xoa bả vai, thấy nụ cười hồn nhiên ngây thơ của y với vẻ đằng đằng sát khí mới nãy tưởng như hai người thì mỉm cười: “Tại hạ Khu Ác, có chút tình cảm qua lại với Tịch Tà. Tên họ của huynh đài là?”

Chàng thanh niên toét miệng cười nói: “Tôi tên Lý Sư.”

Tịch Tà gật đầu, ánh mắt lưu luyến trường kiếm trên bàn: “Xin hỏi anh Lý học từ vị cao nhân nào?”

Lý Sư “ha” một tiếng: “Trước tiên chưa nói việc này vội. Tịch Tà đó ngụ ở chỗ nào? Làm sao anh biết tôi đang tìm hắn?”

Tịch Tà chưa từng thấy người bộc trực như thế, ngẩn người bảo: “Anh Lý đi khiêu chiến võ cử nhân khắp nơi, nói muốn tìm Tịch Tà, tại hạ cũng mới biết mấy ngày nay thôi.”

Lý Sư hướng về phía Thẩm Phi Phi cười nói: “Đầu óc anh vẫn rất có ích đấy, nhờ có anh đưa ra ý kiến này, vị Khu, Khu…”

“Khu Ác.” Tịch Tà vội hỏi.

“Đúng, nếu không sao Khu Ác lại tìm tới cửa chứ?”

Thẩm Phi Phi cười khan một tiếng: “Quá khen.”

Tịch Tà bảo: “Tại hạ cũng không rõ Tịch Tà hiện ở nơi nào, nhưng sai người truyền lời không khó.”

“Vậy thì tốt.” Lý Sư mừng lắm. Tịch Tà sợ y ở gần thì lại tóm chặt lấy mình, bèn vội vàng lui lại một bước. “Anh nói với hắn, thầy Thất Bảo của tôi khen rằng võ công của hắn vượt xa tôi. Cùng một thầy dạy, tôi không tin hắn có thể mạnh hơn tôi bao nhiêu. Hãy hẹn một ngày, tôi muốn đọ sức với hắn một phen.”

Mặc dù Tịch Tà đã có dự cảm nhưng đợi khi nghe thấy Lý Sư nói ra tin tức của thái giám Thất Bảo, vẫn rất mừng rỡ: “Giờ thầy ở nơi nao? Thầy có khỏe chăng?”

“Không biết.” Lý Sư lắc đầu, “Thầy dạy võ cho tôi hơn một năm, sau đó thì không thấy tăm hơi. Anh cũng biết thầy tôi à?”

Sự hân hoan của Tịch Tà bị y dội một chậu nước lạnh, hắn vuốt ve trường kiếm trên bàn, run giọng nói: “Tôi chịu ơn thầy Thất Bảo nhiều lắm, vượt xa suy nghĩ của người bình thường.”

Lý Sư cười nói: “Vậy là tốt rồi, chúng ta không phải là người ngoài! Để tôi gọi rượu và thức ăn tới, ăn mừng đôi ta quen biết.”

Tịch Tà và Minh Châu kinh ngạc, vội lắc tay nói: “Rượu và thức ăn thì không cần, sao dám phiền anh tiêu pha?”

Lý Sư trỏ vào Thẩm Phi Phi bảo: “Tôi không có gì, kẻ tiêu pha chính là tên trộm này.”

Thẩm Phi Phi cười nói với Minh Châu: “Chỉ cần cô nương chịu ở lâu thêm một lát, tiểu sinh tiêu pha thì có sao?”

“Thực sự không cần!” Tịch Tà nói, “Không có công không nhận lộc, đợi tại hạ tìm được Tịch Tà, truyền lời thay anh Lý rồi hai ta lại tụ họp cũng không muộn.”

Lý Sư thấy Tịch Tà đã lộ ra ý từ chối bèn kéo hắn lại, bảo: “Gượm đã! Chúng ta không uống rượu cũng được, anh hãy nói cho tôi biết, rốt cuộc võ công của Tịch Tà đó như thế nào.”

Tịch Tà nhớ lại vừa rồi mình đã để lộ ý muốn ra tay, nội lực cả hai giao nhau nhưng Lý Sư này lại như thể không hề hay biết, thực sự không mò ra nội tình của hắn, suy nghĩ một lát mới nói: “Chắc là cũng hàng anh em[2] với anh Lý.”

Lý Sư đỏ mặt lên, hết sức ngượng ngùng. Tịch Tà và Minh Châu nhìn thấy thế thì rất hoài nghi, chỉ nghe hắn nói: “Cũng hàng anh em là có ý gì?”

Tịch Tà nói: “Tức là ngang tài, không chênh nhau nhiều.”

“À!” Lý Sư bừng tỉnh, “Vậy thì tốt.”

Thẩm Phi Phi ở bên ho một tràng dữ dội, đưa mắt ra hiệu cho Tịch Tà, có ý cầu xin. Tịch Tà ngầm hiểu, cười nói: “Anh Thẩm này cũng là nhân vật có tiếng tăm lừng lẫy trên giang hồ mà còn sẩy tay dưới kiếm anh Lý thì có thể tưởng tượng được võ công của anh Lý ắt phải tuyệt diệu, trận này tất được phần thắng. Không biết hai vị quen biết ở đâu?”

Lý Sư cả giận nói: “Quen biết gì chứ!” Lúc tức giận, y lại mang dáng vẻ dạ xoa Kim Cang, Thẩm Phi Phi không khỏi sợ run cả người, “Tên trộm này to gan lớn mật, chòng ghẹo con gái của bác Hồ ở trang bọn tôi, tôi từ đuổi theo gã hai nghìn dặm từ Bạch Dương đến kinh mới tóm được gã. Chờ việc ở kinh xong xuôi, tôi sẽ dẫn gã về dập đầu nhận sai với cô nương kia.”

Minh Châu nghe vậy thì cười nhạt. Thẩm Phi Phi sợ đến mức sắc mặt tái nhợt, há mồm vừa định giải thích thì Lý Sư đã trách mắng gã: “Anh câm miệng!”

“Thì ra anh Lý tới từ Bạch Dương.” Tịch Tà gật đầu nói, “Nguyên quán của anh Lý là Bạch Dương à?”

“Hồ gia trang, huyện Hắc Phần, phủ Đại Sam, Bạch Dương!” Lý Sư lại nhếch môi nở nụ cười. Đối với chàng thanh niên này, sau khi bôn ba hai nghìn dặm nước non như tranh vẽ, cố hương dê bò khắp đất, cỏ thơm nối trời vẫn là một nơi mỹ lệ đa tình.

“Đất Bạch Dương lắm hào kiệt!” Ánh mắt Tịch Tà lại dừng trên chuôi kiếm ỉ ấy, “Chẳng trách anh Lý biết dùng thanh kiếm to nặng như thế.”

Lý Sư nói: “Kiếm này không phải của tôi.”

“Ồ?”

“Là kiếm thầy tôi để lại lúc sắp đi. Thành thật mà nói, kiếm to như vậy, tôi dùng cũng không thuận tay.”

“Thế thì khó rồi. Tịch Tà toàn dùng vũ khí quý giá, anh Lý nên sớm chuẩn bị binh khí cho trận quyết chiến này đi.”

“Sao lại nói thế?”

“Thợ muốn khéo thì phải có khí cụ bén nhọn trước.” Tịch Tà vuốt thanh kiếm ỉ của Lý Sư, cười nói.

“Có ý gì?” Lý Sư trợn to hai mắt, mù mịt không hiểu.

Minh Châu tức giận trợn trắng với Tịch Tà, nói: “Ý của lục gia là muốn mổ lợn thì phải mài dao trước, kiếm của anh không dùng được nữa rồi.”

“Nói vậy từ sớm thì không phải tôi đã hiểu rồi sao?”

“Đần độn như vậy, chỉ có thể nói lời thô tục cho anh nghe thôi.”

Tịch Tà biết nàng còn đang giận mình, mắng mình một câu thì thôi, còn giận chó đánh mèo lên Lý Sư, chỉ đành nhẹ nhàng nói: “Minh Châu…”

Lý Sư vội hỏi: “Minh Châu lại là gì nữa?”

Minh Châu cả giận nói: “Minh Châu chính là tôi!”

Thẩm Phi Phi trầm mặc không nói hồi lâu ở bên cạnh bỗng nhảy bật lên, vẻ vui mừng lộ rõ trên nét mặt: “Thì ra khuê danh của cô nương là ‘Minh Châu’…”

“Anh đừng có lắm lời nữa.”

“Vâng.” Thẩm Phi Phi bị một câu lạnh lùng của Minh Châu dọa cho tái mặt, cúi đầu ngậm miệng không nói như cũ.

Tịch Tà bảo: “Chi bằng tại hạ tìm một thanh kiếm báu tặng cho anh Lý. Được chăng?”

Lý Sư ngạc nhiên nói: “Vì sao? Tại sao tôi phải chiếm hời của anh?”

Tịch Tà bật cười bảo: “Cái tên Tịch Tà này tự phụ lắm, nếu anh Lý mà cầm thanh kiếm này quyết chiến với hắn thì trong lòng hắn tất nhiên không thích, dưới cơn nóng giận, chưa biết chừng sẽ dừng tay không đấu nữa. Anh Lý và Tịch Tà đều coi là bạn của tại hạ, càng nên quyết chiến công bằng.”

Lý Sư gật đầu nghiêm túc nói: “Không sai, tôi cũng không muốn để hắn cảm thấy tôi coi thường hắn.”

“Thanh kiếm này cầm hơi nặng tay, anh Lý cảm thấy trọng lượng thế nào?”

“Trọng lượng vừa vặn.”

“Vậy xin anh Lý tặng thanh kiếm này cho, tại hạ sai người tìm một món vũ khí báu khác theo trọng lượng kiếm này, cho dù tặng kiếm cũng không nợ nhau.”

Lý Sư hài lòng cười bảo: “Thật sự cảm ơn anh.”

“Vậy thì trước khi quyết chiến, anh Lý đừng tìm võ cử nhân gây chuyện nữa.”

“Việc này không cần anh nói, những người đó đều chỉ giỏi múa may chứ chẳng thú vị gì.”

“Được!” Cuối cùng Tịch Tà cũng yên tâm, “Nơi đây là đất thị phi, anh Lý và anh Thẩm đừng ở nữa, tôi sẽ sai người mời hai vị đến ngụ ở nơi khác. Nếu tôi có được tin của Tịch Tà thì sẽ đến đó tìm hai vị.”

“Ở đây không tốt sao?” Lý Sư ngắm nhìn bốn phía.

“Không tốt!” Tịch Tà chặn lời gã. Thẩm Phi Phi là một người ham thích an nhàn, đã chê nơi này đơn sơ bẩn thỉu từ lâu, nghe Tịch Tà nói như thế thì liên tục gật đầu. Tịch Tà mỉm cười với gã, “Không cần phải nhốt anh Thẩm này nữa đâu, mấy ngày nữa cô nương Minh Châu và tại hạ còn đến thăm, chắc hẳn anh Thẩm sẽ ở cùng với anh Lý đúng chứ?”

“Dạ dạ dạ!” Thẩm Phi Phi mừng quýnh, “Tiểu sinh sẽ đi theo Lý Sư, y đi hướng đông, tiểu sinh quyết không đi hướng tây.”

Tịch Tà nói: “Nếu anh ta chạy trốn thì tại hạ sẽ chịu trách nhiệm bắt anh ta về giao cho anh Lý xử trí.”

Lý Sư nhíu mày suy nghĩ: “Được, tôi tin anh.”

Minh Châu tức giận hừ một tiếng, xoay người đi mất. Tịch Tà nói câu cáo từ, dùng tay nải cuốn thanh kiếm ỉ rồi vội vã đuổi theo. Hai người thuê xe ở trước cửa mà trở về. Tịch Tà vỗ thanh kiếm gỉ trong lòng, yên lặng xuất thần. Minh Châu ở bên lạnh lùng nói: “Lục gia hẹp hòi quá! Chỉ vì thanh kiếm này là đồ mà Thất Bảo công công từng sử dụng mà Lục gia đã dùng năng lực đội trời đạp đất để lừa được từ trong tay tên nhóc kia mà không thấy thẹn.”

Tịch Tà cười bảo: “Người hiểu tôi chỉ có Minh Châu. Tôi tiểu nhân thế nào chỉ có cô biết thôi.” Hắn nhìn Minh Châu đỏ mặt quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, thầm thở dài vì mình buột miệng. Hai người xấu hổ trầm mặc trở lại cửa cung, Tịch Tà giao kiếm cho Khương Phóng, sai anh ta mang vào cung. Mãi đến lúc sắp ăn cơm tối, Khương Phóng mới có thời gian đưa kiếm tới viện Cư Dưỡng.

“Một thanh kiếm nặng thật hay!”

Tịch Tà nói: “Anh hãy chọn một món vũ khí sắc bén hạng nhất từ nhà kho theo trọng lượng của thanh kiếm này và một ngàn lượng bạc rồi đưa đến người tên Lý Sư ở hàng bính chữ thiên của Hồng Vận Lai, bảo y đêm nay lập tức dọn nhà.”

“Hồng Vận Lai?” Khương Phóng líu lưỡi nhíu mày, “Lý Sư là ai, không có gì quan trọng thì tôi không muốn trêu chọc vào người của Hồng Vận Lai đâu.”

Tịch Tà sa sầm mặt mày, nói: “Chính y là kẻ gần đây hay khiêu chiến đâm bị thương võ cử nhân, còn báo tên của ta đấy. Nếu không phải là học trò cuối cùng của thầy tôi…”

“Thái giám Thất Bảo?” Khương Phóng chỉ cảm thấy trong đó dây mơ rễ má, khó thấy điểm cốt yếu.

Tịch Tà nói rõ gốc ngọn với anh ta, rằng: “Kẻ này nhằm vào ta, anh không cần dính dáng vào trong. Anh lại bảo thầy hai phía tây dò la về một ông lão họ Hồ ở Hồ gia trang, huyện Hắc Phần, phủ Đại Sam, Bạch Dương, xem cha con ông ta có quan hệ gì với Thẩm Phi Phi.”

Khương Phóng nói: “Vâng. Nhưng trước giờ thái giám Thất Bảo mưu tính sâu xa, chủ nhân phải cẩn thận xử trí việc này.”

Hôm nay Minh Châu cũng có mặt, thấy Tịch Tà tươi cười nói với Lý Sư, chẳng ngờ lúc đó hắn đã nảy sinh ý muốn giết Lý Sư thì giá rét rùng mình. Mãi đến khi Khương Phóng tuân lệnh bỏ đi, nàng vẫn cảm thấy Tịch Tà u ám đáng sợ lạ thường, bèn nói lảng sang chuyện khác: “Lục gia, nghe hai người nói như vậy, Hồng Vận Lai là hắc điếm ư?”

Tịch Tà phì cười: “Không phải! Hồng Vận Lai là cơ sở ngầm của Đại Lý đóng ở trung nguyên, từ chưởng quầy đến tiểu nhị đều là nhân vật lợi hại, chỉ sợ hành động của Lý Sư đã không giấu được bọn chúng từ lâu rồi. Cô không cảm thấy tiểu nhị hôm nay khó chơi hơn tiểu nhị của tiệm bình thường à? Nếu không phải gã tưởng chúng ta là người trong nha môn, không muốn rước thêm thị phi thì đã không nói thật rồi.”

“Ồ!” Minh Châu nói, “Mải nói chuyện, quên dọn cơm rồi.” Nàng bèn gọi Tiểu Thuận Tử bưng đồ ăn lên, ăn được hai miếng, đột nhiên oán giận rằng: “Lục gia, chuyện Lý Sư cũng cho qua nhưng tại sao còn muốn lo tên Thẩm Phi Phi không đâu đó? Kẻ phóng đáng giống như gã, chi bằng để Lý Sư một kiếm kết liễu cho lành.”

Tịch Tà đáp: “Lý Sư bản tính hồn nhiên, võ công cao tới đâu cũng không phải đối thủ của Thẩm Phi Phi. Đừng thấy Thẩm Phi Phi cố chấp ở việc kia mà cho gã là kẻ điên điên khùng khùng, thật ra người này trẻ tuổi như vậy đã nổi danh từ lâu thì ắt có chỗ thông minh giảo tuệ. Chỉ nói ý kiến mà gã đưa ra cho Lý Sư thôi – khiêu chiến võ cử nhân để ép tôi ra mặt, chắc chắn là muốn mượn tay võ cử nhân diệt trừ Lý Sư, còn mình thì thoát thân. Ha ha…” Tịch Tà lắc đầu cười nhạt, “Đúng là bụng dạ nham hiểm, nếu gặp cơ duyên thì mai rày tất thành châu báu. Nếu gã thật lòng thật dạ với cô thì vẫn có thể xem là xứng đôi vừa lứa.”

Minh Châu đỏ mặt sẵng giọng: “Lục gia nói bậy gì đó? Cái loại trộm này võ công thấp kém, mặt mày gian xảo mà cũng xứng!”

Tịch Tà nói: “Tuy võ công Thẩm Phi Phi đó không bằng cô nhưng cũng tính là cao thủ hàng đầu, ngoại hình phong lưu phóng khoáng, tôi thấy cũng không tệ.”

Minh Châu nói: “Phải, gã tuấn tú lịch sự, ai thích ai thì tự đi mà lấy gã, chớ nhiều lời ở trước mặt tôi.”

Tịch Tà cười bảo: “Cô không còn nhỏ nữa, cứ ở mãi trong cung không phải là cách, chi bằng mau chóng về Hàn châu lập gia đình đi thôi.”

Minh Châu nói: “Lục gia cứ nói đến chỗ này là lại con cà con kê.”

“Cô vừa nghe đến chỗ này là lại qua loa lấy lệ, chẳng lẽ đã có người trong lòng, chỉ chờ hắn tới lấy cô về nhà?”

Minh Châu mỉm cười, nói: “Trong lòng người tôi yêu chỉ có nghiệp lớn của thiên hạ, trước giờ chưa từng nhìn thẳng vào tôi. Tôi hết lòng hết dạ hầu hạ chàng, chàng lại chỉ tưởng đến chuyện sớm ngày gả tôi đi…”

Tịch Tà giật nảy mình, lỡ đánh rơi chén rượu trong tay, nhìn Minh Châu với sắc mặt trắng bệch. Minh Châu nhanh tay, chộp lấy chén rượu, phì cười: “Lục gia uống rượu, nói đùa không coi là thật đâu.”

Sắc mặt Tịch Tà hơi khá hơn một chút, vội vàng dời ánh mắt sang bên cạnh, nhận lấy chén rượu, bảo: “À, vậy thì tốt.”

Tiểu Thuận Tử chẳng ừ chẳng hử, cứ vùi mặt vào trong bát mà lùa cơm. Tịch Tà nói với cậu: “Con không cần cố làm ra vẻ, con đang thầm cười trên nỗi đau của người khác, ta không nhìn ra được chắc?”

Tiểu Thuận Tử nói: “Thầy chớ mắng con! Con chỉ giận thầy cảnh tượng hôm nay náo nhiệt như vậy mà thầy chẳng dẫn con đi, mở mang tầm mắt. Nếu con ở đó thì sẽ quất tên Thẩm Phi Phi vài cái trước, chị Minh Châu cần gì tức đến tận tối?”

“Miệng ngọt ghê!” Tịch Tà không nhịn cười được, “Con muốn đi ra ngoài chơi thì cơ hội ngay trước mắt đấy. Ngày mai con theo ta đi một chuyến đến chủa Đông Hoằng Nguyện.”

“Chùa Đông Hoằng Nguyện?” Minh Châu hỏi.

“Chỗ cô gặp phải Lý Sư tối hôm qua chính là chùa Đông Hoằng Nguyện. Tôi vẫn chưa dò ra võ công của tên Lý Sư này rốt cuộc thế nào, bên kia đã có người từng đấu với y nên tôi đi hỏi thử.”

Chùa Đông Hoằng Nguyện là chùa cổ nghìn năm, cùng chùa Tây Hoằng Nguyện được gọi là “viện chính của thiền gia”, ngoài ra trụ trì là đại sư Bi Tịch từng được tiên đế phong làm quốc sư, chùa chiền bình thường không thể sánh nổi. Chùa này qua lại rất gần gũi với quan lại nên có mấy võ cử nhân ở nhờ cũng chẳng phải chuyện hiếm lạ gì. Tịch Tà không dám lỗ mãng, lấy thân phận nội thần đến đó cùng Tiểu Thuận Tử. Sau khi thắp hương, hắn tự xưng là Khu Ác, chỉ nói phụng lệnh của đại thái giám trong cung tới thăm con em của bạn cũ. Tiều tăng di thường thấy cảnh tượng hoành tráng, không coi Tịch Tà ra gì, cũng chẳng báo cho nhà sư lo việc biết đã để họ đi ra sương phòng sau viện đông tự tìm người quen. Tịch Tà tới trước cửa viện đông, đi qua ba người trẻ tuổi. Trong viện còn có một người trẻ bị lạnh nhạt đang đọc sách dưới mái hiên, anh ta ngẩng đầu trông thấy Tịch Tà tiến đến thì đặt sách xuống chắp tay nói: “Vị công công này có việc gì thế?”

Người trẻ tuổi này thần sắc nho nhã, hình dáng đoan trang, giống như đã từng quen biết. Tịch Tà nói: “Tại hạ Khu Ác, là người của cục Châm Công trong cung. Tổng tọa trong cục nghe nói nơi này có võ cử nhân bị thương, lo không biết có phải con em của bạn cũ không nên bảo nô tỳ đến xem.”

Chàng thanh niên đáp lễ nói: “Tiểu nhân Lục Quá và mấy anh bạn cùng ở đây đều là người núi Đô Quốc, không biết công công tìm người họ gì?”

Tịch Tà than thở: “Núi Đô Quốc? Vậy thì không phải. Mấy ngày này có người làm loạn, đã quấy nhiễu đến tai thánh, tổng tọa muốn nô tỳ tới hỏi thăm ngọn nguồn, may ra còn có cái thưa với vạn tuế gia. Bây giờ thăm hỏi người bị thương, không biết có tiện không?”

Lục Quá gật đầu mời Tịch Tà vào nhà, người thanh niên bị thương mới uống thuốc giảm đau, đang ngủ mê man. Lục Quá vén chăn lên, chỉ vào cánh tay trái của gã nói: “Đã cầm máu một ngày, vết thương cũng liền rồi, không nghiêm trọng lắm.”

Tiểu Thuận Tử tiến lên cởi băng vải ra để Tịch Tà nhìn kỹ. Tịch Tà nhớ hôm qua Lý Sư đâm mình một kiếm, kiếm pháp có cái uy của sấm sét hệt như tính cách y vậy. Bây giờ nhìn vết thương này chỉ dài ba, bốn tấc trên da thịt cánh tay, cũng biết nội lực kiếm pháp của y đã đến cảnh giới thu phóng tự nhiên, không thể xem nhẹ.

Mọi người lui ra, Tịch Tà hỏi tình cảnh đêm đó. Lục Quá đáp: “Kiếm pháp của người nọ rất cao, nhưng làm việc lỗ mãng, chắc là nhằm vào cái danh võ cử nhân của bọn tại hạ. Thoạt nhìn thì thấy chiêu kiếm của y bình thường không có gì lạ, nhưng thật ra nhanh như tia chớp, uy lực cực lớn, chắc là kiếm pháp nội gia.”

Tịch Tà thầm lấy làm lạ, với tuổi tác và xuất thân của Lục Quá, kẻ có thể nhìn ra được kiếm pháp nội gia thật sự không nhiều, trong lòng đã nhìn anh ta với con mắt khác.

Lục Quá nói tiếp: “Đồng bạn này của tại hạ đánh nhau mấy chục hiệp với y, vô ý để y đâm bị thương cánh tay trái. Người nọ sợ những người khác cùng tái chiến, bèn lập tức chạy trốn trước.”

“Y có nói gì không?”

“Việc ấy thì không.”

Theo tình cảnh Minh Châu thuật lại đêm ấy, chỉ sợ trong những người này không có một ai có thể qua ba hiệp dưới kiếm Lý Sư. Trong chuyện tiết tháo này, Lục Quá không hề che giấu, chỉ thổi phổng võ công Lý Sư lên thật cao, còn nói cuối cùng y bỏ chạy, uyển chuyển bảo toàn thể diện thay người mình. Hiếm có hơn, anh ta giấu nhẹm không đề cập đến câu nói quan trọng kia của Lý Sư, bớt đi rất nhiều thị phi. Tịch Tà không kìm được muốn khen anh ta am hiểu sâu sắc đạo làm tướng, tâm trí trưởng thành sớm, vượt xa tuổi tác.

Tịch Tà hỏi: “Lúc đo Lục công tử có từng so chiêu với người nọ chưa?”

Lục Quá mỉm cười: “Không ạ. Tại hạ đến kinh thành để cầu lấy công danh, sắp tới thi hội, lúc này lỡ mà bị thương thì với nước với nhà với bản thân đều không có chỗ ích lợi gì. Hơn nữa hoàng thượng thánh minh, mở lại khoa võ, nếu bỏ qua thi hội thì quả thật đã phụ ơn thánh. Vả, chúng tôi xuất thân là con em võ tướng, tập luyện bắn cung cưỡi ngựa, chuyện kiếm pháp này vốn không phải là sở trường của chúng tôi. Nếu võ công người nọ đã cao, lại có chuẩn bị mới đến, bọn tôi tranh hơn thua với y thì chắc chắn không có phần thắng. Lúc đó tại hạ vẫn khuyên bảo mấy anh bạn, đáng tiếc ai nấy đều có lòng háo thắng…” Lục Quá nói đến đây thì vội ngừng lại, “Cũng may chỉ có một người bị thương nhẹ, không đáng ngại lắm.”

Tịch Tà gật đầu nói phải, chào rồi về cung. Lúc đó sách luận của năm võ cử nhân đứng đầu kỳ thi hương của các nơi đến tay Tịch Tà từ lâu, vì tán thưởng Lục Quá, Tịch Tà cố ý lật cuốn này ra xem. Quả nhiên tên thứ hai của vùng núi Đô Quốc là tên Lục Quá, hai tờ sách luận đều rất đặc sắc, lại xem dòng dõi y kể, thì ra là em thơ của Lục Tuần – tham tướng hiện canh giữ đường Đông Hải. Tịch Tà không khỏi mỉm cười, lấy ra một cuộn da trắng mới tinh, cẩn thận chép tên Lục Quá lên hàng đầu tiên.
[1] chức quan cảnh vệ đời Đường, đời Ngũ Đại và đầu đời Tống, thường lấy con em của đại thần vào chức quan này, sau này dùng để chỉ con em quan lại, thường thấy trong Bạch thoại thời kỳ đầu

[2] Tiếng Trung là 不相伯仲, ý là ngang hàng nhau. 伯仲 nghĩa là thứ tự anh em trên dưới, chỉ anh em, rộng ra là chỉ những vật ngang hàng.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play